Đề tài gồm 3 phần:
Phần I: Khái quát chung về kiểm toán
Phần II: Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán tại Việt Nam
Phần III|: Những kiến nghị để nâng cao trách nhiệm của kiểm toán
Phần I: Khái quát chung về Kiểm toán
I. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán trên thế giới và tại Việt Nam
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán trên thế giới
Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, Kiểm toán ra đời vào thế kỷ thứ III TCN, gắn liền với nền văn minh của Ai Cập và La Mã cổ đại.
Ở thời kỳ đầu Kiểm toán chỉ hình thành ở mức độ sơ khai với tên gọi là Kiểm toán cổ điển. Biểu hiện là những người làm công việc ghi chép kế toán đọc to lên những số liệu, tài liệu kế toán cho một bên độc lập nghe và sau đó chứng thực. Vì vậy từ “AUDIT” trong tiếng Anh có gốc từ Latinh “ Audire" có nghĩa là nghe.
Cùng với sự phát triển của xã hội và sự phát triển của kế toán là sự phát triển không ngừng của công cụ kiểm soát về kế toán. Ở đâu có hoạt động của con người ở đó có hoạt động kiểm tra, kiểm soát, ở đâu có kế toán ở đó có kiểm tra kế toán.
Kiểm tra kế toán phát triển từ thấp đến cao, xã hội phát triển xuất hiện của cải dư thừa, hoạt động kế toán ngày càng được mở rộng và càng phức tạp thì kiểm tra, kiểm soát về kế toán và tài chính ngày một được quan tâm với mức độ cao.
Từ thời kỳ cổ đại, kế toán được thực hiện chủ yếu bằng những dấu hiệu riêng trên các sợi dây, thân cây, lá cây. Hình thức này phù hợp với giai đoạn đầu của thời kỳ cổ đại do xã hội còn chưa có của cải dư thừa, nhu cầu kiểm tra của quản lý còn ít và ở mức độ đơn giản.
Đến cuối thời kỳ cổ đại, sản xuất đã phát triển, của cải dư thừa ngày càng nhiều, người sở hữu và người quản lý tài sản tách rời nhau. Nhu cầu kiểm tra tài sản và các khoản thu, chi ngày càng phức tạp, hình thức kế toán giản đơn không còn đáp ứng được yêu cầu quản lý. Vì vậy kiểm tra độc lập đã phát sinh trước hết ở La Mã, Pháp và Anh.
Ở La Mã, vào thế kỷ thứ III TCN các nhà cầm quyền (người sở hữu tài sản) đã tuyển dụng các quan chức có chuyên môn và độc lập để kiểm tra các báo cáo của người quản lý về tình hình tài sản của họ và đưa ra ý kiến chấp nhận hoặc yêu cầu sửa đổi các báo cáo này. Hình thức kiểm tra được thực hiện bằng cách người quản lý đọc to các báo cáo cho người kiểm tra độc lập nghe rồi chấp nhận.
Ở Pháp, vua Charlemagne cũng theo tiền lệ của La Mã đã tuyển các quan chức cao cấp phụ trách giám sát công việc quản lý, đặc biệt là các nghiệp vụ tài chính của các quan chức địa phương và trình bày lại kết quả với Hoàng đế hoặc các vị cận thần.
Ở Anh, theo văn kiện của Nghị viện, vua Edouard đệ nhất cho các Nam tước quyền tuyển dụng kiểm toán viên (Auditors), bản thân vua cũng cho đối chiếu lại các tài khoản thuộc di chúc của cố Hoàng hậu Elonor.
Từ trung đại trở đi, đã có sự hoàn thiện và phát triển dần của kế toán, chẳng hạn với các khoản giao dịch đã buộc cả 2 bên cùng ghi sổ, do đó phát sinh quan hệ đối chiếu như một hình thức kiểm tra kế toán.
Đặc biệt từ thế kỷ XVI trở đi, sự xuất hiện của kế toán kép do một nhà toán học người Ý là Luca Paciola đã khiến cho phương pháp tự kiểm tra của kế toán hoàn thiện hơn, đã đáp ứng đủ nhu cầu quản lý và an toàn tài sản lúc bấy giờ.
Từ thế kỷ XVII – XX, các phương pháp kế toán và kỹ thuật thông tin phát triển đến mức tinh xảo đã đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của quản lý.
Đến năm 30 của thế kỷ XX xuất hiện sự phá sản của các tổ chức tài chính và khủng hoảng kinh tế, suy thoái về tài chính chức năng kiểm tra kế toán mới bộc lộ những nhược điểm, đòi hỏi phải có sự kiểm tra ngoài kế toán và kiểm toán được phát triển trở
.
28 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 14746 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kiểm toán là một hoạt động không thể thiếu trong quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường nhằm nâng cao chất lượng thông tin, giúp người sử dụng ra quyết định thích hợp. Một nền kinh tế phát triển lành mạnh với kênh cung cấp vốn từ thị trường chứng khoán và ngân hàng đòi hỏi phải được cung cấp các dịch vụ kiểm toán có chất lượng cao.
0Xã hội ngày càng phát triển, nền kinh tế ngày càng phức tạp, thông tin kinh tế càng có nguy cơ chứa đựng rủi ro, sai lệch, thiếu tin cậy. Đối tượng quan tâm đến thông tin tài chính của doanh nghiệp không phải chỉ có Nhà Nước mà còn có các cấp quản lý, đối tác liên doanh và cả người lao động… Tuy từ nhiều gốc độ khác nhau nhưng tất cả các đối tượng quan tâm đều có nguyện vọng chung là sử dụng thông tin có độ tin cậy cao, độ chính xác và trung thực. Nếu tất cả những người quan tâm đều phải tự tổ chức kiểm tra các thông tin tài chính của doanh nghiệp thì chi phí quá lớn. Vì vậy cần thiết phải có tổ chức độc lập, khách quan tiến hành kiểm tra các thông tin này để đáp ứng yêu cầu của nhiều đối tượng sử dụng thông tin, đó chính là tổ chức kiểm toán.
Xuất phát từ những đặc điểm trên nên em đã chọn đề tài “Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán”. Đề tài của em gồm 3 phần:
Phần I: Khái quát chung về kiểm toán
Phần II: Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán tại Việt Nam
Phần III|: Những kiến nghị để nâng cao trách nhiệm của kiểm toán
Phần I: Khái quát chung về Kiểm toán
I. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán trên thế giới và tại Việt Nam
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán trên thế giới
Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, Kiểm toán ra đời vào thế kỷ thứ III TCN, gắn liền với nền văn minh của Ai Cập và La Mã cổ đại.
Ở thời kỳ đầu Kiểm toán chỉ hình thành ở mức độ sơ khai với tên gọi là Kiểm toán cổ điển. Biểu hiện là những người làm công việc ghi chép kế toán đọc to lên những số liệu, tài liệu kế toán cho một bên độc lập nghe và sau đó chứng thực. Vì vậy từ “AUDIT” trong tiếng Anh có gốc từ Latinh “ Audire" có nghĩa là nghe.
Cùng với sự phát triển của xã hội và sự phát triển của kế toán là sự phát triển không ngừng của công cụ kiểm soát về kế toán. Ở đâu có hoạt động của con người ở đó có hoạt động kiểm tra, kiểm soát, ở đâu có kế toán ở đó có kiểm tra kế toán.
Kiểm tra kế toán phát triển từ thấp đến cao, xã hội phát triển xuất hiện của cải dư thừa, hoạt động kế toán ngày càng được mở rộng và càng phức tạp thì kiểm tra, kiểm soát về kế toán và tài chính ngày một được quan tâm với mức độ cao.
Từ thời kỳ cổ đại, kế toán được thực hiện chủ yếu bằng những dấu hiệu riêng trên các sợi dây, thân cây, lá cây. Hình thức này phù hợp với giai đoạn đầu của thời kỳ cổ đại do xã hội còn chưa có của cải dư thừa, nhu cầu kiểm tra của quản lý còn ít và ở mức độ đơn giản.
Đến cuối thời kỳ cổ đại, sản xuất đã phát triển, của cải dư thừa ngày càng nhiều, người sở hữu và người quản lý tài sản tách rời nhau. Nhu cầu kiểm tra tài sản và các khoản thu, chi ngày càng phức tạp, hình thức kế toán giản đơn không còn đáp ứng được yêu cầu quản lý. Vì vậy kiểm tra độc lập đã phát sinh trước hết ở La Mã, Pháp và Anh.
Ở La Mã, vào thế kỷ thứ III TCN các nhà cầm quyền (người sở hữu tài sản) đã tuyển dụng các quan chức có chuyên môn và độc lập để kiểm tra các báo cáo của người quản lý về tình hình tài sản của họ và đưa ra ý kiến chấp nhận hoặc yêu cầu sửa đổi các báo cáo này. Hình thức kiểm tra được thực hiện bằng cách người quản lý đọc to các báo cáo cho người kiểm tra độc lập nghe rồi chấp nhận.
Ở Pháp, vua Charlemagne cũng theo tiền lệ của La Mã đã tuyển các quan chức cao cấp phụ trách giám sát công việc quản lý, đặc biệt là các nghiệp vụ tài chính của các quan chức địa phương và trình bày lại kết quả với Hoàng đế hoặc các vị cận thần.
Ở Anh, theo văn kiện của Nghị viện, vua Edouard đệ nhất cho các Nam tước quyền tuyển dụng kiểm toán viên (Auditors), bản thân vua cũng cho đối chiếu lại các tài khoản thuộc di chúc của cố Hoàng hậu Elonor.
Từ trung đại trở đi, đã có sự hoàn thiện và phát triển dần của kế toán, chẳng hạn với các khoản giao dịch đã buộc cả 2 bên cùng ghi sổ, do đó phát sinh quan hệ đối chiếu như một hình thức kiểm tra kế toán.
Đặc biệt từ thế kỷ XVI trở đi, sự xuất hiện của kế toán kép do một nhà toán học người Ý là Luca Paciola đã khiến cho phương pháp tự kiểm tra của kế toán hoàn thiện hơn, đã đáp ứng đủ nhu cầu quản lý và an toàn tài sản lúc bấy giờ.
Từ thế kỷ XVII – XX, các phương pháp kế toán và kỹ thuật thông tin phát triển đến mức tinh xảo đã đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của quản lý.
Đến năm 30 của thế kỷ XX xuất hiện sự phá sản của các tổ chức tài chính và khủng hoảng kinh tế, suy thoái về tài chính chức năng kiểm tra kế toán mới bộc lộ những nhược điểm, đòi hỏi phải có sự kiểm tra ngoài kế toán và kiểm toán được phát triển trở lại.
Năm 1934, uỷ ban giao dịch chứng khoán đã được thành lập và quy chế về kiểm toán viên bên ngoài bắt đầu có hiệu lực. Đồng thời trường đào tạo kiểm toán viên công chứng của Hoa Kỳ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về báo cáo kiểm toán tài khoản của các công ty.
Năm 1941, viện Kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ (IIA) được thành lập đã đi vào hoạt động và đào tạo các kiểm toán viên nội bộ. Đồng thời viện đã xây dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ vào năm 1978.
Tại Pháp, việc kiểm tra một cách độc lập của những chuyên viên bên ngoài đã được xác lập và thông qua bởi đạo luật về các công ty thương mại ngày 24/07/1966. Đồng thời kiểm toán nội bộ ở Pháp cũng đã được hình thành chính thức vào những năm 60 của thế kỷ XX ở những công ty con thuộc tập đoàn ngoại quốc.
Từ lịch sử phát triển Kiểm toán, nhận thấy rằng Kiểm toán ra đời là do nhu cầu kiểm tra độc lập các số liệu kế toán và thực trạng tài chính của các doanh nghiệp. Trong quá trình phát triển Kiểm toán không chỉ giới hạn ở lĩnh vực kế toán tài chính mà được mở rộng sang các lĩnh vực kiểm soát, đánh giá cả hệ thống quản lý của doanh nghiệp; không chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp kinh doanh mà còn được mở rộng đến các đơn vị sự nghiệp công cộng với vấn đề đánh giá lại hiệu năng quản lý của các đơn vị này.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán tại Việt Nam
Ở Việt Nam, Kiểm toán nói chung cũng như kiểm tra kế toán nói riêng đã được quan tâm ngay từ khi bắt đầu xây dựng đất nước. Trước năm 1975, ở miền Nam nước ta đã có hoạt động Kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập dưới chế độ Việt Nam cộng hòa thời Mỹ Diệm.
Sau khi nước ta chuyển đổi cơ chế quản lý (năm 1986) từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, ngày 13/05/1991 Bộ tài chính đã kí hai quyết định thành lập hai công ty kiểm toán đầu tiên là công ty kiểm toán Việt Nam được thành lập lấy tên là VACO với 13 nhân viên và công ty dịch vụ kế toán Việt Nam với tên giao dịch ASC sau này đổi tên là công ty dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán – AASC (quyết định 639- TC/QĐ/TCCB ngày 14/09/1993). Số lượng công ty kiểm toán đã tăng lên đáng kể và loại hình công ty cũng đa dạng hơn, tính đến tháng 10/2006 ở Việt Nam đã có 81 công ty kiểm toán trong đó có 75 công ty đã đăng ký hoạt động tại BTC, gồm 3 DNNN (VACO, AASC, AISC) 4 công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài (P&C, HPMG, E&Y, Grant Thomtion), 1 công ty liên doanh, 5 công ty hợp danh, 123 công ty cổ phần và công ty TNHH.
Cùng với sự phát triển của kiểm toán độc lập, kiểm toán Nhà nước Việt Nam được thành lập theo NĐ số 70/CP ngày 11/07/1994 của chính phủ và đến ngày 13/08/2003 được thay bằng NĐ số 93/2003/NĐ-CP. Ngày 14/06/2005 luật kiểm toán Nhà Nước được Quốc hội ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006. Đến nay kiểm toán Nhà nước có 9 đơn vị kiểm toán khu vực : Khu vực I ( Hà Nội); Khu vực II (Vinh); Khu vực III (Đà Nẵng); Khu vực IV (TP HCM); Khu vực V (Cần Thơ); Khu vực VI (Hạ Long); Khu vực VII (Yên Bái); Khu vực VIII (Khánh Hòa); Khu vực IX (Tiền Giang).
Đồng thời kiểm toán nội bộ cũng đã được thành lập trong các doanh nghiệp có quy mô lớn như: Tổng công ty hàng không, bưu chính viễn thông, dầu khí, điện lực,...
II. Khái niệm Kiểm toán
1.Khái niệm
Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động tài chính bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.
2. Các yếu tố chính trong khái niệm Kiểm toán
2.1. Chủ thể Kiểm toán
Chủ thể Kiểm toán là các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền. Giữa các KTV và các nhà quản lý trong công ty không có mối quan hệ thân thiết với nhau. KTV cần phải giải quyết mâu thuẫn một cách thành thực, không lẫn trốn trách nhiệm của mình trước các cổ đông , phải độc lập về kinh tế cũng như độc lập về hoạt động nghiệp vụ. KTV hoạt động theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo hộ và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
2.2. Phương pháp Kiểm toán
Thu thập và đánh giá các bằng chứng. Bằng chứng là thông tin mà KTV sử dụng để xác định xem liệu thông tin đang được kiểm toán có được trình bày phù hợp với các chuẩn mực hay không.
2.3. Khách thể Kiểm toán
Khách thể Kiểm toán là các tổ chức, đơn vị, cá nhân… nơi có những thông tin cần kiểm toán. Tùy từng loại kiểm toán mà khách thể kiểm toán có sự khác nhau. Tổ chức kinh tế có thể là tổ chức pháp nhân như một DNNN, một công ty cổ phần, một công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân…Trong một số trường hợp đặc biệt tổ chức được xác định là một phân xưởng, cửa hàng hoặc thậm chí là một cá nhân.
Thời gian kiểm toán thường là 1 năm tuy nhiên cũng có trường hợp kiểm toán 1 kỳ, 1 quý, 1 tháng hoặc là vài năm và trong một số trường hợp là thời gian tồn tại của tổ chức đó.
2.4. Căn cứ Kiểm toán
Căn cứ thực hiện Kiểm toán đó là các chuẩn mực kiểm toán đã được thiết lập. Còn căn cứ để đánh giá đối tượng kiểm toán được chọn và sử dụng tùy theo mục tiêu của kiểm toán.
2.5. Báo cáo Kiểm toán
Đây là khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán. Tùy theo mục đích, tính chất của cuộc kiểm toán mà báo cáo kiểm toán đi từ báo cáo đơn giản đến phức tạp. Nội dung báo cáo kiểm toán phải thông tin cho người sử dụng thông tin về mức độ phù hợp giữa thông tin số lượng và chuẩn mực đã được thiết lập.
Phần II: Sự cần thiết và vai trò của Kiểm toán tại Việt Nam
I. Sự cần thiết của Kiểm toán
Kiểm toán ra đời, phát triển do yêu cầu quản lý và phục vụ cho quản lý. Kiểm toán là một công cụ quản lý phát triển từ thấp lên cao, gắn liền với hoạt động kinh tế của con người. Từ khi kế toán ra đời con người biết khai thác công cụ kế toán vào quản lý. Kế toán cung cấp thông tin phục vụ quản lý. Xã hội ngày càng phát triển thông tin kế toán càng được mở rộng, đa dạng, phức tạp và chứa nhiều rủi ro. Đồng thời xuất hiện nhiều đối tượng quan tâm và sử dụng thông tin kế toán như Nhà nước, chủ doanh nghiệp, cổ đông, nhà đầu tư, ngân hàng, các tổ chức tín dụng, người bán, người mua, người lao động,…Thực trạng này xuất phát từ những nguyên nhân sau:
-Khoảng cách lớn giữa người sử dụng thông tin và người cung cấp thông tin và sự điều chỉnh có lợi cho người cung cấp thông tin. Xã hội càng phát triển kéo theo hoạt động kinh tế càng phát triển, mở rộng và đa dạng. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản ngày càng tăng, các thông tin được cung cấp ngày càng bị hợp pháp hóa và thành tích hóa có lợi cho người cung cấp thông tin.
-Khối lượng thông tin quá nhiều. Xã hội càng phát triển thông tin càng phong phú, đa dạng và khối lượng càng nhiều khả năng chứa đựng những thông tin sai lệch trong những thông tin đúng đắn ngày càng tăng.
-Tính phức tạp của thông tin và nghiệp vụ kinh tế ngày càng tăng. Xã hội càng phát triển hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, các nghiệp vụ và thông tin ngày càng phức tạp, nguy cơ chứa đựng thông tin sai lệch là khó tránh khỏi.
-Khả năng thông đồng trong xử lý thông tin có lợi cho người cung cấp thông tin ngày càng lớn. Xã hội càng phát triển các hiện tượng tiêu cực càng tinh vi với mức độ gia tăng. Khả năng cấu kết, thông đồng đem lại lợi ích cho người cung cấp thông tin ngày càng lớn, rủi ro thông tin ngày càng cao.
Để giảm thiểu rủi ro thông tin có 3 cách:
- Người sử dụng thông tin tự kiểm tra thông tin mà mình sử dụng. Việc này không hiệu quả lại tốn kém không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Mặt khác còn bị giới hạn bởi năng lực của người sử dụng thông tin.
- Người sử dụng thông tin chia sẻ rủi ro thông tin với người quản lý doanh nghiệp hay người cung cấp thông tin. Cách này có thể được thỏa thuận hai bên nhưng nó không thể chia sẻ được khi người cung cấp thông tin bị giải thể hoặc phá sản. Lúc này mọi hậu quả đều dồn về người sử dụng thông tin.
-Sử dụng thông tin trên BCTC khi đã được kiểm toán độc lập xác nhận. Cách này rất hiệu lực, phát huy tính chuyên môn hóa sâu sắc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, tiết kiệm chi phí, đảm bảo lợi ích vật chất và tránh được hậu quả cho người sử dụng thông tin. Đồng thời gắn chặt giữa trách nhiệm pháp lý và vật chất của kiểm toán viên với những nhận xét, kết luận mà họ đã đưa ra.
Mặt khác, kiểm tra kế toán được thực hiện thông qua cơ chế duyệt quyết toán chủ yếu được tiến hành trên tài liệu, giấy tờ là chính chứ chưa đi sâu vào hoạt đông của doanh nghiệp. Chẳng hạn việc xét duyệt quyết toán thường được thực hiện vào quý I hoặc quý II năm sau nên việc xác định tài sản thực tế của doanh nghiệp vào thời điểm kiểm kê (31/12 năm trước) có tồn tại thật hay không. Một số vấn đề khác như công nợ, giá trị của tài sản… cần sử dụng các kỹ thuật như xác nhận, điều tra… cũng không thực hiện được mà thường chỉ chấp nhận trên cơ sở chứng từ, tài liệu kế toán. Do những hạn chế này, nên việc duyệt quyết toán không thể phát hiện thực trạng tài chính yếu kém chuyên kinh doanh, mua bán lòng vòng để gian lận trong việc vay vốn ngân hàng huy động từ các đối tượng nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp vì các chứng từ, tài liệu đã được hợp pháp bằng nhiều cách. Chỉ có kiểm toán với các kỹ thuật thu thập bằng chứng phong phú thích hợp mới có thể tạo niềm tin cho người sử dụng thông tin bằng những xác nhận khách quan và độc lập về thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Các tác giả nghiên cứu đều thống nhất rằng nhu cầu kiểm toán xuất hiện từ khi có sự phân tách giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, khai thác kinh doanh các tài sản, tiền vốn. Từ những hình thức đơn giản khi các thương gia giao các tài sản của mình cho người khác quản lý và kinh doanh đến các hình thức phức tạp, hoàn thiện hơn là hình thái các công ty cổ phần trong đó các cổ đông không trực tiếp quản lý điều hành hoạt động công ty mà do một nhóm các nhà quản lý đại diện thực hiện chức năng quản lý kinh doanh. Những người thực hiện chức năng quản lý kinh doanh này được hưởng thu nhập dưới hình thức cố định (tiền lương) hoặc biến đổi theo kết quả kinh doanh. Dù dưới hình thức nào thì có rất nhiều lý do dẫn đến khả năng báo cáo tài chính do những người này lập nên và đệ trình lên chủ sở hữu, các cổ đông có thể sẽ không phản ánh trung thực về tình hình tài chính và kết quả kinh doanh hoặc ít nhất là thiếu khách quan. Điều này làm phát sinh yêu cầu phải có giải pháp để chủ sở hữu, các cổ đông có cơ sở để tin tưởng rằng báo cáo do các nhà quản lý lập nên là phù hợp với các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận đồng thời bảo vệ được quyền lợi của những người quản lý. Đây chính là lý do cho sự ra đời và phát triển của kiểm toán. Mặt khác, thực tế hầu như và không thể mọi chủ sở hữu, các cổ đông đều có điều kiện và khả năng để soát xét các sổ sách kế toán và báo cáo tài chính của công ty. Do vậy chủ sở hữu, các cổ đông bổ nhiệm kiểm toán viên thay thế họ để làm việc đó và báo cáo lại cho họ. Các kiểm toán viên kiểm tra và báo cáo lại một cách độc lập khách quan về tình hình tài chính của họ, đồng thời, chủ sở hữu, các cổ đông tin tưởng rằng với kiểm toán các hành vi gian lận hoặc thiếu trung thực của các nhà quản lý sẽ không có cơ hội thực hiện, do đó kiểm toán là cần thiết và được xem như là một sự đảm bảo.
Hơn nữa, với nền kinh tế phát triển như hiện nay sự ra đời của kiểm toán là rất cần thiết bởi:
-Về khách quan: Do có sự đầu tư từ nước ngoài vào Việt nam, tất sẽ phát sinh nhu cầu cần phải có hoạt động kiểm toán cũng như nhu cầu tư vấn của bản thân các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đây là thông lệ và cũng là yêu cầu của công ty mẹ. Mặt khác về phía quản lý nhà nước cũng cần phải có được thông tin đáng tin cậy để đánh giá thực trạng đầu tư cũng như thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong khi không thể áp dụng các hình thức duyệt quyết toán như đối với các doanh nghiệp nhà nước.
-Về chủ quan: Khi tính chủ động trong kinh doanh của các doanh nghiệp được phát huy, các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh độc lập, theo đó các yêu cầu thông tin kinh tế trung thực và đáng tin cậy là hết sức quan trọng. Các thông tin này không chỉ phục vụ cho cho một đối tượng là nhà nước mà còn phục vụ cho nhiều các đối tượng khác như Ngân hàng (tư cách là người cho vay), đối tác kinh doanh, người lao động,…
II. Vai trò của Kiểm toán
1.Vai trò chung
Từ những nghiên cứu có thể tháy rõ vai trò của Kiểm toán trên nhiều mặt:
Kiểm toán tạo niềm tin cho những người quan tâm. Trong cơ chế thị trường có rất nhiều người quan tâm tới tình hình tài chính và sự phản ánh của nó trong tài liệu kế toán và BCTC. Trong đó có thể kể đến:
- Các cơ quan Nhà nước: cần thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật.
- Các đơn vị được kiểm toán: giúp đơn vị kiểm toán thấy rõ chân dung và thực lực của mình, đánh giá chính xác thực trạng tài chính, thẩm định đúng kết quả kinh doanh để có biện pháp quản lý, điều hành phù hợp nhằm đạt được hiệu quả cao.
- Các nhà đầu tư: cần thông tin tin cậy để có hướng dẫn đúng, điều hành sử dụng vốn đầu tư. Các nhà đầu tư ở đây không chỉ trong nước mà còn cả nước ngoài. Họ cần sự xác nhận vô tư và trung thực của kiểm toán mới yên tam và tin tưởng khi bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp.
- Ngân hàng và các tổ chức tín dụng: căn cứ vào kết quả kiểm toán để xem xét tình hình cho các doanh nghiệp vay khi cần thiết và khả năng thu hồi nợ.
- Người lao động: cần có thông tin đáng tin cậy về kết quả kinh doanh, về lợi nhuận phân phối, về thực hiện chính sách tiền lương và bảo hiểm...nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng thông qua hệ thống kiểm toán hoàn chỉnh.
- Khách hàng và nhà cung cấp: cũng cần hiểu rõ thực chất về kinh doanh, về tài chính của các đơn vị kiểm toán về nhiều mặt: số lượng, chất lượng sản phẩm hàng hóa, cơ cấu tài sản và khả năng thanh toán của đơn vị được kiểm toán.
Tất cả các những đối tượng này, họ đều có nguyện vọng chung là được sử dụng thông tin có độ tin cậy cao, chính xác và trung thực.
Kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và ổn định cũng cố hoạt động tài chính, kế toán nói riêng và hoạt động của các đơn vị kiểm toán nói chung. Thông qua kiểm toán khi phát hiện sai sót kiểm toán viên chỉ dẫn và đề nghị doanh nghiệp sửa chữa, tư vấn giúp doanh nghiệp ổn định và kinh doanh hiệu quả. Hoạt động kiểm toán không những cũng cố hoạt động tài chính, kế toán cho doanh nghiệp nói riêng mà còn làm lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính.
Kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả quản lý. Ngoài chức năng xác nhận thông tin tài chính, kiểm toán còn có chức năng tư vấn cho các doanh nghiệp, đơn vị được kiểm toán nhằm kinh doanh hiệu quả, hạn chế rủi ro. Chức năng này được phát huy tác dụng rất lớn ở các đơn vị được kiểm toán thường xuyên. Trong điều kiện hiện nay, hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh, kinh nghiệm và chuyên gia quản lý giỏi theo cơ chế thị trường chưa nhiều, các doanh nghiệp đứng trước một cơ chế thị trường đầy phức tạp và cạnh tranh gay gắt vì lợi nhuận. Tính chất xã hội, môi trường, hiện tại, tương lai, xu hướng đa phương hóa đầu tư và mở rộng quan hệ có lợi kinh tế ngày càng mở rộng. Trong điều kiện đó để ổn định, duy trì kỹ cương, kinh doanh hiệu quả, phát triển đúng hướng...chỉ có thể tiến hành trên cơ sở sử dụng đồng bộ và h