Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam khi trở thành nước thu nhập trung bình

Việt Nam đã bước vào một giai đoạn mới đầy thách thức trong quá trình phát triển đất nước. Sau hai thập kỷ phát triển nhanh chóng, tốc độ tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo đã chững lại. Chính phủ Việt Nam (CPVN) đã nhận rõ sự cần thiết phải đưa ra các chiến lược mới để duy trì tốc độ tăng trưởng khi trở thành một nước có thu nhập trung bình (MIC). Việt Nam cũng đang bước vào một giai đoạn mới trong lĩnh vực hợp tác phát triển. Trong suốt thập kỷ qua, Việt Nam là một trong những quốc gia nhận được nguồn vốn ODA nhiều nhất trên thế giới. Tuy nhiên, các nguồn vốn khác đã tăng trưởng nhanh chóng hơn nhiều, trong đó bao gồm các nguồn thu trong nước, vay nợ công và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), khiến cho vốn ODA ngày càng giữ vị trí khiêm tốn trong bức tranh tổng thể về tài chính phát triển. Do hiện nay Việt Nam đã trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình, các dòng vốn ODA sẽ giảm đi và các điều khoản trở nên kém ưu đãi hơn.

pdf79 trang | Chia sẻ: thanhlinh222 | Lượt xem: 1181 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam khi trở thành nước thu nhập trung bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN PHỤC VỤ CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM KHI TRỞ THÀNH NƯỚC THU NHẬP TRUNG BÌNH TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN CHO VIỆT NAM: ĐÁP ỨNG CÁC THÁCH THỨC MỚI Do các cơ quan Liên hợp quốc tại Việt Nam, Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam và Bộ Kế hoạch và Đầu tư ấn hành Hà Nội, tHáNg 12 Năm 2014 LiÊN HỢP QUỐC Bộ KẾ HOẠCH Và ĐẦU tƯ LiÊN miNH CHÂU ÂU Ấn phẩm này được xuất bản bởi Chương trình Hỗ trợ Đối thoại Chiến lược Việt Nam – EU do Liên minh châu Âu tài trợ. Ấn phẩm này thể hiện quan điểm của các tác giả và dưới bất kỳ phương thức nào, những nội dung này cũng không được xem là phản ánh quan điểm của Liên Hợp quốc và Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam. TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN PHỤC VỤ CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM KHI TRỞ THÀNH NƯỚC THU NHẬP TRUNG BÌNH TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN CHO VIỆT NAM: ĐÁP ỨNG CÁC THÁCH THỨC MỚI V Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam khi trở thành nước thu nhập trung bình Lời tựa Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu nghiên cứu quan trọng về Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam khi trở thành nước có thu nhập trung bình. Nghiên cứu này là kết quả hợp tác chung giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, Liên hợp quốc (UN) và Liên minh châu Âu (EU), được thực hiện trong giai đoạn 2013 - 2014 với sự hỗ trợ từ Quỹ Hiệu quả Phát triển khu vực Châu á - thái Bình Dương của tổ chức UNDP (AP-DEF) và từ Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam thông qua Chương trình Hỗ trợ Đối thoại Chiến lược Việt Nam - EU. trong thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói, giảm nghèo. Nguồn vốn ODA đáng kể dành cho Việt Nam cùng sự hỗ trợ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế đối với chính sách phát triển và cải cách ở Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào những thành tựu này. Nhờ phát triển bền vững và các chính sách được thực hiện thành công, Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình vào năm 2010 với bối cảnh phát triển chứng kiến sự đổi thay nhanh chóng. Ngày nay, việc huy động nguồn vốn ODA và các khoản vay kém ưu đãi ở Việt Nam đóng một vai trò khác. Để tránh cái bẫy thu nhập trung bình và tạo ra những bước đột phá cần thiết nhằm phát triển hơn nữa, Việt Nam đang theo đuổi những cơ hội mới như các nguồn tài chính phát triển khác từ khu vực tư nhân (đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước), tăng cường hợp tác Nam - Nam và hợp tác khu vực. Việt Nam cũng đã nỗ lực để hiện đại hóa hệ thống quản lý tài chính công, đặc biệt hệ thống thuế, để tối ưu hóa khung khổ thu chi ngân sách nhà nước. Nghiên cứu này góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của các nguồn tài chính phát triển trong những năm gần đây. Nghiên cứu cũng đưa ra những cơ hội và thách thức của tài chính phát triển để hoàn thiện các chính sách và định hướng chiến lược trong tương lai của Việt Nam. Cụ thể hơn, những chính sách và định hướng này sẽ được thể chế hóa thành khuôn khổ pháp lý hiệu quả hơn, điển hình như việc thông qua Luật Đầu tư công vào tháng 6 năm nay và hiện đang tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và Luật Ngân sách Nhà nước. Các kết quả nghiên cứu hy vọng sẽ cung cấp các thông tin, dữ liệu, phân tích hữu ích, kịp thời cùng những khuyến nghị có giá trị để hỗ trợ việc chuẩn bị xây dựng Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2016 - 2020 và định hướng cho việc thảo luận cách thức thực hiện các mục tiêu Phát triển Bền vững của thế giới ở cấp quốc gia. Nghiên cứu này cũng sẽ đóng góp vào các đối thoại chính sách hiện nay giữa Chính phủ Việt Nam và các đối tác phát triển trong khuôn khổ chương trình hợp tác phát triển tại Việt Nam trong bối cảnh mới. Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2014 Nguyễn Chí Dũng Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam Pratibha Mehta Điều phối viên thường trú Liên Hợp Quốc tại Việt Nam Franz Jessen Đại sứ/Trưởng Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam VI Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam khi trở thành nước thu nhập trung bình Lời cảm ơn Nghiên cứu này là sản phẩm của sự hợp tác chung giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, Liên hợp quốc và Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam. Chúng tôi muốn bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến hai chuyên gia tư vấn là Ông marcus Cox và Bà trần thị Hạnh về những nỗ lực của họ để hoàn thành nghiên cứu này. Nghiên cứu này được thực hiện nhờ sự đóng góp tài chính của Chính phủ Ôx-trây-li-a và Quỹ Hiệu quả Phát triển khu vực Châu á - thái Bình Dương (AP-DEF). Chúng tôi cũng đánh giá cao sự tham gia, đóng góp ý kiến của các cơ quan Chính phủ và các đối tác phát triển tại Việt Nam được tham vấn trong quá trình thực hiện nghiên cứu này. VII Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam khi trở thành nước thu nhập trung bình Tóm tắt Việt Nam đã bước vào một giai đoạn mới đầy thách thức trong quá trình phát triển đất nước. Sau hai thập kỷ phát triển nhanh chóng, tốc độ tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo đã chững lại. Chính phủ Việt Nam (CPVN) đã nhận rõ sự cần thiết phải đưa ra các chiến lược mới để duy trì tốc độ tăng trưởng khi trở thành một nước có thu nhập trung bình (MIC). Việt Nam cũng đang bước vào một giai đoạn mới trong lĩnh vực hợp tác phát triển. Trong suốt thập kỷ qua, Việt Nam là một trong những quốc gia nhận được nguồn vốn ODA nhiều nhất trên thế giới. Tuy nhiên, các nguồn vốn khác đã tăng trưởng nhanh chóng hơn nhiều, trong đó bao gồm các nguồn thu trong nước, vay nợ công và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), khiến cho vốn ODA ngày càng giữ vị trí khiêm tốn trong bức tranh tổng thể về tài chính phát triển. Do hiện nay Việt Nam đã trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình, các dòng vốn ODA sẽ giảm đi và các điều khoản trở nên kém ưu đãi hơn. Báo cáo đánh giá về tài chính và hỗ trợ phát triển (DFAA) này được thực hiện dưới sự chỉ đạo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư với sự hỗ trợ của UNDP và Liên minh Châu Âu (EU). Báo cáo đã đánh giá tổng quan các nguồn tài chính phát triển khác nhau mà Việt Nam có thể tiếp cận, xem xét xu hướng phát triển của các nguồn đó trong những năm sắp tới và lộ trình có thể xảy ra trong tương lai. Những hạn chế về mặt pháp luật và thể chế được đánh giá trên phương diện vận động và sử dụng hiệu quả nguồn tài chính. Báo cáo đánh giá này đưa ra khuyến nghị cho Chính phủ Việt Nam và các đối tác phát triển về những phương án cải thiện tính bổ sung của các nguồn tài chính phát triển khác nhau theo đúng trọng tâm của chương trình Đối tác Busan về Hợp tác Phát triển Hiệu quả và Văn kiện Đối tác Việt Nam. Một giai đoạn mới đầy thách thức trong quá trình phát triển của Việt Nam trong giai đoạn giữa thời điểm bắt đầu thực hiện cải cách kinh tế vào những năm 1980 và thời điểm bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vào năm 2007, Việt Nam là một trong những nền kinh tế năng động nhất trong số các quốc gia đang phát triển. tỷ lệ tăng trưởng trung bình được duy trì ở mức trên 7% trong suốt 20 năm, giúp quy mô nền kinh tế tăng lên tới 4 lần. tỉ lệ nghèo giảm trung bình 2,9% mỗi năm, từ 58% xuống chỉ còn 14,2% vào năm 2010 hay 20,7% sau khi điều chỉnh theo chuẩn nghèo mới. Ở thời điểm giữa những năm 2000, Việt Nam nhận được những nguồn lực kỷ lục từ nước ngoài đổ vào dưới cả hai hình thức FDi và ODA, tạo nguồn vốn cho hoạt động đầu tư với mức tăng trưởng cao nhất trên thế giới. Điều này đã giúp Việt Nam mở rộng cơ sở hạ tầng và dịch vụ tới đại đa số người dân. từ năm 2007, tỉ lệ tăng trưởng của Việt Nam bị chững lại do hậu quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu. tuy nhiên, không giống như một số quốc gia Châu á khác, tỉ lệ tăng trưởng của Việt Nam vẫn chưa quay trở lại được các mức từ thời trước năm 2007. Có nhiều ý kiến quan ngại rằng Việt Nam có thể đang chạm đến giới hạn của mô hình tăng trưởng hiện tại. Các thách thức trong việc chuyển sang một mô hình tăng trưởng mới bao gồm: Ÿ Hoàn thiện việc chuyển đổi nền kinh tế: mặc dù có khoảng một nửa số doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam đã được tái cơ cấu thông qua việc cổ phần hoá nhưng những trụ cột quan trọng nhất của nền kinh tế vẫn do các doanh nghiệp nhà nước kiểm soát, đây là cách làm không hiệu quả và không khuyến khích được sự phát triển của khu vực tư nhân trong nước; VIII Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam khi trở thành nước thu nhập trung bình Ÿ Nâng cao chất lượng vốn FDi: mặc dù vốn FDi vào Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng vào những năm 2000 nhưng chủ yếu chỉ là những doanh nghiệp lắp ráp có giá trị gia tăng thấp, dù tạo được việc làm nhưng không mang lại nhiều lợi ích lớn. Nếu không bắt đầu thu hút được các khoản đầu tư hiệu quả hơn, Việt Nam có nguy cơ sẽ bắt đầu phải chịu thua trước những nền kinh tế có chi phí nhân công rẻ hơn; Ÿ Kiểm soát tình trạng bất bình đẳng: tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đang ít dần định hướng vì người nghèo, hệ quả là sự nghèo đói và bất bình đẳng trở nên khó khắc phục hơn. Ngoài ra, quá trình ‘xã hội hoá’ cũng đang chuyển nhiều gánh nặng chi phí cho các dịch vụ công sang người dân, ngày càng tạo thêm gánh nặng cho những gia đình nghèo nhất; Ÿ Những hạn chế về kinh tế vĩ mô: sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các biện pháp kích thích mạnh mẽ, trong đó có việc tăng vọt đầu tư công, để rồi lại tạo ra một thời kỳ bất ổn kinh tế vĩ mô. Tổng quan các luồng tài chính phát triển của Việt Nam Các nguồn tài chính phát triển mà Chính phủ có thể trực tiếp xây dựng chương trình được gồm: Ÿ Các nguồn thu ngân sách nhà nước kể từ 2006 đã tăng gần gấp ba lần lên mức 800,000 tỉ đồng (tương đương 39 tỉ đôla), tuy nhiên, tính theo giá trị thực tế thì kể từ 2010 nguồn thu này đã giảm 9%. tỉ lệ thu ngân sách trên gDP đã giảm từ mức gần 30% vào giữa những năm 2000 xuống mức 22.8% vào năm 2012, do hệ quả của suy thoái kinh tế, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp và giảm thu từ dầu mỏ. Chính phủ đã nhận ra rằng, thuế doanh nghiệp cao đang ảnh hưởng đến sức cạnh tranh và do đó đã có kế hoạch cắt giảm. Vì vậy, trong tương lai các nguồn thu từ thuế sẽ tăng trưởng rất khiêm tốn. Ÿ Vay nợ công kể từ 2006 đã tăng trung bình 30% mỗi năm, chủ yếu thông qua phát hành trái phiếu trong nước để hỗ trợ các biện pháp kích thích kinh tế. theo tiêu chuẩn quốc tế thì nợ của Việt Nam vẫn ở mức khiêm tốn và vẫn còn dư địa để tăng vay nợ lên mức giới hạn tổng nợ theo đề xuất của Chính phủ là 65% gDP. Ÿ Vốn ODA đã tăng mạnh vào năm 2009 khi các ngân hàng phát triển lớn tăng mức cho vay để ứng phó trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Các mức cho vay này vẫn được duy trì với mức giải ngân hàng năm gần 4 tỉ đô-la. Dự kiến cho đến năm 2020 vốn ODA sẽ chưa suy giảm, mặc dù càng ngày sẽ càng có ít các điều khoản ưu đãi hơn. Việt Nam phải đối mặt với một số lựa chọn về chính sách trong việc làm thế nào để sử dụng nguồn tài chính không còn được ưu đãi như trước, đồng thời phải thận trọng nhằm tránh làm mất đi sự hỗ trợ cho các lĩnh vực xã hội. tỉ lệ giải ngân vốn ODA của Việt Nam đã được cải thiện, từ mức chỉ 25% số vốn cam kết vào năm 2010 lên mức 40% năm 2012. tuy nhiên, vẫn còn trên 20 tỉ đô- la vốn ODA cam kết vẫn chưa được sử dụng, chủ yếu do những nút thắt trong quá trình thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng lớn. Với những dòng tiền gia tăng nhanh chóng này trong thập kỷ vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã có thể tăng mức chi tiêu công lên gấp 2,5 lần từ năm 2006 đến 2013 theo giá danh nghĩa. mức chi cao này đã giúp mở rộng các dịch vụ và cơ sở hạ tầng đến đa số người dân. tỉ lệ điện khí hoá nông thôn từ 14% năm 1993 đã tăng lên gần 100% năm 2010, với số lượng các tuyến đường được quy hoạch đã tăng gấp 4 lần trong thập kỷ vừa qua và tỉ lệ hộ gia đình được sử dụng nước máy đã tăng từ 12% năm 2002 lên 76% năm 2009. tuy nhiên, do một số khuyết điểm nghiêm trọng trong quá trình lập kế hoạch và xây dựng ngân sách, Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số thách thức lớn trong việc sử dụng nguồn tài chính phát triển một cách hiệu quả. Dự báo về ngân sách còn yếu đã ảnh hưởng đến việc áp dụng khung chi tiêu trung hạn. Với hơn một nửa ngân sách được phân cấp cho các chính quyền địa phương quản lý, nhưng nhiệm vụ thu, chi ngân sách giữa ba cấp địa phương không rõ và nhiều trách nhiệm chi chưa được cấp vốn đầy đủ. trong khuôn khổ ngân sách đầu tư, yêu cầu các dự án đầu tư phải tuân thủ với kế hoạch phát triển KtXH không rõ. Cạnh tranh giữa các tỉnh cộng với quy chế thẩm định hiệu lực yếu đã dẫn đến đầu tư kém hiệu quả cả về kinh tế và kỹ thuật. 63 tỉnh thành của Việt Nam quá nhỏ để có thể quy hoạch hạ tầng hiệu quả, dẫn tới việc xây dựng tràn lan các sân bay, cảng nước sâu và các khu công nghiệp vượt quá nhu cầu của địa phương. Có quá nhiều dự án được khởi công thiếu nguồn vốn để hoàn thành. Chính phủ Việt Nam đã nhận ra những thách thức này và hiện đang chuẩn bị ban hành các luật mới về ngân sách nhà nước và đầu tư công. IX Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam khi trở thành nước thu nhập trung bình Bên ngoài khu vực nhà nước, các luồng tài chính phát triển quan trọng nhất gồm: Ÿ Các khoản cho vay từ khu vực ngân hàng của Việt Nam từ 2006 đến 2012 đã tăng 5 lần, trong khi tổng tín dụng tăng từ mức 39% gDP năm 2000 lên 115% năm 2010, nhưng lại giảm xuống còn 84% năm 2013. từ khi Chính phủ thực hiện các giải pháp kiểm soát lạm phát, tăng trưởng tín dụng đã sụt giảm mạnh, gây tác động lớn đến khu vực tư nhân. Các doanh nghiệp nhà nước được ưu đãi tiếp cận vốn do họ có nhiều đất đai có thể sử dụng làm thế chấp và các mạng lưới sở hữu chéo phức tạp giữa các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị tài chính. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước chủ yếu ở quy mô vừa và nhỏ hoặc là doanh nghiệp một chủ, bị hạn chế trong việc tiếp cận nguồn vốn thương mại. tuy vậy, tổng đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đã tăng nhanh hơn so với cả các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp FDi. Ÿ Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có những biến động lớn trong thập kỷ qua, tăng vọt vào năm 2008 trong thời kỳ bùng nổ bất động sản của VN và sau đó chững lại tính theo giá trị thực tế. gần đây đã có những dấu hiệu tích cực cho thấy vốn FDi đang tăng trở lại, trong đó có một số khoản đầu tư vào các ngành công nghệ cao. tuy nhiên, hầu hết vốn FDi vẫn chỉ rót vào các hoạt động lắp ráp đơn giản, có tạo công ăn việc làm không đòi hỏi tay nghề cao, nhưng không mang lại nhiều cơ hội cho khu vực tư nhân trong nước. Năm 2013, Chính phủ đã thông qua chiến lược đầu tiên trong việc thu hút nguồn vốn FDi chất lượng cao. Ÿ Các tổ chức phi chính phủ (NgO) quốc tế cũng là những tác nhân quan trọng trong lĩnh vực phát triển ở VN, cung cấp viện trợ khoảng 300 triệu đô-la mỗi năm. Ÿ Kiều hối gửi về từ người Việt ở nước ngoài đạt trên 8 tỉ đô-la mỗi năm, gần bằng giá trị vốn FDi và gấp đôi quy mô vốn ODA. Tổng quan các nguồn tài chính phát triển của Việt Nam, 2006-2012, theo giá 2010 0 100,000 200,000 300,000 400,000 500,000 600,000 700,000 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Nguồn: Tự tính từ số liệu của Bộ TC, TCTK, NHNNVN, Trung tâm Nguồn Phi chính phủ, OECD Thu ngân sách nhà nước Vay chính phủ (trừ vốn vay ODA và OOF) ODA và OOF Vốn đầu tư từ DNNN Vốn đầu tư từ khu vực tư nhân FDI Kiều hối Viện trợ từ các tổ chức phi chính phủ quốc tế X Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam khi trở thành nước thu nhập trung bình Kết luận và khuyến nghị trước khủng hoảng tài chính toàn cầu, các nguồn tài chính phát triển của Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng suốt một thời gian dài, giúp cho Việt Nam duy trì được các mức đầu tư rất cao và đạt được một thời kỳ kéo dài với mức tăng trưởng và tỉ lệ giảm nghèo cao. tuy nhiên, đầu tư cao không còn tạo ra được tăng trưởng ở mức độ tương xứng như trước nữa, và chính phủ Việt Nam đã phải kiềm chế đầu tư để duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Do đó, Việt Nam sẽ bước sang giai đoạn khi mà các luồng tài chính phát triển sẽ bị hạn chế nhiều so với trước đây. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả đầu tư thông qua áp dụng cách tiếp cận mang tính chiến lược hơn trong sử dụng đầu tư công và chú trọng hơn đến cách thức sử dụng đầu tư công và các giải pháp chính sách để thu hút các nguồn tài chính phát triển khác. Đây là một chương trình nghị sự lớn, nhưng có một số thách thức nổi bật như sau: 1. Nâng cao chất lượng chi tiêu và đầu tư công: bao gồm áp dụng cách tiếp cận lập kế hoạch ngân sách trung hạn, gắn chi thường xuyên và chi đầu tư với các ưu tiên phát triển của quốc gia; khắc phục những nhược điểm của hệ thống phân cấp tài chính hiện nay; chuyển việc quy hoạch đầu tư hạ tầng chiến lược lên cấp quốc gia hoặc khu vực; đồng thời áp dụng cách tiếp cận lập kế hoạch phân bổ nguồn lực dựa trên kết quả. 2. Duy trì tính bình đẳng trong cung cấp dịch vụ xã hội: đánh giá lại quá trình ‘xã hội hoá’ việc cung cấp dịch vụ thông qua xây dựng kế hoạch tài chính cho toàn ngành, quy định rõ ràng hơn về sự tham gia của khu vực tư nhân và minh bạch hơn về các khoản đóng góp của người dân. 3. thu hút đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng thông qua hoàn thiện khung pháp lý về đối tác công – tư (PPP) và thành lập Bộ phận PPP tại một cơ quan ở cấp quốc gia để hỗ trợ kỹ thuật cho các chủ dự án về thiết kế và đàm phán đối tác công – tư. 4. Nâng cao thu ngân sách từ FDi: Việt Nam cần có đủ năng lực thiết kế các gói can thiệp để hỗ trợ những ngành hoặc thị trường cụ thể, như cơ sở hạ tầng, đào tạo nghề và miễn giảm thuế. Điều này đồng nghĩa với việc thành lập các cơ quan nhà nước ở cấp trung ương có khả năng tương tác với các nhà đầu tư nước ngoài và điều phối các cơ quan nhà nước và các cấp thẩm quyền khác nhau. 5. Huy động tài chính để phát triển khu vực tư nhân: Chính phủ Việt Nam cần quan tâm nhiều hơn tới nhu cầu của khu vực tư nhân trong nước, cụ thể là thông qua việc giúp đỡ các doanh nghiệp quy mô vừa mở rộng quy mô để tiết kiệm chi phí để có thể trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này đồng nghĩa với việc phải tăng khả năng tiếp cận đất đai và tài chính của các doanh nghiệp đó. Chúng tôi cũng đề xuất năm vai trò quan trọng có thể của khu vực viện trợ phát triển nhằm góp phần tăng cường hiệu lực và hiệu quả phát triển trong tài chính phát triển của Việt Nam. 1. Xúc tiến việc lập chính sách dựa trên bằng chứng và quản lý theo kết quả thông qua việc tạo lập bằng chứng, chia sẻ kiến thức, tham gia đánh giá chung và đối thoại chính sách, củng cố hệ thống thống kê quốc gia, tổ chức nâng cao năng lực cho các cơ quan nhà nước về hoạch định và lập chính sách, đầu tư vào các hệ thống giám sát và tăng cường phản hồi của cộng đồng về các dịch vụ công; 2. Cải thiện chất lượng chi tiêu và đầu tư công thông qua hỗ trợ cải cách quản lý tài chính công và ngân sách nhà nước, đồng thời hỗ trợ áp dụng cách tiếp cận phân bổ ngân sách theo kết quả; 3. Hỗ trợ mô hình đối tác công – tư, trong đó có việc hỗ trợ xây dựng khuôn khổ pháp luật và các năng lực kỹ thuật cần thiết và hỗ trợ tài chính; 4. thúc đẩy tính bình đẳng trong cung cấp dịch vụ xã hội bằng cách giúp Chính phủ xây dựng các kế hoạch tài chính ngành bao gồm ngân sách quốc gia, đầu tư của khu vực tư nhân, đóng góp của người dân và ODA; 5. Phát triển quan hệ đối tác về tri thức trong các ngành v
Luận văn liên quan