Môn kinh tế chính trị tư bản bắt nguồn tử chủ nghĩa trọng thương. Nó thống trị tư duy kinh tế của chủ nghĩa tư bản thế kỷ XV đến thế kỷ XVII và tồn tại trong đầu thế kỷ XVIII. A. Mông Grêchiên nhà trọng thương người Pháp (1575-1629), là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “kinh tế chính trị học” trong tác phẩm “chuyển luận về kinh tế chính trị học” ông xem kinh tế chính trị là khoa học về kế toán Nhà nước, ông nghiên cứu sự tham gia tích cực của nhà nước vào đời sống kinh tế, sự hộ trợ của Nhà nước cho quá trình tích luỹ ban đầu. Lý luận của chủ nghĩa trọng thương là sự thử nghiệm đầu tiên việc nghiên cứu về lý luận phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong thời ký này tư bản thương nghiệp chiếm địa vị thống trị và thực sự chỉ có lĩnh vực lưu thông hàng hoá mang tính chất tư sản. trong khi nhận thức đúng đắn rằng sự săn đuổi lợi nhuận là động lực của chủ nghĩa tư bản nguồn gốc của lợi nhuận là tư thương nghiệp mà trước hết là từ ngoại thương, do đó họ không giải thích được bản chất của lợi nhuận và của tiền tệ.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho luận điểm của chủ nghĩa trọng thương lỗi thời. Vì theo đã phát triển của chủ nghĩa tư bản không đơn thuần là tích luỹ tiền nữa, mà là tái sản xuất mở rộng. Trọng tâm của các nhà kinh tế tư bản chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Chủ nghĩa trọng nông nhường chỗ cho chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng nông đặt trọng tâm vào sản xuất Nông nghiệp. Công lao của các nhà trọng nông là chuyển việc nghiên cứu nguồn gốc của cải từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Họ quan điểm một cách hạn chế rằng, chỉ có Nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm ròng (tức là chỉ thu thuế từ chủ trang trại và chủ sở hữu ruộng đất). Chính sách thuế này khuyến khích sự phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp. Họ phân tích một cách khoa học về tư bản cố định và tư bản ứng dụng trước hàng năm. Ph.Kênê là người đầu tiên nêu lên phạm trù “tái sản xuất ” và sơ đồ tái sản xuất trong “Biểu kinh tế ” mà sau này C.Mác kế thừa khi nghiên cứu lý luận tái sản xuất và lưu thông tổng tư bản xã hội. Mặc dù là giai đoạn cao hơn so với chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa trọng nông còn hạn chế, đặc biệt chỉ giới hạn ở lĩnh vực sản xuất trong Nông nghiệp và chưa có khái niệm đúng đắn về giá trị. Chủ nghĩa trọng nông nhường chỗ cho kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
31 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2540 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tại sao lợi nhuận lại là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển đồng thời nó lại làm tăng mâu thuẫn ở trong chủ nghĩa tư bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu
Môn kinh tế chính trị tư bản bắt nguồn tử chủ nghĩa trọng thương. Nó thống trị tư duy kinh tế của chủ nghĩa tư bản thế kỷ XV đến thế kỷ XVII và tồn tại trong đầu thế kỷ XVIII. A. Mông Grêchiên nhà trọng thương người Pháp (1575-1629), là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “kinh tế chính trị học” trong tác phẩm “chuyển luận về kinh tế chính trị học” ông xem kinh tế chính trị là khoa học về kế toán Nhà nước, ông nghiên cứu sự tham gia tích cực của nhà nước vào đời sống kinh tế, sự hộ trợ của Nhà nước cho quá trình tích luỹ ban đầu. Lý luận của chủ nghĩa trọng thương là sự thử nghiệm đầu tiên việc nghiên cứu về lý luận phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong thời ký này tư bản thương nghiệp chiếm địa vị thống trị và thực sự chỉ có lĩnh vực lưu thông hàng hoá mang tính chất tư sản. trong khi nhận thức đúng đắn rằng sự săn đuổi lợi nhuận là động lực của chủ nghĩa tư bản nguồn gốc của lợi nhuận là tư thương nghiệp mà trước hết là từ ngoại thương, do đó họ không giải thích được bản chất của lợi nhuận và của tiền tệ.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho luận điểm của chủ nghĩa trọng thương lỗi thời. Vì theo đã phát triển của chủ nghĩa tư bản không đơn thuần là tích luỹ tiền nữa, mà là tái sản xuất mở rộng. Trọng tâm của các nhà kinh tế tư bản chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Chủ nghĩa trọng nông nhường chỗ cho chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng nông đặt trọng tâm vào sản xuất Nông nghiệp. Công lao của các nhà trọng nông là chuyển việc nghiên cứu nguồn gốc của cải từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Họ quan điểm một cách hạn chế rằng, chỉ có Nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm ròng (tức là chỉ thu thuế từ chủ trang trại và chủ sở hữu ruộng đất). Chính sách thuế này khuyến khích sự phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp. Họ phân tích một cách khoa học về tư bản cố định và tư bản ứng dụng trước hàng năm. Ph.Kênê là người đầu tiên nêu lên phạm trù “tái sản xuất ” và sơ đồ tái sản xuất trong “Biểu kinh tế ” mà sau này C.Mác kế thừa khi nghiên cứu lý luận tái sản xuất và lưu thông tổng tư bản xã hội. Mặc dù là giai đoạn cao hơn so với chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa trọng nông còn hạn chế, đặc biệt chỉ giới hạn ở lĩnh vực sản xuất trong Nông nghiệp và chưa có khái niệm đúng đắn về giá trị. Chủ nghĩa trọng nông nhường chỗ cho kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
Kinh tế chính trị tư sản cổ điểm quan niệm đối tượng của kinh tế chính trị là nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của của cải, sự giầu có của các dân tộc và sự phân phối của cải đó giữa các tầng lớp xã hội. Kinh tế chính trị tư bản cổ điển khẳng định, lao động sản xuất là nguồn gốc của giá trị hàng hoá, còn lợi nhuận, lợi tức, địa tô là những khoản khấu trừ vào sản phẩm của lao động hay là vào giá trị của những sản phẩm đó. Do.Ricardo, tiêu biểu cho trường phái này đã nhận rõ lợi nhuận bắt nguồn gừ lao động không được trả công. Vì vậy có mâu thuẫn giữ tiền công và lợi nhuận.
Kinh tế chính trị học cổ điển Anh mở đầu từ U.Pðtti (W.Petty) (1622-1687) đến A.Ximít (A.Ximít) là nhà kinh tế của thời kỳ công thương thủ công của chủ nghĩa tư bản. Còn Đ.Ricácđo là nhà kinh tế của thời kỳ đại công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản, là đỉnh cao của lý luận của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển.
Học thuyết kinh tế của Mác ra đời vào giữa thế kỷ Xĩ đây là thời kỳ lịch sử mà giai cấp tư sản đã giành được chính quyền đã hoàn thành cuộc cách mạng chủ nghĩa, đã củng cố vững chắc sự thống trị của mình, đồng thời, chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu bộc lộ những mâu thuẫn đối kháng, những cuộc khủng hoảng kinh tế đã pháp hoại nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Kinh tế chính trị học do C,Mác và Ph-Ăngghen sáng lập là một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật chính trị vì nó dựa trên phương pháp biện chứng duy vật, của giai cấp công nhân. C.mác đã xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư - hòn đá tảng trong học thuyết kinh tế Mácxít.
- C.Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu lịch sử xã hội, bắt đầu các phạn trù kinh tế, vạch rõ sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cơ sở của sự phát triển lịch sử xã hội, các quy luật kinh tế chi phối sự vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chỉ ra quan hệ giữa người với người ẩn giấu đằng sau quan hệ giữa vật với vật trong sản xuất hàng hoá nói chung và trong tư bản chủ nghĩa nói riêng.
- Nhờ phân biệt được sức lao động và lao động trong sản xuất hàng hoá, đặc biệt là tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá (lao động cụ thể và lao động trừu tượng). C.Mác đã giải đáp được nhiều bế bắt trong các học thuyết của trường phái kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh (thí dụ: vì sao trao đổi theo đúng giá trị mà vẫn thu được giá trị thặng dư), từ đó C.Mác hoàn thiện lý luận giá trị, tìm ra nguồn gốc và bản chất của tiền tệ, đưa đến phát hiện về giá trị thặng dư, vạch rõ cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa và những hình thái chuyển hoá của giá trị thặng dư trên bề mặt cuộc sống như: lợi nhuận, lợi nhuận bình quân, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô tư bản chủ nghĩa.
Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ những bản chất, nguồn gốc của những yếu tố bên trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là yếu tố quyết định, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường. Đó chính là lợi nhuận.
Nội dung
I. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
1. Quan điểm của trường phái trọng thương về lợi nhuận.
Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào thời kỳ quá độ mà kinh tế phong kiến bước vào thời kỳ suy đồi và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành. Nó ra đời phản ánh những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản vào thời kỳ tiền tư bản và nó được phát triển rộng rãi ở cả nước Tây Âu. Mặc dù thời kỳ nà chưa biết đến quy luật kinh tế và còn hạn chế về tính quy luật nhưng hệ thống quan điểm học thuyết kinh tế trọng thương đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội cho các lý luận kinh tế thị trường sau này phát triển. Điều này được thể hiện ở chỗ họ đưa ra quan điểm sự giầu có không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị tiền. Mục đích hoạt động của kinh tế hàng hoá thị trường là lợi nhuận.
“Học thuyết kinh tế trọng thương cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mau ít bán nhiều, mua sẽ bán đắt mà có”.
Nhưng trong giai đoạn này các nhà kinh tế học chưa hiểu quan hệ giữa lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Vì đó ở giai đoạn đầu của thời kỳ này các nhà nước tư bản đã đưa ra các chính sách làm tăng của cải tiền tệ, giữ cho khối lượng tiền tệ không ra ngoài, tập chung buôn bán để nhà nước dễ kiểm tra, bắt buộc các thương nhân nước ngoài, tập chung buôn bán phải dùng số tiền mà họ có mua hết số hàng mang về nước họ... ở giai đoạn sau họ dùng chính sách xuất siêu để có chênh lệch, mang tiền ra nước ngoài để thực hiện mua rẻ bán đắt....
Với những chính sách đưa ra nhằm đạt được như trên của các nhà tư bản chỉ mang tính chất bề mặt nông cạn. Chứng tỏ quan điểm về lợi nhuận cũng như kinh tế chưa có “Chiều sâu thực chất chính sách này đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong nền kinh tế. Đòi hỏi phải thoát khỏi phương pháp kinh nghiệm thuần tuý phải phân tích kinh tế xã hội với tư cách là một chính thế”
2. Quan điểm của trường phái cổ điển về lợi nhuận.
Trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, sự hoạt động của tư bản chủ yếu là trong lĩnh vực lưu thông. Do quá trình phát triển của công thương thủ công, tư bản đã chuyển sang lĩnh vực sản xuất, lúc này các vấn đề kinh tế của sản xuất đã vượt qua khả năng giải thích của lý thuyết chủ nghĩa trọng thương và học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Các nhà kinh tế học của trường phái này lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu lĩnh vực lưu thông các phạm trù và quy luật của nền kinh tế thị trường. Những phạm trù lợi nhuận, địa tô, lợi tức... trong đó có một số quan điểm về lợi nhuận nổi bật là quan điểm của Kene, A.Đ.Smith, Ricacđô..
a. Quan điểm của Kene.
Kene được các Mac đánh giá là con đẻ của kinh tế chính trị học cổ điển và ông có công lao to lớn trong lĩnh vực kinh tế Kene đã đặt nền tảng cho việc nghiên cứu sản phẩm tức là nền móng cho việc nghiên cứu quan hệ thặng dư sau này. Ông đã đưa ra những quan điểm kinh tế để tiến hành phê phán chủ nghĩa trọng thương. Kene cho rằng trao đổi thương mại chỉ đơn thuần là việc trao đổi giá trị này lấy giá trị sử dụng khác theo nguyên tắc ngay giá. Hai bên không có gì để mất hoặc được cả. Bởi vậy thương nghiệp không đẻ ra tiền được. Theo ông lợi nhuận thương nghiệp có được do tiết kiệm các khoản chi về thương mại và của cải chỉ có thể tạo ra trong lĩnh vực sản xuất Nông nghiệp. Chính quan điểm này đã chuyển việc nghiên cứu của cải từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Ngoài ra ông còn có lý luận về sản phẩm thặng dư. Ông cho rằng sản phẩm thặng dư chỉ đựơc tạo ra sản xuất Nông nghiệp kinh doanh theo kiểm tư bản chủ nghĩa bởi vì trong lĩnh vực sản xuất Nông nghiệp đã tạo ra được chất mới nhờ có sự giúp đỡ của tự nhiên. Đây là một quan điểm sai lầm. Nhưng ông cũng manh nha bước đầu tìm ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư. Ông cho chi phí sản xuất là tiền lương, sản phẩm tuy là số chênh lệch giữa thu hoạch và tiền lương đó chính là phần do lao động thặng dư tạo ra.
Với Petty lợi nhuận là khoảng dôi ra so với chi phí sản xuất và Petty cho rằng phần lợi nhuận dôi phụ thuộc và nhà tư bản là hợp lý. Đó là công lao về sự mạo hiểm của nhà tư bản ứng tiền ra sản xuất. Còn A.R.Jturogt thì cho rằng lợi nhuận là thu nhập không lao động do công nhân tạo ra.
b. Quan điểm của A.Smith.
Ông cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động có chung nguồn gốc là lao động không được trả công của công nhân. Ông chỉ ra lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho chủ nó để được sử dụng tư bản. Ông đã nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và xu hướng tỷ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng đầu tư tăng lên. Xuất phát từ sự phân tích giá trị hàng hoá do người công nhân tạo ra. A.Smith tháy một thực tế là ocong nhân chỉ nhận được một phần tiền lương, phần còn lại là địa tô và lợi nhuận của tư bản. Theo ông địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm lao động. Về mặt chất, nó phản ánh quan hệ bốc lột. Ông đã phân biệt địa tô và tiền tô. Theo ông địa tô cộng với lợi tức tư bản đầu tư cải tạo đất bằng tiền tô. Điều này tiền bộ hơn cả học thuyết trước đây. Tuy nhiên ông còn cho rằng sở dĩ Nông nghiệp có địa tô, vì lao động Nông nghiệp có năng suất cao hơn lao động công nghiệp và ông phụ nhận địa tô tuyệt đối. Ông cho rằng nếu thừa nhận địa tô tuyệt đối là vi phạm quy luật giá trị.
c. Quan điểm của Ricacdo:
Nếu như A.Smith sống trong thời kỳ công trường thủ công phát triển mạnh mẽ thì David Ricacdo sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Đó là điều kiện khách quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.Dsmith dừng lại. Ông là người kế tục xuất sắc của A.Smith. Theo C.Mác, A.Smith là nhà kinh tế của thời kỳ công trường thủ công còn D.Ricácdo là nhà tư tưởng của thời đại cách mạng công nghiệp ông sử dụng phương pháp khoa học tự nhiên, sử dụng công cụ trừu tượng hoá, đồng thời áp dụng các phương pháp khoa học chính xác, đặc biệt là phương pháp suy diễn để nghiên cứu kinh tế chính trị học.
Về lợi nhuận, D.Ricacdo cho rằng “Lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân” ông đã thấy xu hướng giảm sút tỷ suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong sự vận động, biến đổi thu nhập giữa 3 giai cấp địa chủ, công nhân và nhà tư bản. Ông cho rằng do quy luật mầu mỡ đất đai ngày càng giảm, giá cả nông phẩm tăng lên làm cho tiền lương công nhân tăng và địa tô tăng lên còn lợi nhuận không tăng. Như vậy theo địa chủ là người có lợi, công nhân không có lợi cũng không bị hại, còn nhà tư bản thì có hại vì tỷ suất lợi nhuận giảm xuống. Những hạn chế của ông là không phân biệt lợi nhuận thặng dư.
3. Quan điểm của trường phái Samuellson về lợi nhuận.
Theo Samuellson lợi nhuận kinh doanh là lợi tức ẩn, lợi nhuận là phần thưởng cao việc gánh chịu rủi ro cho sự đổi mới, lợi nhuận là lợi tức độc quyền.
Bởi ông cho rằng lợi nhuận kinh doanh là tổng hợp của nhiều khoản khác nhau. Phần lớn giá trị lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chỉ là phần lợi tức của các chủ sở hữu Công ty có được do lao động của họ hay do vốn đầu tư của họ mang lại. Nghĩa là tiều trả cho các yếu tố sản xuất do họ cung cấp. Nếu loại bỏ tất cả lợi tức ẩn thì ta được lợi nhuận thuần tuý và đó là phần thưởng cho sự gánh chịu rủi ro nói chung. Chúng ta không tính tới các rủi ro vỡ nợ hay các rủi ro có bản hiểm. Có một dạng rủi ro cần lưu ý khi tính toán lợi nhuận đó là rủi ro đầu tư không bảo hiểm. Doanh thu Công ty phụ thuộc rất lớn và thăng trầm trong chu kỳ kinh doanh. Do các nhà đầu tư rất không thích các trường hợp rủi ro nên họ đòi hỏi phải có mức phí dự phòng rủi ro cho những đầu tư không chắc chắn nhằm bù đắp cho những rủi ro của họ.
Lợi nhuận bằng doanh thu trừ chi phí. Lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chủ yếu là thu nhập Công ty.
4. Học thuyết của Mác-Lênin.
Mác viết “Tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động biểu hiện trong hàng hoá”.
Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị lao động vì lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Theo Mác, lao động cụ thể là lao động hao phí dưới một hình thức cụ thể của một nghề nghiệp chuyên môn nhất định, có mục đích riêng đối tượng riêng, thao tác riêng, phương tiện riêng, thao tác và kết quả riêng. Kết quả lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá. Lao động cụ thể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng cũng có nhiều loại. Tất cả các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn là một điều kiện không thể hình thức cụ thể của nó như thế nào gọi là lao động trừu tượng.
Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức óc, sức thần kinh và bắp thịt của người. Những bản thân sự hao phí lao động về mặt sinh lý đó chưa phải là lao động trừu tượng. Chỉ trong xã hội có sản xuất hàng hoá mới có sự cần thiết khách quan phải quý các loại lao động cụ thể khác nhau vốn không thể so sánh với nhau được tức là phải quy lao động cụ thể thành lao động trừu tượng. Vì lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu tượng nó tạo ra giá trị của hàng hoá là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu tượng nó tạo ra giá trị của hàng hoá.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn. Mâu thuẫn này còn biểu hiện ở lao động cụ thể với lao động trừu tượng, ở giá trị sử dụng với giá trị của hàng hoá “Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là điểm mấu chốt để hiểu biết kinh tế chính trị học”. Nó là sự phát triển vược bậc so với các học thuyết kinh tế cổ điển.
Mác và Ăngghen cũng là người đầu tiên đã xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư một cách hoàn chỉnh vì vậy, lý luận giá trị thặng dư được xem là hòn đá tảng to lứon nhất trong toàn bộ học thuyết kinh tế của Mác. Qua thực tế xã hội tư bản lúc bấy giờ Mác thấy rằng giai cấp tư bản thì ngày càng giầu thêm còn giai cấp vô sản thì ngày càng nghèo khổ và ông đã đi tìm hiểu nguyên nhân vì sao lại có hiện tượng này. Cuối cùng ông phát hiện ra rằng nếu tư bản đưa ra một lượng tiền là T đưa vào qua trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thì số tiền thu về lớn hơn số tiền ứng ra ta gọi là T’ (T’>T) hay T’ = T + DT.
C.Mác gọi DT là giá trị thặng dư ông cũng thấy rằng mục đích của lưu thông tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. Mục đích của lưu thông T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị thặng dư nên sự vận động T-H-T’ là không có giới hạn. Công thức này Mác gọi là công thức chung của tư bản.
Qua nghiên cứu Mác đi đến kết luận: “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở người lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”. Đây chính là mâu thuẫn chung của công thức tư bản. Để giải quyết mâu thuẫn này Mác đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra giá trị hàng hoá sức lao động. quá trình sản xuất ra hàng hoá và tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân giá trị sức lao động. Vậy quá trình sản xuất ra tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C.Mác viết: “Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình sáng tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là quá trình sản xuất ra hàng hoá, với tư cách là tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá ”.
Phần giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, nó được tính bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư. Vậy giá trị thặng dư (m) là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Qua đó chúng ta thấy tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê.
Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất của tư bản thì C.Mác đã chia tư bản ra làm hai bộ phận. Tư bản bất biến và tư bản khả biến.
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất được C.Mác gọi là tư bản bất biến và được ký hiệu là C.
Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến và được ký hiệu là: V.
Nhưng, trong đời sống hiện thực, người ta thấy Xí nghiệp nào sử dụng máy móc và công nghệ hiện đại thì ănng suất lao động cao hơn và nhờ đó thu được lợi nhuận nhiều hơn. Khi máy móc chưa được áp dụng phổ biến, nhà tư bản thu được lợi nhuận siêu ngạch, mặt khác, số lượng sản phẩm sản xuất ra sẽ nhiều hơn, do đó tổng khối lượng lợi nhuận mà nhà tư bản thu được cũng sẽ lớn hơn trước.
Như vậy ta thấy muốn cho tư bản khả biến hoạt động được phải có một tư bản bất biến được ứng với tỷ lệ tương đương và qua sự phân chia ta rút ra tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng để mua sức lao động. Còn tư bản bất biến có vai trò gián tiếp trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Từ đây ta có kết luận “Giá trị của hàng hoá bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng”, cộng với giá trị của tư bản khả biến đó (tức là giá trị thặng dư đã được sản xuất ra). Nó được biểu hiện bằng công thức:
Giá trị = c + v + m
Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến đã vạch ra thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư của nhà tư bản, (tư bản đã bóc lột một phần giá trị mới do công nhân tạo ra). Nó được biểu hiện một cách ngắn gọn qua quá trình.
Giá trị = c + v + m
Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm: c
Giá trị sức lao động của người công nhân mà nhà tư bản trả cho người công nhân): V
M = m’.V =
m.V
v
Giá trị mới do người công nhân tạo ra: v + m
Như thế tư bản bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là c + v, nhưng giá trị mà tư bản thu vào là c + v + m. Phần M dôi ra là phần mà tư bản bóc lột của người công nhân.
ở trên chúng ta nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư. Nhưng muốn hiểu về nó ta nghiên cứu sự bóc lột tư bản về mặt lượng. Các phạm trù tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư mà ta nghiên cứu sau đây sẽ biểu hiện về mặt chất của sự bóc lột.
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Ký hiệu của tỷ suất giá trị thặng dư là m’ ta có:
m’ =
m.100%
v
Tỷ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột công nhân. Thực chất đây là tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư, nhưng nó không biểu hiện lượng tuyệt đối của sự bóc lột tức là khối lượng giá trị thặng dư. Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến (v). Gọi M là giá trị thặng dư thừa (Tư bản khả biến là một đơn vị tư bản biểu hiện ra bên