Đặt vấn đề
Một trong những vấn đề nằm trong những quan tâm hàng đầu đặt ra cho sự nghiệp đổi mới đất nước, đó là phát triển nguồn nhân lực (NNL). Với vai trò quyết định sự thành bại của NNL trong sự nghiệp phát triển, vấn đề NNL luôn được đặt ra cấp thiết cho mọi thời kỳ và thời đại. Trong đó, một mảng vấn đề luôn là nỗi trăn trở của giới nghiên cứu và hoạch định chính sách, đó là phát triển NNL dân tộc thiểu số (DTTS) tại các địa bàn miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ở nước ta hiện nay.
Nước ta có 54 dân tộc, ngoài người Kinh là nhóm đa số, còn 53 DTTS, sinh sống tại 53 tỉnh thành phố trên cả nước. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK), năm 2009, dân số thuộc DTTS ở nước ta gồm 12.251.436 người, chiếm tỷ lệ 14,27% dân số Việt Nam.
Nhìn chung, vùng đồng bào DTTS sinh sống là vùng dân cư có tỷ lệ nghèo cao, có đời sống vật chất và tinh thần khó khăn hơn nhiều so với các vùng miền khác trong cả nước. Điều đó đã tác động mạnh mẽ tới thực trạng NNL của đồng bào. Nghị quyết 52/NQ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2016 về Đẩy mạnh phát triển NNL các DTTS giai đoạn 2016-2020 đã nhận định rất xác đáng rằng: NNL của các DTTS nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế. Lao động DTTS chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chủ yếu là lao động giản đơn và chưa qua đào tạo; nhận thức, kỹ năng sống, khả năng thích ứng môi trường mới còn hạn chế; tác phong và kỷ luật lao động của NNL các DTTS còn nhiều bất cập; số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ DTTS chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu thực tiễn.
25 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1600 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thách thức trong phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta nhìn từ tiếp cận văn hóa và tâm lý các tộc người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THÁCH THỨC TRONG PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC DÂN TỘC THIỂU SỐ NƯỚC TA
NHÌN TỪ TIẾP CẬN VĂN HÓA & TÂM LÝ CÁC TỘC NGƯỜI
Trịnh Thị Kim Ngọc
PGS.,TSKH., Viện Nghiên cứu Con người,
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
Đặt vấn đề
Một trong những vấn đề nằm trong những quan tâm hàng đầu đặt ra cho sự nghiệp đổi mới đất nước, đó là phát triển nguồn nhân lực (NNL). Với vai trò quyết định sự thành bại của NNL trong sự nghiệp phát triển, vấn đề NNL luôn được đặt ra cấp thiết cho mọi thời kỳ và thời đại. Trong đó, một mảng vấn đề luôn là nỗi trăn trở của giới nghiên cứu và hoạch định chính sách, đó là phát triển NNL dân tộc thiểu số (DTTS) tại các địa bàn miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ở nước ta hiện nay.
Nước ta có 54 dân tộc, ngoài người Kinh là nhóm đa số, còn 53 DTTS, sinh sống tại 53 tỉnh thành phố trên cả nước. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK), năm 2009, dân số thuộc DTTS ở nước ta gồm 12.251.436 người, chiếm tỷ lệ 14,27% dân số Việt Nam.
Nhìn chung, vùng đồng bào DTTS sinh sống là vùng dân cư có tỷ lệ nghèo cao, có đời sống vật chất và tinh thần khó khăn hơn nhiều so với các vùng miền khác trong cả nước. Điều đó đã tác động mạnh mẽ tới thực trạng NNL của đồng bào. Nghị quyết 52/NQ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2016 về Đẩy mạnh phát triển NNL các DTTS giai đoạn 2016-2020 đã nhận định rất xác đáng rằng: NNL của các DTTS nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế. Lao động DTTS chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chủ yếu là lao động giản đơn và chưa qua đào tạo; nhận thức, kỹ năng sống, khả năng thích ứng môi trường mới còn hạn chế; tác phong và kỷ luật lao động của NNL các DTTS còn nhiều bất cập; số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ DTTS chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu thực tiễn.
Thực trạng đó buộc chúng ta phải nhìn thẳng vào cả những thách thức mà các DTTS nước ta đang phải đối mặt trong phát triển, và đồng thời phải ý thức được cả những thách thức trong phát triển NNL tại các địa bàn rất đặc thù về mặt địa lý, văn hóa – xã hội mà các DTTS nước ta đang cư trú.
Trong 53 DTTS nước ta phần lớn cư trú ở các vùng miền núi, biên giới hải đảo. chiếm 3/4 diện tích cả nước. Vùng trung du và miền núi phía Bắc nước ta gồm 15 tỉnh Xét về mặt hành chính, vùng này bao gồm 15 tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Trung tâm vùng là Thành phố Thái Nguyên; Thành phố Việt Trì.
, với tổng diện tích là 95.264,4 km² và tổng dân số năm (20011) là 11.290.500 người, là địa bàn sinh sống của trên 30 DTTS nước ta. Với vị trí trên tiếp giáp Trung Quốc ở phía Bắc và Lào ở phía Tây, vùng trung du và miền núi phía Bắc chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong việc giao lưu kinh tế - văn hóa với các nước láng giềng anh em và chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia. Thực tế lịch sử đã khẳng định, vùng đồng bào các DTTS, nói chung và vùng trung du và miền núi phía Bắc nước ta, nói riêng là những vùng giàu tài nguyên, nhưng xa xôi hẻo lánh và dân cư thưa thớt. Từ xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa bàn miền núi để xâm lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của dân tộc ta. Ở đó, đồng bào DTTS chính là “Tấm phên dậu”, là “biên giới lòng dân” của Tổ Quốc và vùng DTTS đã từng là các căn cứ địa cách mạng. Tuy nhiên, nhìn chung vùng đồng bào DTTS vẫn là vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Do đó, vùng đồng bào DTTS, một mặt, họ luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng Chính phủ và của tòan thể cộng đồng xã hội. Mặt khác, đó cũng là những thách thức lớn cho việc thu hút, phát triển NNL cho địa bàn này.
I. Nguồn nhân lực các DTTS nước ta trong tiếp cận phát triển
Khái niệm nguồn nhân lực
Cho đến hiện nay, khái niệm nguồn nhân lực vẫn được coi là một khái niệm mở và là khái niệm trọng tâm của công cuộc phát triển. Hiện có rất nhiều cách tiếp cận và lý giải về nguồn nhân lực. Theo định nghĩa tổng quan của Liên hiệp quốc thì “nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước.” Trong đó, nguồn nhân lực có thể hiểu ở nghĩa rộng là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội và nguồn lực con người cho sự phát triển. Ở góc độ hẹp hơn, NNL được xem như là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia lao động và sản xuất xã hội.
Nói cách khác, NNL là tổng thể những tiềm năng của con người (trước hết & cơ bản nhất là tiềm năng lao động), bao hàm yếu tố thể lực, trí lực và nhân cách của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của một tổ chức hoặc một cơ cấu kinh tế - xã hội nhất định (Võ Xuân Tiến, 2010). NNL còn có thể được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng, Fischer & Dornhusch, 1995).
Nhiều người vẫn hay nhầm hai khái niệm nguồn nhân lực và lực lượng lao động. Cần phải phân biệt rõ hai khái niệm này để có những luận giải xác đáng khi phân tích. Lực lượng lao động được xác định là người lao động đang làm việc và người trong độ tuổi lao động có nhu cầu nhưng không có việc làm (người thất nghiệp). Nguồn nhân lực là những người đã, đang và sẽ bổ sung vào lực lượng lao động.
Khi nói đến nguồn nhân lực, tức là nói đến vốn con người. Các yếu tố phản ánh nguồn nhân lực được thể hiện gồm số lượng, chất lượng và cơ cấu, trong đó a) số lượng thể hiện ở quy mô; b) chất lượng thể hiện ở sức khoẻ, thể lực, trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, thẩm mỹ... trong đó thể lực, trí lực, tâm lực là ba yếu tố quan trọng nhất.
Phát triển nguồn nhân lực
Đi liền với nội hàm NNL chúng ta không thể không nhắc đến khái niệm phát triển NNL, một mảng ‘thực hành’ bấy lâu nhưng mới trở thành một lĩnh vực học thuật. Trong một nghiên cứu công phu gần đây, Richard Swanson (2009) mở rộng cách hiểu phát triển NNL như là một quá trình khơi nguồn và phát triển chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao khả năng thể hiện của cá nhân, đội ngũ, quá trình sản xuất và hệ thống tổ chức. Phát triển nguồn nhân lực chứa đựng hai thành tố cốt yếu: 1) đào tạo và phát triển hướng đến phát triển nghiệp vụ nhân lực để nâng cao khả năng thể hiện của cá nhân; 2) phát triển tổ chức nhằm khơi nguồn nhân lực để thay đổi khả năng thể hiện của cá nhân.
Theo cách suy luận ‘quá trình’ này, phát triển NNL vừa được coi như một hệ thống vừa được xem như một cuộc hành trình trang bị kiến thức, nâng cao kỹ năng thực hành cho người lao động, nhằm mở ra cho cá nhân những công việc mới dựa vào trên cơ sở những kỳ vọng và định hướng tương lai của từng tổ chức. Có thể nói, phát triển NNL là tìm cách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong mối quan hệ giữa giáo dục, đào tạo và phát triển. Trong đó, giáo dục được hiểu là các hoạt động học tập để chuẩn bị cho con người bước vào một nghề nghiệp, hoặc chuyển sang một nghề mới, thích hợp hơn trong tương lai. Xuất phát từ đặc điểm này, chúng tôi tập trung thảo luận khía cạnh giáo dục và đào tạo của phát triển NNL các DTTS ở Việt Nam. Dưới đây là vài nét khái quát về hệ thống chính sách của Nhà nước liên quan đến phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi.
Hình 1. Khung phân tích những thách thức của NNL DTTS
Khi xem xét về những cơ hội và thách thức trong NNL các DTTS, chúng ta xem xét vốn con người của đồng bào, những vấn đề của NNL trên trong mối quan hệ chặt chẽ với những vấn đề kinh tế - xã hội nơi mà cộng đồng các DTTS đang sinh sống. Khung phân tích đã được thể hiện theo mô hình trên đây.
II. Một số thách thức trong phát triển NNL vùng DTTS nước ta nhìn từ tiếp cận văn hóa tâm lý tộc người
1. Thách thức từ những điều kiện về vị trí địa lý và cơ hội tiếp cận của cộng đồng
Nhìn về điều kiện kinh tế - xã hội nói chung, chúng ta thấy, tới gần một nửa dân số DTTS nước ta (48,6%) sống tại vùng trung du miền núi phía Bắc. Có khoảng 30% (29,3%) sống tại các vùng Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung và Tây Nguyên. Như vậy, có đến gần 80% dân số của DTTS sống tại 3 vùng miền khó khăn nhất trong cả nước. Hầu hết các tỉnh trong ba vùng trung du miền núi phía Bắc, Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung và Tây Nguyên không chỉ có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và vị trí địa lý vô cùng cách trở: xa xôi hẻo lánh, núi non hiểm trở, hoặc là cũng là vùng chịu nhiều thiên tai như bão, lũ cuốn, sạt lở núi, cũng như các hệ lụy khác của hiện tượng biến đổi khí hậu. nhìn chung, đây là các vùng dân cư nghèo nhất trong cả nước ta.
Theo địa bàn cư trú, chúng ta thấy, Việt Nam có 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tỷ lệ người DTTS cao nhất sinh sống, trong đó có 7 tỉnh có tỷ lệ DTTS cao trên 80%, đều nằm ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc, là: Cao Bằng (94,25%), Hà Giang (86,75%), Bắc Kạn (86,63%), Lạng Sơn (83,01%), Sơn La (82,39%), Lai Châu (82,02%) và Điện Biện (81,58%), thì cũng đều là những địa phương nghèo so với các tình phía Bắc. Đồng thời các địa phương nghèo, cũng thường là các địa phương có các thứ hạng về HDI thấp nhất trong cả nước tham khảo Bảng 1 dưới đây)Do từ năm 2010 trở lại đây, các chuyên gia UNDP tính toán và công bố HDI theo phương pháp mới có bổ sung vào bộ công cụ tính toán tiêu chí nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index) và tiêu chí bất bình đẳng xã hội nên những nhóm nghiên cứu chúng tôi không thể tập hợp các kết quả của 2 phương pháp đo đạc và tính toán khác nhau vào một bảng xếp hạng để so sánh với nhau giữa các thời kỳ.
.
Bảng 1. Danh sách các tỉnh đông DTTS nhất
và có chỉ số HDI thấp nhất trong 10 năm 1999 - 2009
STT
Tên Tỉnh
Tỷ lệ DTTS
Thứ hạng HDI các tỉnh
Chỉ số HDI năm
1999
Chỉ số HDI năm
2004
Chỉ số HDI năm
2009
1
Tuyên Quang
51,79
49
0,624
0,651
0,684
2
Đắk Nông
35,61
50
..
0,629
0,681
3
Hòa Bình
72,27
51
0,574
0,629
0,681
4
Trà Vinh
31,65
52
0,600
0,653
0,668
5
Gia Lai
43,7
53
0,519
0,584
0,667
6
Bắc Cạn
86,63
54
0,585
0,623
0,666
7
Cao Bằng
94,25
55
0,541
0,596
0,658
8
Ninh Thuận
21,98
56
0,599
0,629
0,655
9
Lào Cai
66,88
57
0,527
0,608
0,644
10
Kon Tum
53,64
58
0,535
0,576
0,641
11
Sơn La
82,39
59
0,527
0,588
0,641
12
Yên Bái
46,0
60
0,580
0,620
0,631
13
Điện Biên
81,58
61
....
0,580
0,600
Nguồn: Nhóm NC tổng hợp từ các Báo cáo PTCN Việt Nam
của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và đề tài Thực trạng đời sống của các DTTS Việt Nam của Hội đồng Dân tộc
Bên cạnh đó, các điều kiện về cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống dân cư như điện, đường, trường, trạm, nước sạch,. mặc dù đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng tới trên 90% các xã, bản của đồng bào. Tuy nhiên, việc tiếp cận với những thành tựu của công cuộc đổi mới của đồng bào còn vô cùng hạn chế.
Cơ sở hạ tầng kém, điều kiện sinh hoạt khó khăn và địa hình hiểm trở đã làm hạn chế điều kiện và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và môi trường sống đảm bảo ... của người dân. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng, mà cả số lượng dân số và nguồn NNL tại các địa bàn nêu trên. Một số ví dụ thực tế là: tính đến cuối năm 2011, chỉ có 33% người dân ở 4 tỉnh Hà Giang: Đồng Văn, Mèo Vạc, Quảng Bạ và Yêm Minh được sử dụng nước sạch; Tại Lai Châu, chỉ có 53% hộ gia đình sử dụng điện nối mạng quốc gia, trong khi tỷ lệ này lên đến 100% ở một số tỉnh khác ở miền Bắc, như Vĩnh Phúc, Hải Phòng Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình, TCTK, 2011.
8...
Một số nơi khác nguồn nước sạch rất khó khăn vì phải bơm theo giờ đóng nối điện. Nhưng ở một số cộng đồng, vài tiếng đồng hồ có nước sạch không kịp để bà con dự trữ nước dung lúc không có điện, mà chỉ kịp cho trẻ em và trâu bò trong bản tắm là hết giờ. Nhiều bản có nguồn nước sạch chứa trong bể cung của bản, nhưng dân bản cùng cả ngày mà không biết tiết kiệm (có khi để nước chảy cả ngày) nên khi bà con đi làm về dùng nước thì đã không còn.
Mặc dù ở hầu hết các xã vùng DTTS, kể cả các xã vùng cao, hiểm trở đều đã có trạm y tế xã, cùng các nhân viên y tế thôn bản. Tuy nhiên, người dân trong vùng, đặc biệt là số dân cư sống ở trên núi cao, ít có điều kiện tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Điều này đồng bào cho là có nhiều lý do: 1) đường xá xa xôi là trở ngại lớn cho người dân đi khám, chữa bệnh tại cơ sở y tế. 2) Chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của trạm y tế xã cũng còn nhiều hạn chế: nguồn lực, trang thiết bị và hạn chế cả về chất lượng và các phương tiện hỗ trợ đều rất thấp. Mặc dù Chính phủ đã nỗ lực hỗ trợ tăng cường chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ sở thông qua chính sách bố trí bác sỹ về làm việc tại các trạm xá xã. Tuy nhiên, nhiều xã vùng cao vẫn chưa có bác sỹ, vì khó thu hút cán bộ y tế từ miền xuôi lên. Chính sách cử tuyển gần đây cũng đã giúp các địa phương vùng DTTS giải quyết một số khó khăn về việc thiếu cán bộ chuyên môn có trình độ đạt chuẩn làm việc cho cấp xã. Tuy nhiên, nhiều sinh viên cử tuyển sau khi tốt nghiệp không muốn về làm việc ở tuyến xã, họ thường ở lại ít nhất là tuyến huyện TCTK, 2010, Báo cáo Điều tra Mức sống hộ gia đình và Bộ Y tế (2008) , Báo cáo chung tổng quan của ngành y tế. Năm 2008.
.
Đói nghèo trong dân cư là một đặc trưng của vùng DTTS. Ba vùng tập trung đông DTTS đều là 3 vùng có tỷ lệ nhèo đói cao nhất ở nước ta. Tuy nhiên, có một thực tế là, tỷ lệ giảm nghèo chủ là tỷ lệ của lãnh đạo địa phương các cấp cùng bà con phấn đấu trong cuộc sống cam go. Còn bà con ta không thích được thoát nghèo. Bởi quen tâm lý dựa dẫm, đồng bào sợ rằng sau khi thoát nghèo, họ không còn nhận được các chính sách hỗ trợ cao nhất của Đảng và Nhà nước.
3. Thách thức trong cơ hội tìm việc làm của lao động
Với địa bàn chủ yếu là rừng núi, lao động trong vùng DTTS nước ta chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông – lâm nghiệp, đặc biệt là 2 vùng có số lượng và tỷ lệ DTTS cao nhất cả nước là Trung du miền núi phía Bắc, nơi có trên 75% lao động làm nông nghiệp. Trong khi tỷ lệ này lực lượng này trên cả nước chỉ là 51,9%. Chưa nói đến việc nông nghiệp của đồng bào ta chủ yếu đang dừng lại ở mô hình nông nghiệp nương rẫy, tự cung tự cấp, phụ thuộc rất hiều vào thòi tiết, nên chất lượng và hiệu quả kinh tế từ đó chưa cao.
Ở các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, cũng như với các ngành nghề có chuyên môn kỹ thuật cao thì lực lượng lao động này chưa tiếp cận được và nếu có thì số lượng cũng rất hiếm, chất lượng cũng rất thấp. Mặc dù, Nhà nước đã ban hành Thông tư 58/2017, là nhà nước sẽ hỗ trợ (đóng bảo hiểm xã hội thay) cho các đơn vị sử dụng lao động là người DTTS tối đa là 5 năm/người lao động. Đồng thời, Ban Quản lý nhiều khu chế xuất và công nghiệp ở các tỉnh thành đã đề nghị các doanh nghiệp ưu tiên gia tăng cơ hội việc làm cho người DTTS với nhiều ưu đãi của địa phương. Tuy nhiên, trình độ tiếp thu thông tin kỹ thuật, trau dồi nâng cao tay nghề, theo yêu cầu sản xuất của các doanh nghiệp, thì lao động là người DTTS nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được và vì vậy tỷ lệ lao động tham gia các doanh nghiệp trong nước và liên doanh đều rất hiếm hoi. Trong bối cảnh cạnh tranh việc làm của lao động trẻ đang ngày một khốc liệt, nên việc làm của lao động người DTTS thường là những việc làm có thu nhập chưa cao.
Bảng 2. Cơ cấu dân số DTTS theo ngành nghề làm việc
các vùng trong cả nước trong đó có vùng DTTS
Tỷ lệ %
Nhóm dân số
Cả nước
Miền núi phía Bắc
Duyên hải miền Trung
Tây nguyên
Theo ngành
Nông nghiệp
51,9
75,0
58,5
73,4
Công nghiệp
21,5
9,9
17,5
7,9
Dịch vụ
26,5
15,1
24,0
18,6
Theo nghề
Nghề nông & nghề đơn giản
78,44
64,81
76,33
Ngành nghề có CMKT cao và trung bình
22,37% lao động có CMKT
6,26
7,31
5,93
Lao động quản lý
0,85
0,56 (ĐBSCL)
0,76
Nhìn lại ở các địa phương là trung tâm công nghiệp lớn, các khu chế suất quy mô, hiện đại với hàng vài chục ngàn công nhân, thì cũng rất ít phần trăm lao động người DTTS tìm được cơ hội việc làm tại đó. Riêng tỉnh Đắk Lắk là một điểm sáng về giải quyết việc làm cho lao động là người DTTS.
Theo số liệu thống kê của Sở LĐTB&XH tỉnh Đắc Lắc, riêng năm 2016 đã tỉnh giải quyết việc làm cho khoảng 26.850 người, trong đó lao động là người dân tộc thiểu số là 8.600 người. Tiền lương và thu nhập của người lao động khoảng từ 3,5 - 4,5 triệu đồng/người/tháng. Tuy nhiên, do trình độ học vấn, nghề nghiệp, nhận thức chính trị và tác phong công nghiệp của lao động là nguwoif DTTS còn nhiều hạn chế.Số người lao động bị mất việc làm hàng năm vẫn còn cao hơn các đối tượng khác.. Tham khảo. Công nhân lao động dân tộc thiểu số trong các doanh nghiệp tỉnh Đắk Lắk: Ý thức chấp hành kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp còn kém.
Riêng đối với đội ngũ cán bộ (làm công tác lãnh đạo, quản lý ở địa phương) tỷ lệ này ở vùng DTTS chiếm tỷ lệ không thấp hơn so với các vùng khác (0,92%). Có được kết quả này, phần nào nhờ chính sách ưu tiên nhân lực thuộc các DTTS tham gia công tác quản lý dân cư ở địa bàn, nên tỷ lệ này có cao hơn. Tuy nhiên, chất lượng NNL cũng đang là vấn đề nan giải.
Chính sách ưu tiên DTTS cũng được thực hiện trong việc tuyên truyền bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp. Trong tổng số các đại biểu Quốc hội khóa XII (493 người), có 87 đại biểu là người DTTS (tỷ lệ 17,7%), thuộc 32/53 thành phần dân tộc. Ở cấp địa phương, tỷ lệ DTTS tham gia Hội đồng nhân dân các cấp còn cao hơn. Tại nhiệm kỳ 2010 - 2015 tỷ lệ này là 20,53% ở cấp tỉnh, 20,18% ở cấp huyện và 24,4% ở cấp xã Ủy ban Dân tộc. (2010). “Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN”.
.
Tỷ lệ thành viên ủy ban nhân dân các cấp là người DTTS có thấp hơn, tương ứng bằng 10,9% (cấp tỉnh), 11,32% (cấp huyện), 17,9% (cấp xã). Điển hình có tỉnh như Cao Bằng tỷ lệ thành viên là DTTS tham gia ủy ban nhân nhân đạt gần 100%. Thực tế này cho thấy tỷ lệ người dân tộc tham gia hội đồng nhân dân các cấp (tính cơ cấu được ưu tiên) cao hơn tỷ lệ người DTTS tham gia vào ủy ban nhân dân (trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực quản lý được ưu tiên) Ủy ban Dân tộc. (2010). Tài liệu đã dẫn
.
Hình 2: Cơ cấu ngành nghề làm việc theo vùng
4. Thách thức về chất lượng NNL người DTTS từ góc độ trí lực
Một trong những chỉ báo cơ bản nhất của chất lượng dân số và NNL là tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ, thì tỷ lệ này ở các tỉnh trung du & miền núi phía Bắc vẫn là các tỉnh có tỷ lệ người lớn biết chữ thấp nhất trong cả nước. Trong đó hầu hết là các tỉnh miền núi phía Bắc (bảng 3 dưới đây).
Bảng 3: Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên tại một số tỉnh miền núi, đông dân tộc sinh sống
ĐVT:%
TT
Khu vực, đơn vị hành chính
Chung
Nam
Nữ
Chênh lệch
Trung toàn quốc
93,5
95,8
91,4
4,4
Ba vùng có tỷ lệ biết chữ thấp nhất
I
Trung bình vùng miền núi phía Bắc
87,3
II
Trung bình Vùng Tây nguyên
88,27
III
Trung bình Vùng ĐB sông Cửu Long
91,6
10 tỉnh có tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ thấp nhất
1
Lai Châu
57,4
71,9
42,7
29,2
2
Hà Giang
65,5
76,1
55,1
21,0
3
Điện Biên
67,6
80,7
54,8
25,9
4
Sơn La
75,2
86,7
63,8
22,9
5
Lào Cai
77,5
84,7
70,6
14,1
6
Gia Lai
80,5
86,6
74,5
12,1
7
Cao Bằng
82,2
87,2
77,4
9,8
Nguồn: Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009
Bảng trên cho thấy, trung bình từ 14 - 20% dân số là người DTTS có tuổi 15 trở lên không biết chữ và không hiểu được 1 câu đơn giản của tiếng Việt. Với điều kiện ngôn ngữ bất cập, họ không thể nghe được tiếng Việt, mà toàn bộ thông tin chủ yếu bằng tiếng Việt, thì thông tin về khoa học công nghệ và kinh tế xã hội đến với bà con người DTTS cực kỳ khó khăn. Thực tế ghi nhận tại một số tỉnh 3 miền Tây Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ cho thấy: các đối tượng mù chữ phần lớn là người cao tuổi, có tâm lý ngại đi học, cho nên việc vận động họ đến lớp là vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, giờ đây ngay cả thanh niên của nhiều gia đình có hoàn cảnh khó khăn, lại là lao động chính, nên họ cũng không có thời gian học tập.