Trong thanh toán quốc tế luôn có vai trò của các ngân hàng tham gia cung ứng dịch vụ, trong thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ, thực tế có nhiều ngân hàng tham gia vào quá trình luân chuyển chứng từ có giao dịch. Với đặc thù là hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, các ngân hàng thương mại ngày nay được tổ chức thành mạng lưới các chi nhánh, văn phòng giao dịch, văn phòng đại diện rộng khắp không chỉ trong nước mà còn ra thế giới.
Theo cam kết WTO về mở cửa dịch vụ ngân hàng, từ 1-4-2007, ngân hàng nước ngoài sẽ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, được đối xử bình đẳng so với ngân hàng trong nước, được kinh doanh tiền đồng và phát hành thẻ tín dụng. Điều này sẽ gây ra ảnh hưởng không nhỏ tới hệ thống ngân hàng trong nước. Một mặt sẽ giúp các ngân hàng trong nước đa dạng các loại hình dịch vụ và nâng cao năng lực cạnh tranh hơn. Khi các Ngân hàng nước ngoài vào thì sẽ kích thích hoặc sẽ tạo sức ép lên các ngân hàng trong nước đổi mới, đa dạng và phục vụ tốt hơn các loại dịch vụ ngân hàng. Nhưng mặt khác, các ngân hàng trong nước lại phải đối mặt với việc bị mất đi một phần hoạt động kinh doanh vốn trước kia là độc quyền của mình. Theo như một điều tra của Chương trình phát triển Liên hợp quốc tiến hành hồi cuối năm 2005 cho thấy trong số khách hàng được hỏi, 45% trả lời sẽ chuyển sang vay vốn ngân hàng nước ngoài, 50% sẽ lựa chọn dịch vụ ngân hàng nước ngoài thay thế, 50 % lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền (đặc biệt là gửi ngoại tệ). Nếu căn cứ vào điều tra này thì hệ thống ngân hàng trong nước sẽ mất đi một nửa hoạt động kinh doanh của mình. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng nước ngoài thì các ngân hàng Việt Nam sẽ huy động vốn được ít hơn. Nếu vậy, có thể ngân hàng Việt Nam sẽ phải vay vốn trên thị trường tiền tệ với chi phí đắt hơn để đáp ứng nhu cầu cho vay. Tuy nhiên có thể nói điều đó là khó tránh khỏi nhưng dù gì thì lợi nhiều hơn là hại.
17 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2855 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thanh toán quốc tế trong ngoại thương
I. Một số vấn đề chung về thanh toán quốc tế trong ngoại thương ở nước ta:
1. Khái niệm:
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả cà quyền hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác hay giữa một quốc gia với một tổ chức quốc tế , có thể thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước có liên quan.
2. Các nhân tố chủ quan tác động tới thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam:
2.1. Tổ chức mạng lưới thanh toán quốc tế:
Trong thanh toán quốc tế luôn có vai trò của các ngân hàng tham gia cung ứng dịch vụ, trong thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ, thực tế có nhiều ngân hàng tham gia vào quá trình luân chuyển chứng từ có giao dịch. Với đặc thù là hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, các ngân hàng thương mại ngày nay được tổ chức thành mạng lưới các chi nhánh, văn phòng giao dịch, văn phòng đại diện rộng khắp không chỉ trong nước mà còn ra thế giới.
Theo cam kết WTO về mở cửa dịch vụ ngân hàng, từ 1-4-2007, ngân hàng nước ngoài sẽ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, được đối xử bình đẳng so với ngân hàng trong nước, được kinh doanh tiền đồng và phát hành thẻ tín dụng. Điều này sẽ gây ra ảnh hưởng không nhỏ tới hệ thống ngân hàng trong nước. Một mặt sẽ giúp các ngân hàng trong nước đa dạng các loại hình dịch vụ và nâng cao năng lực cạnh tranh hơn. Khi các Ngân hàng nước ngoài vào thì sẽ kích thích hoặc sẽ tạo sức ép lên các ngân hàng trong nước đổi mới, đa dạng và phục vụ tốt hơn các loại dịch vụ ngân hàng. Nhưng mặt khác, các ngân hàng trong nước lại phải đối mặt với việc bị mất đi một phần hoạt động kinh doanh vốn trước kia là độc quyền của mình. Theo như một điều tra của Chương trình phát triển Liên hợp quốc tiến hành hồi cuối năm 2005 cho thấy trong số khách hàng được hỏi, 45% trả lời sẽ chuyển sang vay vốn ngân hàng nước ngoài, 50% sẽ lựa chọn dịch vụ ngân hàng nước ngoài thay thế, 50 % lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền (đặc biệt là gửi ngoại tệ). Nếu căn cứ vào điều tra này thì hệ thống ngân hàng trong nước sẽ mất đi một nửa hoạt động kinh doanh của mình. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng nước ngoài thì các ngân hàng Việt Nam sẽ huy động vốn được ít hơn. Nếu vậy, có thể ngân hàng Việt Nam sẽ phải vay vốn trên thị trường tiền tệ với chi phí đắt hơn để đáp ứng nhu cầu cho vay. Tuy nhiên có thể nói điều đó là khó tránh khỏi nhưng dù gì thì lợi nhiều hơn là hại.
Theo Tiến sỹ Lê Quốc Lý - Vụ trưởng Vụ Tài chính - tiền tệ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nhận xét về chất lượng của các ngân hàng trong nước: “Hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ truyền thống. Các dịch vụ hiện có là huy động vốn, cho vay tín dụng, dịch vụ thanh toán, và các dịch vụ khác như dịch vụ ngoại hối (mua bán ngoại tệ, dịch vụ kiều hối, thu đổi ngoại tệ), các dịch vụ ngân hàng điện tử. Khả năng huy động vốn còn nhiều hạn chế do sản phẩm huy động vốn chưa thực sự hấp dẫn. Điều này làm hạn chế khả năng khai thác lợi ích của dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng. Thời gian qua, tổng nguồn tiền gửi của hệ thống tăng là do sự phát triển của các ngân hàng cổ phần. Tuy nhiên, tình hình này có thể thay đổi khi Việt Nam phải thực hiện các cam kết song phương với Mỹ từ tháng 4 năm 2007. Tăng trưởng tín dụng của hệ thống có xu hướng giảm dần do quy mô thị trường tín dụng đã được mở rộng do các doanh nghiệp đẩy mạnh huy động vốn từ thị trường trong và ngoài nước thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu; do quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã làm giảm tỷ trọng vốn cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh đối với khối các doanh nghiệp này. Đồng thời, tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm lại cũng nhằm kiềm chế lạm phát trong những năm gần đây. Trong dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, mặc dù khả năng thanh toán đã được mở rộng so với trước đây nhưng vẫn có nhiều hạn chế.
Các quy định về séc du lịch, hối phiếu ngân hàng hoặc tiêu chuẩn an toàn trong thanh toán điện tử chưa được quy định rõ, dẫn đến tâm lý e ngại của các ngân hàng khi mở rộng dịch vụ này. Các sản phẩm trên thị trường tiền tệ hiện cũng có những hạn chế nhất định như chưa có quy định về chứng chỉ tiền gửi được giao dịch trên thị trường thứ cấp dẫn đến hạn chế về khối lượng giao dịch. Đối với các sản phẩm ngoại hối và nghiệp vụ phát sinh, mặc dù một số ngân hàng đã thử nghiệm nhưng trên thực tế việc cung cấp rộng rãi dịch vụ này còn nhiều hạn chế do chưa có quy định pháp lý cụ thể về tỉ giá và lãi suất đối với công cụ phát sinh. Các công cụ chuyển nhượng cũng có tình hình tương tự. Mặc dù gần đây, Chính phủ đã nỗ lực rất lớn trong việc ban hành pháp lệnh về công cụ chuyển nhượng trong đó đưa ra một số hình thức hối phiếu và séc nhưng một trong những công cụ rất quan trọng là công cụ nợ dài hạn để huy động vốn lại chưa có khuôn khổ pháp lý để thực hiện.”
Cũng theo bài báo “Vạ lây” trong thanh toán quốc tế chúng ta cũng thấy được một lỗ hổng trong hệ thống ngân hàng trong nước khi thâm nhập vào các thị trường mới:
Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ cả nước năm 2007 ước 109,21 tỷ USD và dự kiến năm 2008 là 133 tỷ USD.Giao thương những năm tới sẽ không dừng ở những thị trường truyền thống mà sẽ được mở rộng sang các nước châu Phi, Mỹ Latin hay Trung Đông. Một vấn đề đặt ra là nếu không khơi thông hệ thống thanh toán tại các thị trường mới thì cả doanh nghiệp và ngân hàng rất dễ bị “vạ lây”…
Lâu nay, khi mở đơn hàng tại các thị trường truyền thống như Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Nga... doanh nghiệp và ngân hàng đều yên tâm vì đã có một quá trình giao dịch trước đó. Những thị trường này, do môi trường pháp lý minh bạch, cầu hàng hóa cao, hệ thống thanh toán tốt nên nhiều nước đẩy mạnh xuất khẩu vào đây, dẫn đến cạnh tranh hàng hóa gay gắt. Thực tế này buộc các nhà xuất khẩu Việt Nam phải chuyển hướng sang thị trường các nước châu Phi, Mỹ Latin và Trung Đông. Tuy vậy, những thị trường mới này cũng không hoàn toàn dễ đối với doanh nghiệp xuất khẩu và ngân hàng thanh toán bởi những rủi ro muôn hình vạn trạng.
Bà Phan Thị Hồng Hải, Trưởng phòng thanh toán xuất nhập khẩu Vietinbank cho biết: “Có khi tàu về đến cảng, khách hàng đòi mở L/C lấy tiền nhưng không có hàng, kiểm tra mới biết khi quá cảnh tại các cảng trung chuyển, chủ tàu đã bỏ quên hàng ở cảng Đài Loan”. Bà Hải cho biết thêm một trường hợp khác khi Vietinbank mở L/C cho một chuyến tàu nhập nguyên liệu từ nước ngoài nhưng khi đi qua Singapore đã bị giữ lại do chủ tàu vướng phải rắc rối pháp lý với chính quyền sở tại, bất chấp con tàu đó đang chở hàng cho doanh nghiệp Việt Nam. Hiện tại, để xử lý các phát sinh tranh chấp trong thanh toán quốc tế, có rất nhiều cách nhưng không phải lúc nào cũng mang lại kết quả như mong đợi. Thông thường, cách xử lý êm thấm nhất là tự dàn xếp với nhau nhưng cách này rất ít khi có kết quả. Cách thứ hai là khởi kiện ra tòa án nước ngoài hoặc tòa án quốc tế nhưng ngay cả khi có phán quyết của tòa thì cũng không đồng nghĩa với việc bán án được thực thi triệt để. “Nếu bị đơn là công dân nước ngoài, không có tài sản tại Việt Nam thì lấy tài sản đâu để bảo đảm thực hiện phán quyết của tòa?”, bà Thúy nói. Lúc đó, lại phải giải quyết xung đột đó thông qua mối quan hệ với tư pháp quốc tế. Chẳng hạn như phán quyết của tổ chức trọng tài quốc tế trên cơ sở công ước NewYork 1958, (năm 1995, Việt Nam đã tham gia công ước này). Từ đó, nhờ các tổ chức trọng tài quốc tế ra phán quyết và chuyển qua bộ tư pháp của quốc gia có bị đơn nhờ can thiệp. Tuy nhiên, nếu bị đơn lại ở những quốc gia chưa tham gia vào công ước này thì chuyện kiện tụng rơi vào bế tắc.Vậy, bài học rút ra ở đây là gì? Theo bà Hải, cách tốt nhất trước khi đặt bút ký hợp đồng làm ăn, doanh nghiệp và ngân hàng thanh toán phải thực sự hiểu khách hàng, hiểu bản chất hệ thống giao dịch của nhau để phòng ngừa rủi ro. Trường hợp phải mang nhau ra tòa thì không khác gì “được vạ, má sưng”.
Từ thực tế trên, một vấn đề được đặt ra ở đây là muốn mở rộng được thị trường xuất khẩu mới, phải khơi thông được hệ thống thanh toán tin cậy mà ngân hàng là một trong những kênh thanh toán an toàn và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, để làm được điều này, nhiều lãnh đạo ngân hàng có nghiệp vụ thanh toán quốc tế đều khẳng định vai trò to lớn của các tham tán thương mại Việt Nam tại nước ngoài trong việc cung cấp thông tin về đối tác cho doanh nghiệp và ngân hàng thanh toán trong nước. Thế nhưng lâu nay, vai trò của tham tán trong vấn đề này hết sức mờ nhạt. Bà Hải nói: “Có thể các tham tán có quan hệ mật thiết với nhà xuất khẩu nhưng với ngân hàng thanh toán thì không và Vietinbank đành phải tìm kiếm thông tin bằng cách mua nhưng không phải lúc nào cũng mua được “hàng tốt”. Ông Trần Quốc Tuấn, Lãnh sự phụ trách thương mại Việt Nam tại thành phố Sanfrancisco (Mỹ) chia sẻ: “Chúng tôi vẫn trả lời cho các doanh nghiệp Việt Nam là các thông tin đối tác đưa ra có đáng tin cậy không, doanh nghiệp đó đang tồn tại hay đã bị giải thể, còn những thông tin “sâu” hơn thì phải mua”. Theo ông Tuấn, thông tin “sâu” ở đây bao gồm: tình hình tài chính của đối tác, năm vừa qua có “dính” kiện tụng hay đang chịu một phán quyết nào đó của tòa hay không..., và thương vụ sẽ chỉ cho doanh nghiệp hoặc ngân hàng Việt Nam tìm đến những địa chỉ đáng tin cậy để mua. Đối với thị trường Mỹ, nơi các định chế tài chính đều hoạt động trong một môi trường pháp lý hoàn hảo nên trở ngại trong thanh toán không không thể không xử lý được nhưng còn thị trường một số nước châu Phi như Kenia, Nigieria, Mozambique... thì sao? Rõ ràng, đây là một câu hỏi đang bỏ ngỏ cho không ít ngân hàng thương mại trong nước. Để có thể triển khai mảng nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại các thị trường xuất khẩu mới, các ngân hàng không thể thiếu vắng sự hỗ trợ của các tham tán thương mại nước ngoài.
Như vậy cùng với việc phải ngày càng hoàn thiện các dịch vụ hiện có thì hệ thống ngân hàng trong nước phải học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng trên thế giới để có thể mở rộng triển khai và phát triển các dịch vụ mới như: Phát hành chứng chỉ tiền gửi, đi vay trên thị trường quốc tế; nghiệp vụ thanh toán bù trừ bằng tài sản tài chính; giữ hộ và quản lý hộ tài sản, thu hộ thuế, tư vấn tài chính, cung cấp các kế hoạch hưu trí, mua bán nợ, phòng ngừa rủi ro ngoại tệ, môi giới tiền tệ. Tiếp tục phát triển thẻ thanh toán nội địa. Mở rộng các phương tiện, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt; tập trung phát triển các dịch vụ thanh toán cho việc mua bán hàng hoá, dịch vụ tại các trung tâm thương mại lớn, các siêu thị và cửa hàng tự chọn. Triển khai thí điểm việc quản lý chi tiêu tài chính công bằng thẻ thương mại; phát triển các dịch vụ thanh toán mới khác như dịch vụ ngân hàng điện tử và dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Hệ thống ngân hàng trong nước phải nhanh chóng áp dụng đầy đủ các thông lệ và chuẩn mực quốc tế vào hoạt động của các ngân hàng thương mại trong nước. Có như vậy hệ thống ngân hàng mới có thể đứng vững được trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt và có sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài lớn có uy tín và giàu kinh nghiệm. Việc phát triển hệ thống ngân hàng của Việt Nam sẽ giúp ích và tạo thuận lợi rất nhiều cho việc thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp trong nước và nếu như có thể chúng ta có thể trở thành một trung tâm dịch vụ tài chính uy tín thu hút được nhiều hơn nữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
2.2. Công nghệ thông tin và nhân sự:
Nhân tố công nghệ thông tin có ảnh hưởng rất lớn trong thanh toán quốc tế vì đối với hoạt động thanh toán quốc tế thì yêu cầu phải nhanh, chính xác và an toàn. Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ, internet và dịch vụ giao dịch trực tuyến ngày càng trở thành những công cụ quan trọng, quyết định tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tổ chức, đơn vị hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, thương mại điện tử, chứng khoán, … Ngày càng có nhiều phần mềm công nghệ thông tin phục vụ cho các hoạt động của các ngân hàng để đảm bảo sự chính xác, nhanh chóng và trên hết là sự an toàn tuyệt đối. Các ngân hàng trong nước đều chú trọng định hướng hoạt động trên cơ sở hiện đại hoá, ứng dụng công nghệ cao, tăng tiện ích và đa dạng hoá sản phẩm.
Mặc dù nước ta được coi là một nước đi sau nhưng với việc công nghệ thông tin ngày càng được phát triển và sự quan tâm áp dụng công nghệ thông tin tiên tiến vào hoạt động của mình thì các ngân hàng ngày càng đảm bảo được các yêu cầu trong thanh toán quốc tế.
Con người luôn là một yếu tố sống còn trong mọi hoạt động kinh tế. Đối với hoạt động thanh toán quốc tế đòi hỏi phải có những tiêu chuẩn nhất định như có kiến thức về thương mại quốc tế, được trang bị và hiểu biết về luật pháp, thông lệ và tập quán thương mại của các nước, có khả năng nắm bắt kịp thời những thay đổi trong thương mại và các sản phẩm dịch vụ trong hoạt động thanh toán quốc tế. Cán bộ thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế yêu cầu phải có trình độ và ý thức nghề nghiệp sẽ tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán quốc tế và chất lượng dịch vụ tốt hơn, thu được nhiều khách hàng hơn.
Đối với nước ta, nguồn nhân lực là một nhân tố rất đáng quan tâm. Mặc dù số người được đào tạo trong thanh toán quốc tế là khá lớn nhưng do còn nhiều bất cập trong hệ thống giáo dục mà đặc biệt là trình độ ngoại ngữ còn nhiều yếu kém nên nguồn nhân lực vẫn chưa thể đáp ứng được các yêu cầu của nghiệp vụ này. Các ngân hàng hay doanh nghiệp khi thuê một nhân viên mới ra trường cần đào tạo rất nhiều để đội ngũ đó có thể đáp ứng được yêu cầu công việc. Hơn nữa, kinh nghiệm trên thị trường quốc tế của chúng ta chưa nhiều nên rất dễ đến tình trạng rơi vào kiện tụng và phần thua thường giành cho phía Việt nam. Vì vậy, cần chú trọng vào công tác đào tạo và truyền đạt kinh nghiệm cho người đi sau để họ có thể đối phó được nhiều tình huống. Ngoài việc được đào tạo thì bản thân người lao động cũng cần tự rèn luyện nâng cao kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm của mình.
Theo bài báo “ Doanh nghiệp Việt nam còn nhiều bất cẩn trong thanh toán quốc tế”: Cứ khoảng 10 doanh nghiệp giao dịch xuất nhập khẩu qua ngân hàng HSBC thì 7 phải chỉnh sửa lại L/C (thư tín dụng). "Điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam là khi thanh toán quốc tế không xem kỹ các chứng từ L/C, không hiểu biết đầy đủ các hợp đồng và điều khoản đi kèm; không nắm bắt được một cách đầy đủ về các thủ tục giao nhận hàng, nhận biết đơn hàng cũng như các biện pháp quản lý rủi ro về mặt chứng từ, lãi suất, tỷ giá...". Điều này là hệ quả của việc nguồn nhân lực chưa đạt tiêu chuẩn.
Theo bà Bùi Tường Minh Anh - Giám đốc thanh toán quốc tế của ngân hàng HSBC: “Điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam còn là thiếu kinh nghiệm giao dịch trên thị trường quốc tế. Phần lớn không xem xét kỹ hoặc không hiểu hết những rủi ro về luật pháp có thể xảy ra từ những điểm chưa rõ ràng trong hợp đồng xuất nhập khẩu. "Nếu không biết rõ về tình hình kinh tế chính trị của những nước đối tác do chính sách của họ thay đổi thường xuyên, doanh nghiệp xuất nhập khẩu vào thị trường đó dễ bị rủi ro. Cũng còn nhiều quốc gia hiện có chính sách, luật lệ không rõ ràng. Ngoài ra, còn không ít nghiệp vụ mới đang gây tranh cãi giữa các quốc gia về thanh toán quốc tế" Vì vậy, để có thể tránh được những sự cố ngoài ý muốn này thì các doanh nghiệp cần một độ ngũ cán bộ đủ năng lực, hiểu biết và thường xuyên cập nhật thông tin một cách chính xác và nhanh chóng .
II. Thực trạng và giải pháp trong thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp nước ta trong tình hình lạm phát hiện nay:
1. Thực trạng thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp hiện nay:
Trong thời gian gần đây, lạm phát đã làm hàng loạt nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào và lãi suất vay ngân hàng tăng cao. Điều này khiến doanh nghiệp Việt Nam hiện gặp rất nhiều khó khăn trong thanh toán quốc tế. Liên tục trong 3 tháng qua, giá cả tăng cao. Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2008 đã tăng 9,19% so với tháng 12/2007. Chỉ riêng trong tháng 3/2008, CPI tăng 2,99% so với tháng trước. Như vậy, CPI 3 tháng đầu năm đã cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm đặt ra.
Doanh nghiệp (DN) đang chịu sức ép lớn từ những đợt tăng giá liên tục. Giá hàng loạt mặt hàng rất quan trọng như xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo, giấy, sợi, bông... cho đến giá nguyên liệu nông sản đua nhau tăng, dẫn đến nguyên vật liệu đầu vào tăng đến 30 - 40%, phí vận tải cũng tăng, giá nhà đất bị đẩy lên đến mức phi lý... Thêm nữa, việc ngân hàng tăng lãi suất khiến DN khó vay vốn, nếu vay được, lãi suất cũng cao, đầu tư có nhiều rủi ro. Lãi suất cho các DN vay phổ biến hiện nay vào khoảng 18 -24%. Khó khăn lớn nhất của các DN hiện nay không phải giá đầu vào mà là lãi suất ngân hàng, vì 90% vốn hoạt động của DN Việt Nam là vay ngân hàng. Theo ông Lý Ngọc Tuấn, Tổng giám đốc Tổng Công ty Đầu tư xây dựng và Thương mại Việt Nam: ”Thời gian qua, DN chúng tôi rất khó khăn khi vay vốn của ngân hàng, khi vay được, lãi suất cũng rất cao. Hiện tại, chúng tôi có 100 hợp đồng xây lắp và đầu tư với số vốn lên tới nhiều nghìn tỉ đồng. DN đang phải loay hoay giải quyết bài toán này. Chúng tôi đang bị kẹt trong nghịch lý, muốn giảm tiền vay vì lãi suất quá cao nhưng thực tế vẫn phải vay vì đói vốn. Lãi suất cao còn ảnh hưởng đến kế hoạch dự trữ vốn đầu tư kinh doanh của DN. Do lãi suất cao, để an toàn, các điều kiện mà ngân hàng ràng buộc DN ngày càng chặt chẽ, khó khăn hơn. Điều này sẽ kìm hãm sản xuất. “Có ý kiến cho rằng, nên cho dừng những công trình chậm tiến độ, kém khả thi, theo tôi không nhất thiết phải dừng những công trình thi công chậm tiến độ do điều kiện khách quan. Điều quan trọng là phải giải quyết tốt bài toán vĩ mô, phải cắt giảm những công trình đầu tư không hợp lý để đầu tư vào công trình mang lợi ích dân sinh, ví dụ, chúng ta thiếu điện thì nên ưu tiên đầu tư vào các công trình thủy điện. Nên cắt giảm những công trình như văn phòng, trụ sở. Chúng tôi có một số hợp đồng quốc tế mà những điều kiện đã bị chốt cứng. Trước sự biến động giá, biết chắc là thực hiện sẽ thua lỗ nhưng vì thương hiệu, vì hình ảnh đất nước nên vẫn phải làm. Thời kỳ khó khăn, nhiều DN phải tìm cách cắt giảm mọi chi phí nhưng chúng tôi lại làm ngược lại. DN sẽ trả cổ tức, tiền lương cho cán bộ công nhân viên sao cho có tính cạnh tranh, doanh nghiệp cũng tìm cách tăng mức tụ vốn. Chúng tôi sẽ cùng nhau vượt qua khó khăn này”, ông Tuấn nói.
Còn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu đang gặp khó khăn hơn so với các doanh nghiệp nhập khẩu: Đồng Việt Nam hiện tăng giá so với đồng đôla từ 6 - 7%. Điều này có nghĩa là hàng Việt Nam đắt lên, sức cạnh tranh kém đi. DN xuất khẩu thanh toán bằng đồng đô la sẽ bị thiệt. Và với tình trạng vốn của các doanh nghiệp chủ yếu là đi vay thì rủi ro còn cao hơn nữa. Ví dụ như việc anh Nguyễn Xuân Hoàng - Chủ doanh nghiệp sản xuất Mây tre đan xuất khẩu ở Hà Tây than phiền: “Hiện tại mức huy động vốn của các ngân hàng tăng đến chóng mặt, điều này khiến các doanh nghiệp như chúng tôi sản xuất phải dè dặt. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp dựa chính vào vay tín dụng. Nếu vay với mức cao như thế này, khi thanh toán xong đơn hàng, tôi e rằng công sức bỏ ra chỉ đủ trả tiền nhân công và lãi ngân hàng…”
2. Giải pháp cho các doanh nghiệp trong tình hình lạm phát hiện nay:
Muốn thoát khỏi tình trạng này thì chính phủ và các doanh nghiệp phải làm sao để giảm thiểu tình trạng lạm phát đang gia tăng. Theo ông Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc NHNN - Hội đồng Tư vấn tiền tệ quốc gia: ”Lạm phát vừa qua là do các nguyên nhân tăng tiền, do giá quốc tế và thiên tai, dịch bệnh. Hai nguyên nhân giá quốc tế và dịch bệnh là bất khả kháng, mình chỉ tạo điều kiện thích nghi, khắc phục. Riêng nguyên nhân tiền có 5 kênh: Do ta bỏ tiền ra mua USD vào với số lượng lớn trong một thời gian ngắn; tiền vay tín dụng tăng lên nhanh do yêu cầu sản xuất, kinh doanh…; nguồn vốn nước ngoài vào “dềnh” lên; hiệu quả đầu tư của ta không cao dẫn tới hệ số hiệu quả (ICO) “kéo” ra, gấp đôi các nước khu vực; tài khóa bội