Mang ảnh hưởng của tính chất kinh tếthịtrường, nền nông nghiệp nước 
ta chuyển dần từtựcung tựcấp sang sản xuất nông sản hàng hoá với sản lượng 
và chất lượng ngày càng được nâng cao, cải thiện rõ rệt. Song song với việc 
phát triển sản xuất nông sản hàng hoá là mởrộng và phát triển thịtrường đầu ra 
cho các mặt hàng này.Hướng đi quan trọng của đổi mới và phát triển nông 
nghiệp - nông thôn chính là chiếm lĩnh thịtrường trong nước, mởrộng và nâng 
cao vịthếtrên thịtrường xuất khẩu cho các mặt hàng nông sản phẩm - mục 
đích cuối cùng của hoạt động sản xuất nông nghiệp. 
Đánh giá chung mặt hàng nông sản phẩm xuất khẩu của nước ta đang 
từng bước khẳng định được lợi thếso sánh với xuất phát điểm Việt Nam là một 
nước nông nghiệp.Vịtrí sốmột sẽdành cho xuất khẩu gạo - đứng thứhai vềtrữ
lượng xuất khẩu trên thếgiới chỉsau Thái Lan. Nhưng bên cạnh đó, chè với đặc 
thù là cây công nghiệp ngắn ngày, thích hợp với điều kiện khí hậu và thổ
nhưỡng nước ta hứa hẹn sẽmang lại một nguồn lợi không nhỏ. Không giống 
nhưgạo, nhu cầu sửdụng chè là phổbiến trên thếgiới không phân chia theo 
vùng địa lý, tôn giáo mà chỉcó sựkhác biệt vềchất lượng là yếu tốquyết định 
duy nhất. Nắm bắt được điều này, chúng ta đã xác định được phướng hướng và 
biện pháp đểcó thểkhai thác được lợi thếvốn có của chính mình
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 37 trang
37 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2021 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản - Thực trạng và tiềm năng Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản - Thực trạng và tiềm năng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thị trường đầu ra cho 
sản phẩm thuỷ sản - 
thực trạng và tiềm năng 
Thị trường đầu ra cho 
sản phẩm thuỷ sản - 
thực trạng và tiềm năng 
NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A 
Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản - thực 
trạng và tiềm năng 
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU 
Mang ảnh hưởng của tính chất kinh tế thị trường, nền nông nghiệp nước 
ta chuyển dần từ tự cung tự cấp sang sản xuất nông sản hàng hoá với sản lượng 
và chất lượng ngày càng được nâng cao, cải thiện rõ rệt. Song song với việc 
phát triển sản xuất nông sản hàng hoá là mở rộng và phát triển thị trường đầu ra 
cho các mặt hàng này.Hướng đi quan trọng của đổi mới và phát triển nông 
nghiệp - nông thôn chính là chiếm lĩnh thị trường trong nước, mở rộng và nâng 
cao vị thế trên thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng nông sản phẩm - mục 
đích cuối cùng của hoạt động sản xuất nông nghiệp. 
 Đánh giá chung mặt hàng nông sản phẩm xuất khẩu của nước ta đang 
từng bước khẳng định được lợi thế so sánh với xuất phát điểm Việt Nam là một 
nước nông nghiệp.Vị trí số một sẽ dành cho xuất khẩu gạo - đứng thứ hai về trữ 
lượng xuất khẩu trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Nhưng bên cạnh đó, chè với đặc 
thù là cây công nghiệp ngắn ngày, thích hợp với điều kiện khí hậu và thổ 
nhưỡng nước ta hứa hẹn sẽ mang lại một nguồn lợi không nhỏ. Không giống 
như gạo, nhu cầu sử dụng chè là phổ biến trên thế giới không phân chia theo 
vùng địa lý, tôn giáo mà chỉ có sự khác biệt về chất lượng là yếu tố quyết định 
duy nhất. Nắm bắt được điều này, chúng ta đã xác định được phướng hướng và 
biện pháp để có thể khai thác được lợi thế vốn có của chính mình. 
Chính vì vậy trong lần viết đề án chuyên ngành em đã chọn đề tài: Xuất 
khẩu chè - hướng phát triển quan trọng của ngành chè Việt Nam. Đề án này 
NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A 
được hoàn thành với sự giúp đỡ của cô giáo - Thạc sĩ Vũ Thị Minh. Nội dung 
của đề tài này gồm ba phần: 
Chương 1 : Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu chè của Việt Nam. 
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu chè của Việt Nam 
Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của 
Việt Nam trong thời gian tới. 
PHẦN II: NỘI DUNG 
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU 
CHÈ CỦA VIỆT NAM. 
I.VAI TRÒ XUẤT KHẨU CHÈ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN. 
1.Sự ra đời và phát triển của ngành chè Việt Nam. 
Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, cả nước ta bước vào một thời kỳ đổi 
mới. Sau khi tiến hành thành công một thử nghiệm ở giai đoạn trước như: Liên 
kết công nông nghiệp (năm 1979 ra đời và hoạt động các xí nghiệp Liên hiệp 
công nông nghiệp - sản xuất chè ở trung du miền núi như: Phú Thọ, Yên Bái) 
cải tiến hệ thống sản xuất và tổ chức quản lý (1983 - 1986), năm 1987 ngành 
chè bắt đầu bước vào một giai đoạn tiến hành những thử nghiệm và đổi mới 
kinh tế một cách căn bản và hệ thống. 
Chè là loại cây công nghiệp dài ngày được trồng ở các tỉnh trung du và 
miền núi phía Bắc và Lâm Đồng. Sản xuất trong nhiều năm qua đã đáp ứng 
được nhu cầu về chè uống của nhân dân, đồng thời xuất khẩu đạt kim ngạch 
hàng triệu USD hàng năm. Tuy có những thời điểm giá chè thấp làm cho đời 
sống người làm chè gặp nhiều khó khăn nhưng nhìn tổng thể cây chè vẫn là cây 
giữ vị trí quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân và tạo việc làm cho người lao 
động, tăng thu nhập cho một bộ phận đáng kể nhân dân ở các vùng trung du, 
miền núi, vùng cao, vùng xa và góp phần bảo vệ môi sinh. Vì vậy việc phát 
triển 
NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A 
sản xuất chè là một hướng quan trọng nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của 
nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta. 
Biểu 1: Lực lượng sản xuất của ngành chè Việt Nam trong những năm 
2000.- 2010 
Đơn vị tính: Nghìn tấn 
 Năm 
Sản phẩm 
2000 2001 2002* 2010* 
Sản lượng chè búp tươi 30 450-500
Sản lượng chè búp khô 12 58 150-180
Xuất khẩu 55 40 56 110
Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam, Ghi chú * số ước tính và dự báo 
Diện tích chè của cả nước hiện nay chiếm tỷ lệ khá lớn, năm 1999 là 82 
nghìn ha chè, năm 2000 là 84 nghìn ha chè. Trong đó diện tích kinh doanh 
chiếm 65 nghìn ha, diện tích trồng mới là 2,2 nghìn ha, diện tích kỹ thuật cơ 
bản là 12,6 nghìn ha. Sản lượng chè khô xuất khẩu là 55 nghìn tấn năm 2000, 
đạt kim ngạch xuất khẩu 63 triệu USD. Năng suất chè búp tươi năm 1999 là 
4,46 tấn/ ha. Đó là một thành tựu đáng kể của ngành chè Việt Nam trong công 
cuộc phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết 
việc làm cho người lao động và làm nghĩa vụ quốc tế mà Chính phủ giao phó. 
Năm 2001, xuất khẩu được 40 ngàn tấn đạt giá trị là 70 triệu USD, dự tính năm 
2002 sẽ xuất khẩu được 56 ngàn tấn. 
2.Vị trí của ngành chè trong nền kinh tế quốc dân. 
NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A 
Chè là cây công nghiệp dài ngày, trồng một lần cho thu hoạch nhiều năm. 
Tuổi thọ của chè kéo dài 50 - 70 năm, cá biệt nếu chăm sóc tốt có thể tới hàng 
trăm năm. Chè đã có ở Việt Nam từ hàng ngàn năm nay, một số cây chè ở Suối 
Giàng (Nghĩa Lộ) có tuổi thọ 300 - 400 năm. Nhiều nhà khoa học cho rằng Việt 
Nam là một trong những cái nôi của cây chè. 
Chè là thứ nước uống có nhiều công cụ, vừa giải khát, vừa chữa bệnh. 
Người ta tìm thấy trong chè có tới 20 yếu tố vi lượng có lợi cho sức khoẻ, ví dụ 
cafein kích thích hệ thần kinh trung ương, tamin trị các bệnh đường ruột và một 
số axit amin cần thiết cho cơ thể. 
Chè được trồng chủ yếu ở trung du, miền núi và có giá trị kinh doanh 
tương đối cao. Một ha chè thu được 5 - 6 tấn chè búp tươi, có giá trị ngang với 
một ha lúa ở đồng bằng và gấp 3 - 4 lần một ha lúa nương. Vì vậy có thể nói 
cây chè là cây "xoá đói giảm nghèo, điều hoà lao động từ đồng bằng lên các 
vùng xa xôi hẻo lánh, góp phần phát triển kinh tế miền núi bảo vệ an ninh biên 
giới”. 
Sản xuất và xuất khẩu chè thu hút một lượng lao động khá lớn (hơn 22 
nghìn lao động chính kể cả lao động chính, kể cả lao động phụ và lao động dịch 
vụ là gần 300 nghìn người với mức thu nhập ổn định và không ngừng tăng (thu 
nhập bình quần quân toàn ngành năm 1996 đạt 250 nghìn đồng/người/tháng, 
năm 9 tăng lên 350 nghìn người/tháng). 
Trồng chè cũng chính là "phủ xanh đất trồng đồi trọc", cải thiện môi 
trường sinh thái. Với phương châm trồng chè kết hợp nông lâm, đào dãy hào 
giữa các hàng chè để giữ mùn giữ nước, sử dụng phân bón hợp lý ngành chè đã 
gắn kết được phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. 
Chè là một sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao và tiềm năng xuất khẩu lớn. 
+ Một ha chè thâm canh thu hoạch được 10 tấn búp tươi chế biến được 
hơn 2 tấn chè khô, đem xuất khẩu sẽ thu được một lượng ngoại tệ tương đương 
với khi xuất khẩu 200 tấn than và đủ để nhập khẩu 46 tấn phân hoá học. 
NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A 
+ Trên thế giới có khoảng 30 nước trồng chè nhưng có tới 100 nước uống 
chè. Như vậy tiềm năng về thị trường của chè Việt Nam rất dồi dào. Tuy nhiên, 
tốc độ phát triển cây chè của nước ta so với thế giới còn chậm. Năm 1939, Việt 
Nam xuất khẩu 2400 tấn chè - đứng hàng thứ 6 trên thế giới. Đến nay, Việt 
Nam xuất khẩu được hơn 20.000 tấn chè - đứng hàng thứ 17. Có thể thấy, trong 
vòng 60 năm, sản lượng xuất khẩu của nước ta tăng 8 lần những vị trí đã tụt đến 
10 bậc. 
+ Sản xuất chè của ta có nhiều thuận lợi: Điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu 
rất thích hợp với cây chè. Quỹ đất trồng chè lớn (khoảng 20 vạn ha) trong khi 
hiện nay ta mới chỉ trồng được khoảng 7 vạn ha. Bên cạnh đó, lao động vốn là 
lợi thế so sánh của nước ta, đặc biệt là lao động nông nghiệp với kinh nghiệm 
lâu đời trong trồng về chế biến chè. 
Tóm lại, có thể kim ngạch xuất khẩu chè còn kém xa các mặt hàng mũi 
nhọn khác (dầu mỏ, than, gạo) nhưng xét đến những tác động tích cực của nó về 
mặt xã hội và để tận dụng mọi nguồn lực hiện có, chúng ta nên tiếp tục phát 
triển sản xuất và xuất khẩu chè trong thời gian tới. 
3. Vai trò của xuất khẩu chè 
Chè là một cây công nghiệp dài ngày, thích hợp với khí hậu và đất đai ở 
miền núi phía bắc và trung du của nước ta.Cây chè còn đem lại nhiều nguồn lợi 
cho chúng ta việc xuất khẩu đã có một số vai trò rất quan trọng như: 
- Để phục vụ cho việc xuất khẩu chè thì trước hết chúng ta phải có các 
vùng chuyên trồng cây chè, như đồi núi ở trên thì cây chè thường phân bố ở 
trung du và miền núi. Đây là những nơi mà việc trồng lúa rất khó khăn. Do vậy 
cây chè đã trở thành một trong những cây chủ lực ở những khu vực này để xoá 
đói giảm nghèo, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho những người sống ở khu vưc 
này, tránh được hiện tượng nông nhàn trong nộng nghiệp và nó còn tạo ra một 
lượng thu nhập đáng kể cho những người trồng chè, góp phần nâng cao mức 
sống cho nhân dân ở vùng miền núi vốn rất khó khăn và cuộc sống rất cực 
nhọc. Do vậy việc xuất khẩu chè có một vai trò to lớn trong việc tạo ra công ăn 
NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A 
việc làm cho người lao động. Không những nó có vai trò về kinh tế mà nó còn 
có vai trò về an ninh quốc phòng, việc định canh định cư của các người trồng 
chè trên những vùng cao và hẻo lánh đã đảm bảo được an ninh biên giới của 
nước ta. 
 Việc trồng chè để xuất khẩu cũng có một vai trò to lớn trong việc bảo vệ 
môi trường sinh thái. Như chúng ta đã biết hiện nay hoạt động chặt phá rừng 
ngày càng diễn ra mạnh mẽ công với việc du canh du cư chặt nương phá rẫy 
của một số các đồng bào dân tộc đã hủy hoại môi trường sống của chúng ta. 
Việc trồng chè để phục vụ xuất khẩu đã phủ xanh đất trống đồi núi trọc, còn 
góp phần điều hoà không khí, ngoài ra cây chè còn một số tác dụng trong ngành 
y học. 
- Xuất khẩu chè tạo ra một nguồn vốn đáng kể cho đất nước, góp phần 
vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Chè là một trong những 
mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta, hàng năm mang về cho đất 
nước rất nhiều ngoại tệ để thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước như: 
Năm 2000 đã xuất khẩu được 45 ngàn tấn mang về cho đất nước khoảng 56 
triệu USD, năm 2001 đã xuất khẩu được 40000 tấn tăng 9,94% so với năm 2000 
đạt kim ngạch xuất khẩu 70triệu USD, 5 tháng đầu năm 2002 đã xuất khẩu 
được 25000 tấn đạt giá trị 28 triệu USD.Tuy nhữmg con số này vẫn chưa thực 
cao trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của chúng ta những xuất khẩu chè 
cũng đã đóng góp một nguồn vốn đáng kể cho đất nước thực hiện sự nghiệp 
công nghiệp hoá hiện đại hoá. 
Khi xuất khẩu chè thì chúng ta sẽ mở rộng được thị trường tiêu thụ và 
giao lưu học hỏi được nhiều bài học kinh nghiệm của các nước bạn. Hiện nay 
chúng ta xuất khẩu sang hơn 40 nước khác nhau. Từ đó tạo ra nhiều mối quan 
hệ kinh tế cho các doanh nghiệp trong ngành chè nói riêng và các doanh nghiệp 
trong cả nước nói chung, xuất khẩu chè ra nhiều thị trường thì làm cho các 
doanh nghiệp của chúng ta có thể tiếp thu được các thông tin nhanh hơn, và 
sáng tạo hơn. 
NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A 
Xuất khẩu chè thì chúng ta đã tạo ra sự ổn định cho những người trồng 
chè về mặt tiêu thụ sản phẩn từ đó họ yên tâm hơn với công việc của mình. Do 
đó chất lượng chè cũng phần nào được cải thiện từ đó nâng cao được khả năng 
cạnh tranh chè của nước ta trên thị trường thế giới. Và khi có thị trường tiêu thụ 
ổn định thì người trồng chè sẽ yên tâm và gắn bó với nghề của mình nhiều hơn. 
II.NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU CHÈ 
1.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành chè. 
a.Mang đặc điểm của ngành sản xuất nông sản phẩm. 
 - Tính thời vụ: cũng như tất cả các loại nông sản khác thì cây chè cũng 
mang tính thời vụ rõ ràng, có thời gian sinh trưởng theo mùa, thường thì cây 
chè cho thu hoạch vào mùa hè, không phải mùa nào cây chè cũng cho chúng ta 
thu hoạch. Do vậy chúng ta cần nắm rõ các quy luật sản xuất mặt hàng chè. 
Làm tốt công tác chuẩn bị trước mùa thu hoạch, đến kỳ thu hái là phải chuẩn bị 
đầy đủ lao động nhanh chóng triển khai công tác thu mua và tiêu thụ sản phẩm. 
 - Tính khu vực: chúng ta cũng biết cây chè không phải là cây trồng ở 
đâu cũng có thể sống và cho chất lượng tốt. Ở nước ta thì cây chè tập trung ở 
vùng núi phía Bắc và Trung Du, nói chung là tập trung ở những vùng cao, và 
được trồng ở các nông trường và do nông dân tự trồng hay trồng theo kiểu giao 
khoán của Tổng công ty chè Việt Nam. Do đặc điểm này vấn đề đặt ra là việc 
bố trí địa điểm thu mua, phương thức thu mua, chế biến và vận chuyển phải phù 
hợp với đặc điểm này. 
 - Tính tươi sống: Cây chè là một loài thực vật nên cũng rất dễ bị hỏng, 
kém chất lượng, tuỳ theo địa hình và khí hậu ở các nơi khác nhau mà cho chất 
lượng chè của chúng ta cũng khác nhau, và ở nước ta thì chè được trồng ở Thái 
Nguyên có chất lượng tương đối là tốt. Vì vậy khi chúng ta thu mua cần lưu ý 
phân loại, tốt nhất là chế biến ngay sau khi thu hoạch là tốt nhất. 
 - Tính không ổn định: Chè cũng giống như lúa và nhiều loại nông sản 
khác thường không ổn định sản lượng lên xuống thất thường, vùng này được 
mùa vùng kia mất mùa. Bởi có ý do này là do cây chè cũng phụ thuộc vào điều 
NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A 
kiện tự nhiên, khi khí hậu không phù hợp với cây chè thì nó sẽ cho chất lượng 
kém và sản lượng không cao như các năm mà thời tiết ưu đãi. 
b. Đặc điểm riêng của ngành chè. 
Cây chè thường phân bố ở các đồi núi và cao nguyên. Do đặc điểm này 
mà nước ta có thể nói có điều kiện rất thuận lợi cho việc sản xuất và trồng cây 
chè. Cũng do đặc điểm này thì yêu cầu đối với ngành chè cần phải có một trình 
độ thâm canh rất tốt và phải phù hợp với điều kiện và khí hậu ở các vùng cao 
này 
Ngành chè đòi hỏi phải có một hệ thống thuỷ lợi tốt và hiện đại để có thể 
đưa nước lên cao phù hợp với đặc điểm sinh sống của cây chè phục vụ cho việc 
tưới tiêu thuận lợi nhất. 
Công nghệ chế biến chè phải hiện đại đảm bảo được chất lượng chè theo 
đúng tiêu chuẩn. Không giống như các mặt hàng nông sản khác như luá, bông.. 
chè thì cần phải có một quy trình chế biến và bảo quản đúng quy cách và đúng 
kỹ thuật và nguyên liệu phải đưa vào chế biến ngay nếu để lâu sẽ ảnh hưởng 
đến chất lượng chè, lãng phí nguyên liệu 
Kỹ thuật chăm sóc cây chè cũng rất phức tạp từ khâu chọn giống tốt đến 
làm đất trồng hom, đều phải đúng theo quy trình kỹ thuật và điều này ảnh 
hưởng đến sự phát triển của cây chè sau này, mà cây chè không giống như 
nhiều cây nông sản khác chỉ trồng một vụ thì vụ sau lại trồng lại, nhưng cây 
chè thì có tuổi thọ cao thường vài chục năm, nên nếu làm tốt công đoạn gieo 
trồng tốt thì cây chè sẽ phát triển tốt và cho năng suất cao, tuổi thọ sẽ được kéo 
dài. 
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng chè 
Đây là điều kiện tiên quyết vì công nghệ dù có hiện đại đến đâu cũng 
không thể tạo ra sản phẩm tốt từ những nguyên liệu tồi. Chất lượng chè búp 
tươi được quyết định bởi các yếu tố: 
* Giống chè: 
NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A 
Có nhiều giống chè nhưng một số giống chính đã chiếm phần lớn diện 
tích. Phía Bắc trồng phổ biến 3 giống: Chè Shan ở vùng cao, chè Trung du và 
PH1 ở vùng thấp. Ngoài ra còn có các giống mới khác như: LĐP1, LĐP2, 
TR777, Vân Xương, Bát Tiên, Ngọc Thuý, Yabukita và 17 giống của Nhật 
đang khảo nghiệm, chiếm diện tích chưa đáng kể. Phía Nam có các giống Shan, 
Ấn Độ, TB11, TB14. Trong các giống trên, giống Trung du chiếm diện tích lớn 
nhất ( 59% tổng diện tích ), sau đó đến giống Shan ( 27,3% ) còn lại là PH1 và 
các giống khác. Chỉ có giống Shan cho chất lượng khá, còn lại các giống Trung 
du và PH1 cho năng suất khá nhưng chất lượng không cao, vị chè hơi đắng, 
hương kém thơm. Trong những năm qua, Viện nghiên cứu chè đã có nhiều cố 
gắng trong việc nhập nội thuần hoá, chọn lọc cá thể và lai tạo giống nhằm tạo ra 
một tập đoàn giống tốt và phong phú, tuy nhiên công tác này diễn ra còn chậm. 
Có thể nói giống chè ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chè xuất khẩu, hiện 
nay chúng ta vẫn chưa có nhiều giống chè có năng suất và chất lượng cao ngoại 
trừ chè Shan. 
* Quy trình thâm canh: 
Đầu tư cho trồng và chăm sóc chè đều thấp so với yêu cầu trung bình, 
đầu tư cho trồng là 6 - 7 triệu đồng/ ha đạt 40%, và cho chăm sóc là 3 - 3,5 triệu 
đồng/ ha đạt 80%. Ở những vùng nghèo, tỉ lệ này còn thấp hơn, thậm chí có 
vườn chè nhiều năm không được bón phân. Quy trình kỹ thuật chưa được thực 
hiện nghiêm túc, không thâm canh ngay từ đầu. Bón phân chưa đủ, thiếu cân 
đối, nặng về phân đạm thiếu hữu cơ và vi lượng. Cơ cấu phân bón như vậy 
không những làm nghèo đất, kiệt quệ cây chè, mà còn làm tăng vị đắng chát, 
giảm hương thơm của sản phẩm. Cá biệt, một số đơn vị áp dụng công thức bón 
phân cân đối đã tạo nên chất lượng chè rất đặc trưng như Mộc Châu, Thanh 
Niên. Đặc biệt, vấn đề nghiêm trọng đáng báo động hiện nay là việc sử dụng 
thuốc trừ sâu tuỳ tiện, không đúng liều lượng, chủng loại và quy trình. Hậu quả 
là dư lượng thuốc trừ sâu trong sản phẩm vượt quá mức cho phép; qua kiểm tra 
NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A 
sản phẩm của 5 đơn vị với 15 mẫu, đã phát hiện 4 mẫu ( 26% ) của 3 đơn vị có 
dư lượng thuốc trừ sâu cao. 
* Thu hái: 
Có thể coi thu hái là khâu cuối cùng trong công đoạn sản xuất nông 
nghiệp, sản phẩm của công đoạn này là những búp chè tươi sẽ được dùng làm 
nguyên liệu cho các công đoạn sau. Để đảm bảo chất lượng, việc hái chè phải 
tuân thủ nguyên tắc “một tôm hai lá” nghĩa là chỉ hái 1 búp và 2 lá non nhất. 
Trong những năm gần đây, việc hái chè và thu mua chè búp tươi không theo 
tiêu chuẩn đã diễn ra trong hầu khắp cả nước, điển hình là ở những vùng buôn 
bán chè sôi động như Yên Bái, Phú Thọ, Lâm Đồng. Ở những vùng này, vào 
thời điểm chính vụ, nhiều đơn vị không mua được chè B, thậm chí cả chè C nếu 
xét đúng tiêu chuẩn. Nhiều nơi không có khái niệm chè A, B. Chè hái quá già ( 
5 - 7 lá ) và lẫn loại đã gây trở ngại cho quá trình chế biến, thiết bị chóng hư 
hỏng và tất cả dẫn đến chất lượng thấp, hàng kém sức cạnh tranh. 
* Vận chuyển: 
Khi búp chè đã hái ra khỏi cây thì dù muốn dù không công đoạn chế biến 
cũng đã được bắt đầu, đó là quá trình héo. Từ đây, búp chè đã phải tham gia vào 
quá trình với những đòi hỏi khắt khe về thời gian và điều kiện bảo quản. Chính 
vì vậy, vận chuyển chè búp tươi có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm. 
Hiện nay, khâu vận chuyển còn có nhiều nhược điểm: thứ nhất, số lần cân nhận, 
thu mua và vận chuyển trong ngày ít, thường chỉ 2 lần/ ngày ( so với Ấn Độ là 4 
- 6 lần/ ngày ), nên chè thường bị lèn chặt ở sọt hái trong thời gian dài, dẫn đến 
bị ngốt, nhất là vào mùa hè. Thứ hai, khoảng cách vận chuyển xa làm kéo dài 
thời gian vận chuyển. Thứ ba, không có xe chuyên dùng chở chè và không thực 
hiện đúng quy trình vận chuyển cũng dễ gây ôi ngốt dập nát. 
3. Môi trường chính trị luật pháp và các chính sách của nhà nước. 
 Môi trường chính trị và hành lang pháp lý của một quốc gia có ảnh 
hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất nhập 
khẩu nói riêng. Sự ổn định về mặt chính trị sẽ giúp cho mối quan hệ giữa hai 
NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A 
bên được thưc hiện. Chính vì vậy, trước khi đặt quan hệ với đối tác, các doanh 
nghiệp cần tìm hiểu và tuân thủ các quy định của chính phủ các nước liên quan, 
tập quán và luật pháp quốc tế liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động 
xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp yếu tố chính trị và pháp luật trở thành tiêu 
thức buộc các nhà kinh doanh phải tuân thủ khi lựa chọn thị trường xuất khẩu. 
Với ngành chè thì cũng vậy khi chúng ta xuất khẩu sang một nước nào đó thì 
chúng ta cần hiểu con người và luật pháp ở nước đó, cũng phải tìm hiểu xem 
tình hình chính trị ở nước đó như thế nào có ổn định hay không, người dân ở đó 
có hay uống chè hay không. 
 Mỗi một quốc gia đều có các chính sách về xuất khẩu riêng, ở nước ta 
sau đại hội Đảng lần thứ IX thì Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chủ trương 
khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu, và đã chủ chương 
thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Những điều này tạo rất nhiều điều kiện cho các 
ngành các doanh nghiệp khi tham gia vào việc xuất khẩu. Những phải nhìn 
nhận một cách khách quan rằng những chủ trương của Đảng và Nhà nước vẫn 
chưa được thực hiện một cách có hiệu quả. Nhiều mặt hàng không