Thị trường Eurocurrency

Ngày nay, đối với các đồng tiền mạnh, thị trường tiền tệ đã vượt ra ngoài biên giới truyền thống vốn có của chúng, do đó, chúng ta có thể ký một tờ séc bằng Dollar Mỹ từ tài khoản mở tại ngân hàng ở Tokyo, hoặc ký một tờ séc bằng Yên Nhật từ tài khoản mở tại ngân hàng ở New York. Tương tự, chúng ta cũng có thể dàn xếp một khoản tín dụng bằng Dollar Mỹ tại Hồng Kông hay Bảng Anh tại Madrid. Từ đó, dẫn đến một thực tế là: các đồng tiền khác nhau được duy trì bên cạnh nhau trên các tài khoản ngân hàng. Thị trường Eurocurrency là thị trường của các ngân hàng hải ngoại (Eurobanks) trong lĩnh vực huy động và cho vay ngắn hạn các đồng tiền lưu thông bên ngoài nước phát hành. Như vậy ta có EuroDollar là tiền gửi bằng Dollar Mỹ tại 1 ngân hàng nào đó ngòai nước Mỹ, EuroYên là tiền gửi bằng Yên Nhât tại một ngân hàng nào đó ngòai nước Nhật Các ngân hàng nhận tiền gửi đó là các ngân hàng EuroBank. Nói 1 cách khái quát, thị trường Eurocurrency là 1 bộ phận của thị trường tiền tệ quốc tế, bao gồm các hoạt động đi vay và cho vay với thời hạn đến 1 năm. Khởi đầu cho sự tăng trưởng Eurocurrency là sự xuất hiện Eurodollars từ những năm 1957. Thị trường Dollar Châu Âu rất rộng lớn, ước tính tổng số lượng của thị trường vượt trên 1000 tỷ USD, trong đó hoạt động của Eurodollar chiếm tới 65 - 70% tổng doanh số họat động toàn thị trường Eurocurrency, sau đó là Euromark, Eurofrancs, Eurosterling và Euroyen. Chính vì vậy, theo nghĩa hẹp, khi nói đến Eurocurrency thì người ta còn hiểu đó là thị trường Eurodollars.

doc21 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6625 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường Eurocurrency, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thị trường Eurocurrency Khái niệm thị trường Eurocurrency. Ngày nay, đối với các đồng tiền mạnh, thị trường tiền tệ đã vượt ra ngoài biên giới truyền thống vốn có của chúng, do đó, chúng ta có thể ký một tờ séc bằng Dollar Mỹ từ tài khoản mở tại ngân hàng ở Tokyo, hoặc ký một tờ séc bằng Yên Nhật từ tài khoản mở tại ngân hàng ở New York. Tương tự, chúng ta cũng có thể dàn xếp một khoản tín dụng bằng Dollar Mỹ tại Hồng Kông hay Bảng Anh tại Madrid. Từ đó, dẫn đến một thực tế là: các đồng tiền khác nhau được duy trì bên cạnh nhau trên các tài khoản ngân hàng. Thị trường Eurocurrency là thị trường của các ngân hàng hải ngoại (Eurobanks) trong lĩnh vực huy động và cho vay ngắn hạn các đồng tiền lưu thông bên ngoài nước phát hành. Như vậy ta có EuroDollar là tiền gửi bằng Dollar Mỹ tại 1 ngân hàng nào đó ngòai nước Mỹ, EuroYên là tiền gửi bằng Yên Nhât tại một ngân hàng nào đó ngòai nước Nhật… Các ngân hàng nhận tiền gửi đó là các ngân hàng EuroBank. Nói 1 cách khái quát, thị trường Eurocurrency là 1 bộ phận của thị trường tiền tệ quốc tế, bao gồm các hoạt động đi vay và cho vay với thời hạn đến 1 năm. Khởi đầu cho sự tăng trưởng Eurocurrency là sự xuất hiện Eurodollars từ những năm 1957. Thị trường Dollar Châu Âu rất rộng lớn, ước tính tổng số lượng của thị trường vượt trên 1000 tỷ USD, trong đó hoạt động của Eurodollar chiếm tới 65 - 70% tổng doanh số họat động toàn thị trường Eurocurrency, sau đó là Euromark, Eurofrancs, Eurosterling và Euroyen. Chính vì vậy, theo nghĩa hẹp, khi nói đến Eurocurrency thì người ta còn hiểu đó là thị trường Eurodollars. Sơ đồ tổng quan thị trường Eurocurency 2. Sự hình thành và phát triển của thị trường Eurocurrency. Sự ra đời của thị trường EuroCurrency được bắt đầu từ năm 1957. Trong thời gian này, cuộc chiến chống cộng sản của Mỹ và cuộc chiến tranh lạnh đang diễn ra gay gắt, nước Nga đã dần chuyển các khỏan tiền gửi và các khoản thu xuất khẩu bằng USD từ các ngân hàng Mỹ về gửi tại các ngân hàng Pháp ở Pari. Cũng vào năm này, Bank of England hạn chế khả năng các ngân hàng Anh cho vay bằng Sterling đối với người nước ngoài và người nước ngoài đi vay bằng Sterling. Quy định này đã khiến các ngân hàng Anh quay sang kinh doanh bằng USD 1958: Hiệp hội thanh toán Châu Âu giải thể, bây giờ các ngân hàng Châu Âu có thể nắm giữ USD mà không phải bán cho ngân hàng trung ương để lấy nội tệ 1960: Cán cân vãng lai của Mỹ thâm hụt do gia tăng chi phí cho cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Mặt khác, cán cân thanh toán chính thức của Mỹ cũng trở nên xấu đi do sự gia tăng hoạt động đầu tư của các công ty Mỹ ra nước ngoài, chủ yếu là tại Châu Âu. Kết quả là số lượng Dollar Mỹ do người không cư trú nắm giữ tăng lên, tạo điều kiện cho sự mở rộng của thi trường Eurodollars. 1963: Chính phủ Mỹ ban hành qui chế Q qui định mức lãi suất trần mà các ngân hàng nội địa được phép trả trên tài khoản và tiền gửi tiết kiệm là 5,25%/ năm. Nhưng qui chế này không áp dụng cho các ngân hàng hải ngoại, chính vì vậy đã kích thích các ngân hàng Mỹ mở chi nhánh ở nước ngoài tại các trung tâm như London. Cũng vào năm này, để khắc phục ảnh hưởng của các luồng vốn chạy ra lên thâm hụt của các cân thanh toán, Mỹ đã đánh thuế vào lãi suất (Interest Equalization Tax - IET) làm tăng chi phí của những người nước ngoài đi vay ở NewYork, do đó họ quay sang vay trên thị trường Eurocurrency (IET bãi bỏ vào 1974). 1965: Mỹ lại hạn chế các ngân hàng Mỹ cho người nước ngoài vay bằng “ Những nguyên tắc chỉ đạo hạn chế tín dụng cho người nước ngoài”. 1968: Chính phủ Mỹ ban hành chính sách hạn chế tự nguyện chuyển vổn ra nước ngoài ( Voluntary Foreign Credit Restreint), buộc các công ty đa quốc gia mỹ tài trợ tín dụng cho các chi nhánh ở nước ngoài bằng nguồn tài chính bên ngoài nước Mỹ, làm cho sự phát triển của thị trường Eurocurrency được khuyến khích 1973-1974: cú sốc giá dầu khiến các nước Opec đã ký gửi phần lớn số dư USD từ xuất khẩu dầu vào các Eurobanks( Các Eurobank đóng vai trò trung gian quan trọng trong việc trung chuyển vốn nhàn rỗi từ những quốc gia xuất khẩu dầu đến những quốc gia nhập khẩu dầu đang có nhu cầu USD 1978: cú sốc giá dầu lần 2, các Eurobank lại tiếp tục thực hiện chức năng trung gian của mình( vai trò của các Eurobank ngày càng quan trọng. 1981: Nhận thấy nhiều ngân hàng Mỹ đã thành lập các chi nhánh ở nước ngoài nhằm tránh các quy định hà khắc, Mỹ quyết định hợp pháp hóa các hoạt động ngân hàng quốc tế IBF (International Banking Facilities). Bản chất của IBF cho phép các ngân hàng Mỹ thực hiện các nghiệp vụ Eurobank độc lập với các quy chế của Mỹ, không yêu cầu tham gia dự trữ bắt buộc nhưng IBF chỉ cho phép nhận tiền gửi và cung cấp tín dụng cho người không cư trú. Nhân tố cuối cùng thúc đẩy các Eurobank phát triển là sự tăng trưởng thương mại thế giới. Trong giai đoạn này, nhiều công ty trở nên dư thừa vốn lưu động bằng ngoại tệ muốn tìm kiếm cơ hội thu lãi suất tiền gửi cao, trong khi đó những công ty khác lại có nhu cầu vốn ngắn hạn với mức lãi suất cạnh tranh. Do đó họ tìm đến các Eurobank 3. Các đặc trưng của thị trường Eurocurrency. Các trung tâm hoạt động chính của Eurobank là London, Paris, N-Y, Tokyo và Luxembourg Các trung tâm hải ngoại: Bahrain, Bahamas, Cayman Islands, Hong Kong, Panama…. Thông thường, hoạt động của Eurobank độc lập với những quy chế của chính phủ và không tham gia dự trữ bắt buộc, trần lãi suất và bảo hiểm tiền gửi. Những người sử dụng Eurobank là chính các Eurobank, tổ chức tài chính phi ngân hàng, các công ty đa quốc gia, tổ chức tài chính quốc tế, các chính phủ trung ương và địa phương. Lãi suất tiền gửi và cho vay của các Eurobank rất cạnh tranh, WB thường vay ở đây để cho các nước đang phát triển vay lại. Mức lãi suất quan trọng nhất trên thị trường Eurocurrency là mức lãi suất cho vay liên ngân hàng tại London. Những người đi vay phi ngân hàng phải trả mức lãi suất cao hơn LIBOR và phụ thuộc vào hệ số tính nhiệm và các chi phí giao dịch của các EuroBanks; ngược lại, những người có tiền gửi chỉ được hưởng mức lãi suất thấp hơn LIBOR. Trong những ngày đầu họat động, mức lãi suất tiền gửi và cho vay trên Eurocurency là cố định trong suốt thời hạn gửi tiền hay cho vay. Nhưng càng ngày mức lãi suất thả nổi càng được áp dụng phổ biến đối với các khỏan tiền gửi hay cho vay. Ưu điểm của lãi suất thả nổi là giúp các EuroBanks phòng ngừa sự biến động lãi suất, giúp tránh được rủi ro do bất cân xứng trong kỳ hạn vay và cho vay gây ra. 4. Các thành viên tham gia thị trường. Những thành viên tham gia thị trường Eurocurrency rất phong phú và đa dạng, bao gồm: Các chính phủ trung ương và địa phương, Các tổ chức tài chính, ngân hàng, Các MNC, Các định chế tài chính, ngân hàng quốc tế, Các nhà đầu tư tư nhân Các thành viên tham gia thị trường vì những động cơ sau đây: -Tài trợ thương mại: Rất nhiều giao dịch thương mại được tài trợ bằng đi vay trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn quốc tế -Đi vay và cho vay: Nhiều chu chuyển vốn đơn giản chỉ là hành động của những người tiết kiệm với mong muốn nhận được lãi suất cao nhất; trong khi đó, những người đi vay đơn giản chỉ tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí lãi suất thấp nhất. -Đầu cơ: Nhiều hành động đi vay và cho vay chỉ vì muốn tạo ra các trạng thái đầu cơ nhằm kiếm lợi trên cơ sở thay đổi mức lãi suất và tỷ giá. -Bảo hiểm: Nhiều hành động đi vay và cho vay nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro; nghĩa là nhằm giảm thiểu thua lỗ phát sinh do thay đổi lãi suất và tỷ giá. -Đưa vốn chạy trốn: Nhiều chu chuyển vốn xảy ra chỉ vì những nhà đầu tư muốn tránh khỏi bị đánh thuế nặng, khỏi bị chính quyền địa phương tịch thu, hay thóat khỏi những hạn chế trong chuyển đổi tiền tệ, tránh rủi ro chính trị có thể xảy ra. 5. Lợi thế cạnh tranh của các EuroBanks. Thị trường Eurocurrency được định nghĩa như là thị trường của các ngân hàng hải ngoại Eurobanks, do đó khi nói đến lợi thế cạnh tranh của thị trường Eurocurrency cũng có nghĩa là ta đang nói đến lợi thế cạnh tranh của các Eurobanks so với các ngân hàng thương mại nội địa. a. Thị trường Eurocurrency sử dụng lãi suất thả nổi nên giúp các Eurobanks phòng ngừa được sự biến động của lãi suất, trong khi đó hầu hết các ngân hàng nội địa không áp dụng loại lãi suất này, nghĩa là các ngân hàng nội địa thường huy động tiền gửi không kỳ hạn hay có kỳ hạn ngắn, nhưng các khoản cho vay thường là trung hạn hay dài hạn, do đó bộc lộ nhiều rủi ro cao hơn. b. Trong thời gian chính phủ Mỹ tăng cường kiểm soát hoạt động của các ngân hàng nội địa bằng nhiều biện pháp thì lợi thế cạnh tranh lớn nhất của các Eurobanks lúc này là không bị kiểm soát bởi các quy chế khắt khe. c. Sau khi chính phủ Mỹ bãi bỏ các quy chế kiểm soát chặt chẽ đối với hoạt động của các ngân hàng Mỹ thì các Eurobanks vẫn rất thành công do nó có khả năng trả lãi suất tiền gửi cao hơn và thu lãi suất cho vay thấp hơn so với các ngân hàng Mỹ. Đây là lợi thế cạnh tranh nổi bật nhất và là nguyên nhân cơ bản giúp cho các hoạt động của các Eurobanks tồn tại, được ưa chuộng và phát triển. Ta có thể biểu diễn một cách dễ hiểu thông qua sơ đồ sau: Vậy tại sao các Eurobanks lại có khả năng đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn như vậy? Giải thích cho điều này có nhiều nguyên nhân nhưng ta có thể đưa ra các nguyên nhân chính sau: + Trong khi các ngân hàng kinh doanh nội địa chịu sự kiểm soát của chính phủ Mỹ thì các Eurobanks được hoạt động một cách độc lập, hơn nữa nó không chịu sự quản lý về trần lãi suất và không phải tham gia dự trữ bắt buộc . Do đó khi các ngân hàng nội địa phải trích một phần tài sản có của mình để đáp ứng nhu cầu dự trữ chính thức không có lãi suất hoặc lãi suất rất thấp thì các Eurobanks chỉ phải duy trì một lượng tài sản tối ưu có mức lãi suất thấp làm tài sản dự trữ, chính vì vậy mà các Eurobanks có nguồn vốn dồi dào hơn. + Lợi ích kinh tế từ quy mô giao dịch lớn của các Eurobanks. Nhìn chung, mức trung bình của mỗi khoản tiền gửi và mỗi khoản cho vay của Eurobanks lớn hơn nhiều so với giao dịch của các ngân hàng nội địa. Điều này có nghĩa là chi phí hoạt động trung bình liên quan đến mỗi USD nhận tiền hay cho vay của Eurobanks là rất thấp. + Trong khi các ngân hàng nội địa phải duy trì một hệ thống chi nhánh cồng kềnh và tốn nhiều chi phí thì các Eurobanks tránh được đáng kể các chi phí liên quan đến tổ chức cán bộ, hành chính và sự chậm trễ phát sinh do phải tuân theo các quy định ngân hàng nội địa. Hơn nữa, các ngân hàng nội bộ cần một cơ chế kiểm soát nội bộ chặt chẽ và thường chịu chi phí rất lớn cho những hoạt động về pháp lý thì các Eurobanks giảm được đáng kể những chi phí này. + Những hoạt động của các Eurobanks chịu sự cạnh tranh quốc tế mạnh mẽ bên cạnh những điều kiện tham gia hoạt động trên thị trường này tương đối dễ dàng so với những hoạt động ngân hàng nội địa. Điều này khiến cho các Eurobanks hoạt động càng trở nên hiệu quả và càng trở nên cạnh tranh hơn. + Các Eurobanks không phải trả phí bảo hiểm tiền gửi, trong khi đó các ngân hàng Mỹ phải trả phí bảo hiểm cho những khoản tiền gửi tại FDIC. + Nhìn chung, đội ngũ khách hàng được các Eurobanks cho vay đều là những khách hàng có chất lượng cao, có tỷ lệ vỡ nợ không đáng kể. Trong khi đó, những khách hàng mà các ngân hàng nội địa cho vay thường có tỷ lệ vỡ nợ khá cao, do đó các ngân hàng này phải thu thêm một khoản phí cho vay để bù đắp rủi ro, làm cho mức lãi suất cho vay bị đội lên và mức lãi suất tiền gửi giảm xuống. 6. Cơ chế tạo tiền gửi và tín dụng bằng Eurodollar. Để trả lời được câu hỏi tiền gửi EuroDollar được tạo ra như thế nào, chúng ta hãy xét ví dụ về 1 công ty của Mỹ có tên là UPS. Công ty này quyết định chuyển 1 triệu USD ra khỏi nước Mỹ từ tài khỏan tiền gửi tại 1 ngân hàng của Mỹ có tên là USBank sang 1 tài khỏan Eurodollar của 1 ngân hàng Anh UKBank. Bước thứ 1, công ty UPS rút 1 triệu USD từ tà khỏan tiền gửi của mình bằng Sec chuyển sang gửi tạm UKBank. Sau đó, UKBank gửi số tiền nhận được là 1 triệu USD trên tài khỏan của mình tại USBank. (Trong ví dụ này, ngân hàng USBank và UKBank là 2 ngân hàng đại lý cho nhau nên mở tài khỏan cho nhau.) Bước thứ 2, chúng ta sử dụng chữ T truyền thốn để biểu diễn trạng thái thay đổi tài sản của các bên tham gia như sau: Sự di chuyển Dollar bởi công ty UPS từ USBank sang ngân hàng EuroBank là UKBank không làm giảm tổng USD tiền gửi tại hệ thống ngân hàng Mỹ. Tất cả những gì xảy ra chỉ liên quan tới họat động ghi cép ổ sách mà không đòi hỏi bất cứ 1 USD nào phải di chuyển về măt cơ học ra khỏi hệ thống ngân hàng Mỹ. Duy nhất có 1 sự thay đổi đáng chú ý sau khi các nguồn vốn đã di chuyển là: Ngân hàng UKBank bây giờ được quyền đòi(quyền sử dụng) khỏan tiền gửi bằng USD của công ty UPS trước đây. Tổng tiền gửi tại USBank là không thay đổi, nhưng chỉ có quyền sử dụng tiền gửi là thay đổi. Cần lưu ý là khi công ty UPS của Mỹ chuyển vốn sang hị trường EuroDollar, làm cho tổng tiền gửi của dân chúng Mỹ(người cư trú Mỹ) bị giảm xuống. Đối với Ngân hàng UKBank thì sao? Tổng tài sản nợ bằng tiền gửi của nó tăng, hay nói cách khác, tiền gửi bằng EuroDollar đã được tạo ra. Đồng thời với việc tăng tài sản nợ, thì dự trữ của UKBank dưới dạng tiền gửi tại USBank cũng tăng. Bây giờ UKBank có thể sử dụng 1 phần tiền dự trữ của mình để cho vay hay đầu tư. Giả sử, UKBank dùng tiền dự trữ bằng Dollar cho vay 1 công ty đa quốc gia có tên là MBI. Công ty này nhận tiền vay và sau đó gửi tại 1 ngân hàng của Anh có tên là LDBank và LDBank lại gửi 1 khỏan dự trữ bằng USD dưới dạng tiền gửi tại ngân hàng USBank. Chúng ta sử dụng chữ T truyền thống để biểu diễn trạng thái thay đổi tài sản của các bên tham gia như sau: Qua quan sát thấy rằng, tổng tiền gửi bằng USD tại USBank là không thay đổi. Nhưng tổng tiền gửi bằng EuroDollar đã tăng từ 1triệu USD lên 2 triệu USD, bao gồm 1 triệu tiền gửi của công ty UPS tại USBank vẫn còn hiệu lực và 1 triệu của công ty MBI tại LDBank. Sự tạo ra USD ngòai nước Mỹ này được gọi là số nhân trong mở rộng EuroDollar. Kể từ khi công ty UPS gửi 1 trệu tại UKBank đã tạo ra tiền gửi mới bổ sung khi UKBank cho công ty MBI vay. Điểm cần lưu ý là sự tạo ra Eurodollar không chỉ dừng lại ở mức 2 triệu USD. Chúng ta hãy quan sát tài khỏan chữ T của ngân hàng LDBank, thấy rằng ngân hàng này đang có nguồn dự trữ là 1 triệu USD có thể cho vay được. Nếu khỏan cho vay của ngân hàng LDBank lại được gửi tại 1 EuroBank nào đó, thì tổng lượng tiền EuroDollar được tạo ra sẽ tăng lên 3 triệu USD (nếu như LDBank cho vay tòan bộ tiền dự trữ là 1 trịêu Dollar). Ví dụ trên hàm ý rằng sự mở rộng EuroDollar theo cấp số nhân là không có giới hạn. lĐây chỉ là khả năng lý thuyết cho nên kết quả xảy ra trong thực tế là không hòan tòan như vậy. Tại sao ại như vậy? Bởi vì sự giải thích của chúng ta đã dựa vào 2 giả thuyết không thực tế là: i) Ngân hàng UKBank đã cho công ty MBI vay 100% (1 triệu USD) dự trữ mới được hình thành , và ngân hàng LDBank cũng làm tương tự; ii) Công ty MBI đã gửi 100% (1 triệu USD) khỏan tiền vay được tại 1 ngân hàng khác thuộc hệ thống EuroBanks. Đây là những giả thuyết không thực tế, tại vì: thông thường UKBank phải duy trì 1 lượng dự trữ nhất địnhdưới dạng tiền gửi của ngân hàng kh1c để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng( gọi là dự trữ thanh tóan), do đó, nó chỉ có thể cho MBI vay ít hơn 1 triệu USD. Giả sử tỷ lệ tiền dự trự thanh tóan là 10% trên t63ng số tiền gửi , thì ngân hàng UKBank chỉ có thể cho MBI vay tối đa là 900.000 USD và giữ lại 100.000 USD làm dự trữ tanh tóan. Giả sử công ty MBI sử dụng tòan bộ số tiền vay được gửi tại 1 ngân hàng EuroBanks khác, thì tổng số tiền gửi thuộc EuroDollar bây giờ chỉ là 1,9 triệu USD,nhỏ hơn 2 triệu USD. Tuy nhiên, đây va764n chưaphảilà kết quả cuối cùng. Nếu công ty MBI quyết định sử dụng 1 phần tịền vay của mình gửi tại các EuroBank, và phần còn lại gửi tại các ngân hàng Mỹ. Trong trường hợp này, đã xảy ra rò rỉ 1 lượng USD từ hệ thống EuroDollar. Giả sử MBI sử dụng 80% số tiền vay được gửi tại 1 ngân hàng của Mỹ ở Oasinton và phần còn lại 20% gửi tại LDBank, thì tiền gửi bằng EuroDollar chỉ tăng lên 1.180.000 USD (bao gồm 1 triệu USD tiền gửi của công ty UPS + 20% khỏan vay 900.000USD của MBI.) . Như vậy, có thể kết luận: khả năng mở rộng tiền gửi bằng EuroDollar phụ thuộc vào (i) tỷ lệ dự trữ thanh tóan của các EuroBank và (ii) tỷ lệ rò rỉ của USD khỏi hệ thống EuroDollar. Những bằng chứng thực tế cho thấy rằng, sự di chuyển của USD từ hệ thống ngân hàng nội địa sang hệ thống ngân hàng hải ngọai (EuroBanks) đã tạo số tiền là 1.22 lần so với sự dịch chuyển ban đầu. Điều này có nghĩa là, mỗi triệu USD di chuyển từ hệ thống Ngân hàng Mỹ sang hệ thống EuroBank sẽ làm tăng tổng tiều gửi bằng EuroDollar là 1.220.000 USD. Điều này hàm ý rằng, thành phần chính trong tổng tiền gửi bằng EuroDollar chính là khỏan tiền ban đầu (1 triệu USD ) di chuyển từ hệ thống ngân hàng nội địa sang hệ thống ngân hàng hải ngọai, hay nói cách khác, hệ số tạo tiền của những USD khi đã nằm trong hệ thống EuroDollar là rất thấp (1.22). Những USD rò rỉ ra khỏi ngân hàng nội địa có xác xuất quay trở lại hệ thống lưu thông nội địa rất cao. 7.Những ý kiến phản đối về Euromarkets. Một trong những mối quan tâm chính đến thị trường Eurocurrency là ở chỗ, thị trường này bao gồm một khối lượng nguồn vốn khổng lồ có khả năng tạo tín dụng, nhưng lại không có bất cứ một quy chế nào điều chỉnh. Lý luận cho rằng, những hoạt động của Eurobanks như một quả bom tiềm ẩn được cài đặt dưới hệ thống tài chính thế giới. Thực tế thấy rằng, những hoạt động của Eurobanks là không bị điều chỉnh và không tồn tại cơ chế tiếp cận với “người cho vay cuối cùng” cộng với sự hoạt động trên thị trường Interbank rất sôi động, làm phát sinh những lo ngại: nếu một Eurobank sụp đổ sẽ tạo ra hiệu ứng đomino làm sụp đổ các Eurobanks khác, như vậy sẽ làm tăng mối nguy hiểm dến toàn hệ thống tài chính quốc tế. Một mối quan tâm khác đến thị trường Eurocurrency là áp lực tiềm ẩn của thị trường này lên lạm phát. Một số nhà hoạch định chính sách và kinh tế cho rằng, do tốc độ tăng trưởng nhanh của thị trường Eurocurrency đã làm tăng tỷ lệ lạm phát. Lý luận này dựa trên cơ sở là: bên cạnh sự tăng trưởng nhanh của thị trường Eurocurrency nhưng không bị tham gia dự trữ bắt buộc, do đó đã tạo ra hiệu ứng tiền bổ sung vào cung ứng tiền quốc gia, làm áp lực lạm phát gia tăng. Ví dụ: Friedman (1969) và (1970) đưa ra những dự tính ban đầu rằng, thị trường Eurocurrency đã tạo ra hiệu ứng mở rộng cung ứng tiền rất lớn, bởi vì thị trường này chỉ duy trì tỷ lệ dự trữ rất thấp. Trái ngược với ý kiến này, Klopstock (1968) đã chỉ ra rằng các Eurobanks có hệ số tạo tiền rất thấp, do đó khả năng tạo tín dụng cũng rất hạn chế. Hơn nữa, Mckinnon (1977) đã chỉ ra một điểm quan trọng là để quyết định xem mức độ mà các Eurobanks tham gia tạo tín dụng là như thế nào, cần phải xem các ngân hàng này đã bổ sung ròng vào cung ứng dollars là bao nhiêu. Trên cơ sở này, ông thấy rằng chỉ có rất ít bằng chứng ủng hộ quan điểm thị trường Eurocurrency đã tham gia tạo tiền rất lớn. Hogan và Pearce (1982) đã phản đối hoạt động của thị trường Eurocurrency từ những góc độ khác, đặc biệt họ rất quan tầm dến một thực tế rằng, thị trường Eurocurrency đã tạo điều kiện thuận lợi để các quốc gia tài trợ cho thâm hụt cán cân thanh toán một cách dễ dàng. Họ cho rằng, thị trường này phát triển nhanh chóng là do có sự tồn tại của một bên là nhóm các nước có thặng dư cán cân thanh toán và một bên là nhóm các nước có thâm hụt cán cân thanh toán thường xuyên. Thị trường Eurocurrency như chiếc cầu nối chuyển vốn và nếu sự di chuyển vốn cứ xảy ra liên tục trong nhiều năm, sẽ dẫn đến kết quả là nợ các nước thâm hụt ngày càng tăng. Do điều kiện đi vay quá dễ dàng đã kích thích các nước thâm hụt đi vay quá mức, hơn nữa có thể làm cho các quốc gia thâm hụt không kiên quyết theo đuổi những chính sách kinh tế vĩ mô một cách nghiêm túc. Hogan và Pearce lý luận rằng, hệ thống Eurobanks có thể gặp phải rất nhiều mối nguy hiểm. Giả sử một khi đã trở thành con nợ quá lớn, có thể một số nước không còn thiện chí trả nợ, nếu điều này xảy ra có hệ thống thì niềm tin vào hệ thốn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBai lam Eurocurency.doc
  • ppsThuyet trinh eurocurrency.pps
Luận văn liên quan