Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc
một hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm. Do khuyết tật nên họ
gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và tham gia hoạt
động xã hội. Do đó việc đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đối với người khuyết tật là nghĩa vụ của gia đình,
xã hội và nhà nước.
Là mắt xích quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền thống nhân đạo
của dân tộc, người khuyết tật luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6-1991) khẳng định:
"Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành
viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh Chăm lo đời sống
những người già cả neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi" [17]. Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ “Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối
với toàn dân, theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, mở rộng và phát
triển sự nghiệp bảo trợ xã hội, tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho
những người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sung
chính sách, chế độ bảo trợ xã hội phù hợp với quá trình đổi mới và cơ chế quản lý kinh
tế, quản lý xã hội” [15].
94 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7931 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực hiện pháp luật về người khuyết tật
ở Việt Nam hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc
một hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm. Do khuyết tật nên họ
gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và tham gia hoạt
động xã hội. Do đó việc đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đối với người khuyết tật là nghĩa vụ của gia đình,
xã hội và nhà nước.
Là mắt xích quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền thống nhân đạo
của dân tộc, người khuyết tật luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6-1991) khẳng định:
"Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành
viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh … Chăm lo đời sống
những người già cả neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi" [17]. Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ “Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối
với toàn dân, theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, mở rộng và phát
triển sự nghiệp bảo trợ xã hội, tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho
những người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sung
chính sách, chế độ bảo trợ xã hội phù hợp với quá trình đổi mới và cơ chế quản lý kinh
tế, quản lý xã hội” [15].
Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 đều khẳng định người tàn tật là công
dân - thành viên của xã hội, được hưởng đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ của công dân,
được chung hưởng thành quả xã hội. Vì tàn tật, người tàn tật có quyền được xã hội trợ
giúp để thực hiện được quyền bình đẳng và tham gia tích cực vào các hoạt động của xã
hội, đồng thời vì tàn tật, họ được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân. Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi năm 2001) khẳng định: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em
khuyết tật được học văn hoá và học nghề phù hợp”(Điều 59), “Người già, người tàn tật,
trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ” (Điều 67) [29].
Thể chế hoá các quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp, nhiều văn bản pháp
luật đã được ban hành tạo hành lang và cơ sở pháp lý để người khuyết tật thực hiện
những quyền cơ bản của con người, tham gia vào đời sống và sự phát triển của xã hội.
Ngày 30 tháng 7 năm 1998, Uỷ ban thường vụ quốc hội thông qua Pháp lệnh về người
tàn tật. Pháp lệnh quy định trách nhiệm của gia đình, nhà nước và xã hội đối với người
tàn tật, quyền và nghĩa vụ của người tàn tật trên các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ và hỗ trợ
nuôi dưỡng, học văn hoá, học nghề và việc làm, hoạt động văn hoá, thể dục thể thao và
sử dụng công trình công cộng đối với người tàn tật.” Nhà nước khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi cho người tàn tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng,
tham gia các hoạt động xã hội. Người khuyết tật được nhà nước và xã hội trợ giúp chăm
sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các quyền khác
theo quy định của pháp luật”. Cùng với Pháp lệnh về người tàn tật, Quốc hội đã ban hành
hệ thống các luật chuyên ngành chứa đựng nhiều quy phạm liên quan đến người khuyết
tật như: Bộ luật lao động, Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Luật bảo vệ và chăm sóc, giáo
dục trẻ em, Luật giao thông đường bộ, Luật thanh niên, Luật trợ giúp pháp lý, Luật xây
dựng, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng… Chính phủ, các Bộ, ngành và các
địa phương đã ban hành hàng trăm văn bản nhằm hướng dẫn thi hành Pháp lệnh về người
Tàn tật và các quy định liên quan đến người khuyết tật của các luật chuyên ngành.
Sau nhiều năm thực hiện pháp luật về người khuyết tật, nhà nước đã tạo được hành
lang pháp lý và môi trường xã hội tương đối thuận lợi cho người khuyết tật hoà nhập
cộng đồng, góp phần cải thiện đời sống của người khuyết tật, đồng thời tạo điều kiện cho
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia trợ giúp người khuyết tật có hiệu quả
thiết thực.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật nảy sinh nhiều
vấn đề bất cập. Hệ thống văn bản pháp luật vừa thừa, vừa thiếu, không đồng bộ, thiếu
tính thống nhất và sự chồng chéo giữa các văn bản luật đã gây khó khăn cho quá trình tổ
chức thực hiện. Có những quy phạm sau hơn mười năm vẫn không thể thực hiện như quy
định lập Quỹ việc làm dành cho người khuyết tật; Quy định bắt buộc một số loại hình
doanh nghiệp phải nhận từ 2% đến 3% lao động là người khuyết tật vào làm việc. Việc
bảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận các dịch vụ y tế, học văn hoá, học nghề, tìm kiếm
việc làm, tham gia giao thông công cộng thực tế còn gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại.
Việt Nam là một nước nghèo, chịu ảnh hưởng nặng nề sau chiến tranh, cùng với sự
tác động của ô nhiễm môi trường, của tai nạn giao thông, tai nạn lao động, thiên tai, dịch
bệnh, chắc chắn con số 6,34% dân số là người khuyết tật hiện nay- khoảng 6 triệu người
sẽ ngày càng tăng lên.
Đất nước ta đang trong tiến trình tạo lập nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và công
bằng xã hội chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tạo
điều kiện khơi dậy mọi nguồn lực, nhân lực để tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước vì mục tiêu Dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hơn lúc nào hết cần phải tổ chức tốt hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật
với hệ thống pháp luật đồng bộ, không rào cản đối với người khuyết tật nói riêng và hoạt
động thực hiện hệ thống pháp luật nói chung.
Xuất phát từ những cơ sở nêu trên, việc nghiên cứu: Thực hiện pháp luật về người
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay đang là vấn đề cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé vào việc phát triển,
hoà nhập đời sống cộng đồng xã hội và bảo đảm thực hiện các quyền của người khuyết
tật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề thực hiện pháp luật về người khuyết tật liên quan đến nhiều Bộ, ngành,
nhiều cấp chính quyền, nhiều lĩnh vực do vậy trong quá trình tổ chức và thực hiện pháp
luật cũng như thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước, nhiệm vụ nghiên cứu
khoa học của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đã có một số công trình khoa học
nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Cụ thể
- Dự án: Dự án phân tích, đánh giá chính sách pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt, năm 1999 của Bộ Lao động, thương binh và xã hội.
- Đánh giá việc thực hiện Bộ luật lao động đối với lao động là người tàn tật và
pháp lệnh người tàn tật- Nguyễn Diệu Hồng- Bộ Lao động, thương binh và xã hội .
- Nội dung và phương pháp giáo dục trẻ em có tật ở Việt nam- Viện Khoa học
giáo dục thuộc Bộ Giáo dục.
- Đề tài: Các biện pháp tổ chức giáo dục hoà nhập giúp trẻ em khuyết tật thính giác
vào lớp 1, Luận án Tiến sĩ giáo dục học của Nguyễn Thị Hoàng Yến.
- Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt nam hiện nay,
Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Báo - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc
gia.
- Báo cáo kết quả thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật và đề án trợ giúp người
khuyết tật giai đoạn 2006 – 2010 của Bộ Lao động, thương binh và xã hội năm 2008.
- Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện các chính sách trợ giúp phụ nữ khuyết tật
năm 2008 của TW Hội Liên hiệp phụ nữ Việt nam.
- Báo cáo thực hiện các chính sách trợ giúp người khuyết tật trong dạy nghề, học
nghề (Báo cáo năm 2008 của Cục việc làm – Bộ Lao động –Thương binh và Xã hội).
- Báo cáo thực hiện các chính sách về việc làm cho người khuyết tật- nhìn từ góc độ
luật pháp. Tham luận khoa học của Cục việc làm- Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội
năm 2008 tại Hội thảo về chính sách việc làm đối với người khuyết tật.
- Tổng kết tình hình thực hiện Quyết định của Thủ tướng năm 2005 về thực hiện hỗ
trợ người khuyết tật giai đoạn 2005 – 2010 do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội xây
dựng năm 2009.
Tất cả các công trình trên, dù tiếp cận dưới góc độ chính sách pháp luật, giáo dục,
đào tạo người khuyết tật, chăm sóc sức khoẻ người khuyết tật hoặc đánh giá quá trình
thực hiện pháp luật lao động liên quan đến đối tượng là người khuyết tật trong quá trình
tìm việc làm và tiếp cận xã hội trong các lĩnh vực khác nhau thì cũng đã có những nội
dung liên quan tới quy trình, các giai đoạn thực hiện pháp luật về người khuyết tật. Tuy
vậy hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách trực tiếp và có hệ
thống về hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, nghiên cứu và đánh giá chính xác thực trạng công tác thực hiện pháp luật về người
khuyết tật ở nước ta hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao
hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật, góp phần bảo đảm việc thực hiện các
quyền của người khuyết tật, tạo cơ hội cho người khuyết tật bình đẳng và hoà nhập cộng
đồng xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
Một là: Hệ thống hoá, khái lược hoá một số nội dung cả về lý luận và thực tiễn liên
quan đến người khuyết tật, tàn tật. Trên cơ sở đó hình thành cơ sở lý luận về thực hiện
pháp luật về người khuyết tật ở nước ta hiện nay, phân tích các hình thức và vai trò thực
hiện pháp luật về người khuyết tật đồng thời luận văn giới thiệu khái quát kinh nghiệm
quốc tế trong lĩnh vực xây dựng văn bản pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về
người khuyết tật.
Hai là: Phân tích đánh giá thực trạng người khuyết tật và hoạt động thực hiện pháp
luật về người khuyết tật, trong đó phân tích, đánh giá những thành tựu và hạn chế,
nguyên nhân của thực trạng thực hiện pháp luật về người khuyết tật hiện nay.
Ba là: Khẳng định các quan điểm và đề xuất giải pháp bảo đảm hoạt động thực hiện
pháp luật về người khuyết tật ở nước ta hiện nay. Những giải pháp cần được xây dựng
mang tính chất tổng thể và phù hợp với hoạt động quản lý nhà nước cũng như hoạt động
thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện pháp luật về người khuyết tật có phạm vi rất rộng có liên quan đến
nhiều văn bản luật khác nhau cũng như nhiều hoạt động của các cơ quan trong bộ máy
nhà nước. Luận văn xác định phạm vi nghiên cứu là qúa quantrình thực hiện pháp luật mà
chủ yếu là từ khi có Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998. Để có căn cứ khoa học khi đưa
ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về người khuyết tật, luận văn
đánh giá thực trạng hoạt động thực hiện pháp luật dựa trên những báo cáo tổng kết của cơ
quan chịu trách nhiệm thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về người khuyết tật là Bộ
Lao động- Thương binh và Xã hội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện bởi các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp để xử lý
tài liệu thu thập, so sánh và minh hoạ bằng biểu đồ, sơ đồ, tham khảo tài liệu trong và
ngoài nước.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên ở trong nước nghiên cứu có hệ thống hoạt động
thực hiện pháp luật về người khuyết tật và có những đóng góp mới sau đây:
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và những đặc điểm của hoạt động thực hiện pháp luật về
người khuyết tật.
- Đánh giá có hệ thống và khái quát thực trạng hoạt động thực hiện pháp luật trong
phạm vi cả nước. Trong đó có những đáng giá mang tính chất chuyên sâu hoạt động thực
hiện pháp luật.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện công tác thực
hiện pháp luật và từ đó nâng cao nhận thức cả xã hội đối với người khuyết tật
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung nhận thức lý luận về thực
hiện pháp luật và đề xuất những giải pháp cần thiết trong quá trình hoạch định chính
sách, làm tài liệu tham khảo trong thực hiện pháp luật và góp vào trong quá trình hoàn
thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt nam hiện nay.
Nhà nước ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện những quy định liên quan
đền người khuyết tật mà cụ thể là xây dựng Dự án luật về người khuyết tật, những nghiên
cứu của luận văn có ý nghĩa trong việc hoàn thiện chính sách và là những đóng góp cả về
lý luận và thực tiễn trong hoạch định chính sách liên quan đến người khuyết tật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chương, 7 tiết.
Chương 1
cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật
về người khuyết tật ở việt nam hiện nay
1.1. Khái niệm, đặc điểm, các hình thức và vai trò thực hiện pháp luật về
người khuyết tật
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về người khuyết tật
Để tìm hiểu khái niệm thực hiện pháp luật về người khuyết tật, trước hết cần làm
rõ khái niệm thực hiện pháp luật.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hệ thống các quy phạm
này tạo khuôn khổ cho hoạt động xã hội, chứa đựng các quy tắc cấm đoán hoặc bắt buộc
chung và tác động, điều chỉnh tới các quan hệ xã hội Vì vậy hoạt động thực hiện pháp luật
không chỉ là sự quan tâm của Nhà nước mà còn là của mỗi cá nhân bởi kết quả của quá trình
đó tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội. Việc tự giác thực hiện các quy phạm
pháp luật gắn chặt với yêu cầu của các cơ quan trong bộ nhà nước, là mục tiêu và là đòi hỏi
các tổ chức, cá nhân trong xã hội tôn trọng, thực hiện chính xác, đầy đủ pháp luật. Như vậy,
thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của con người phù hợp với
quy định của luật pháp.
Thực hiện pháp luật là bước tiếp theo sau khi văn bản pháp luật được ban hành để
đưa các quy phạm pháp luật trở thành các quy tắc xử sự của các chủ thể pháp luật làm
cho các yêu cầu, quy định của văn bản pháp luật trở thành hiện thực.
Về pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp, hành vi đó không trái,
không vượt ra ngoài các quy định của pháp luật. Thực hiện pháp luật có thể là hành vi
của mỗi cá nhân nhưng cũng có thể là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
xã hội.
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy hiện nay có một số quan niệm về thực
hiện pháp luật sau:
Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật của Viện Nhà nước và Pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thì:
"Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của
pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế
của các chủ thể pháp luật" [23, tr.270].
Giáo trình của Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng: "Thực hiện pháp
luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào
cuộc sống trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [21,
tr.494].
Theo Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội
thì: "Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy
định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các
chủ thể pháp luật" [31, tr.461].
Từ những quan niệm thực hiện pháp luật nêu trên cho thấy:
- Các định nghĩa đều thống nhất về thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích
nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật.
- Thực hiện pháp luật là các hoạt động thực tế, hợp pháp, làm cho những quy định
của pháp luật trở thành hoạt động thực tế trong cuộc sống con người.
- Thực hiện pháp luật là một quá trình của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
Như vậy, theo chúng tôi khái niệm thực hiện pháp luật được hiểu như sau: Thực
hiện pháp luật là một quá trình của chủ thể pháp luật nhằm mục đích làm cho những quy
định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các
chủ thể pháp luật.
Thực hiện pháp luật về người khuyết tật là một quá trình hoạt động có mục đích
làm cho những quy định của pháp luật về người khuyết tật đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế, hợp pháp trong mối quan hệ giữa quyền của người khuyết tật với
quyền của các chủ thể khác nhau khi tham gia quan hệ pháp luật.
Với tư cách chủ thể quản lý, nhà nước đã sử dụng pháp luật làm phương tiện quan
trọng nhất để tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. khi ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật nhà nước mong muốn các văn bản đó phải được tôn trọng và thực thi có
hiệu quả trong thực tế. Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, định
hướng nhằm hiện thực hoá nội dung các quy định của pháp luật bằng các hành vi thực tế
của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
Dưới góc độ pháp lý, chỉ những hành vi xử sự phù hợp với các quy định của pháp
luật về người khuyết tật của các chủ thể có đầy đủ khả năng nhận thức được yêu cầu của
quy phạm pháp luật, có khả năng tự chịu trách nhiệm và gánh chịu những hậu quả bất lợi
do hành vi của họ gây ra thì được coi là quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật.
Như vậy, thực hiện pháp luật về người khuyết tật là hoạt động có mục đích của các
chủ thể mà các chủ thể đó có thể là cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các cá
nhân được nhà nước trao quyền nhằm làm cho các quy định của pháp luật về người
khuyết tật trở thành những hành vi trong thực tế bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp đối với người khuyết tật.
1.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về người khuyết tật
Thực hiện pháp luật về người khuyết tật mang đầy đủ đặc điểm của quá trình thực
hiện pháp luật nói chung. Với bản chất là hoạt động xã hội của con người, thực hiện pháp
luật về người khuyết tật hàm chứa những đặc điểm chung của các hoạt động xã hội khác
đồng thời với bản chất pháp lý của mình, thực hiện pháp luật về người khuyết tật đã tạo
nên những đặc điểm nổi trội và đặc thù sau đây:
Thứ nhất: Thực hiện pháp luật về người khuyết tật bao giờ cũng thông qua những
hành vi cụ thể của con người. Đời sống xã hội của con người bao giờ cũng được bộc lộ
thông qua các hành vi cụ thể trong các mối quan hệ xã hội. Hành vi cũng chính là các
phương thức tồn tại của con người, chính vì lẽ đó, việc thực hiện pháp luật về người
khuyết tật thường tồn tại là những dạng hành động tích cực là chủ yếu và phổ biến của
các cá nhân hoặc cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Kết quả của việc thực hiện các hành vi đó trên thực tế không phải lúc nào cũng
hợp pháp, cũng bảo vệ và mang lại lợi ích đối với người khuyết tật mà có thể do nhiều
nguyên nhân dẫn tới hoặc trái pháp luật hoặc mục đích bảo vệ và bảo đảm quyền lợi cho
người khuyết tật không thể đạt được.
Thứ hai: Thực hiện pháp luật về người khuyết tật là hành vi phù hợp với pháp luật
về người khuyết tật. Đó là những hành vi cụ thể của con người song thực hiện pháp luật
về người khuyết tật có đặc điểm là phải phù hợp với các quy định hiện hành liên quan tới
người khuyết tật. Việc phù hợp ở đây được hiểu là pháp luật cấm điều gì làm ảnh hưởng
tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật thì chủ thể không làm, pháp luật có
những quy định bắt buộc gì nhằm tạo điều kiện và bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật,
quyền tiếp cận đời sống xã hội của người