Trong số các ngành công nghiệp sản xuất dân dụng, ngành ô tô có liên kết đầu vào và đầu ra rộng nhất và sự phối hợp công nghệ cao nhất. Do vậy ngành này có ảnh hưởng lớn đến quá trình công nghiệp hóa của nền kinh tế quốc dân nhưng cũng chính bởi lý do đó việc thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô thành công là rất khó khăn. Ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam là một ngành công nghiệp non trẻ, Chính phủ Việt Nam đã tạo điều kiện rất lớn cho việc phát triển ngành công nghiệp ô tô với mong muốn đưa ngành công nghiệp ô tô trở thành ngành mũi nhọn vào năm 2020. Trong những năm qua Nhà nước đã bảo hộ cho sản xuất ô tô trong nước thông qua việc ưu đãi thuế tiêu thụ đặc biệt,thuế nhập khẩu và thậm chí cả thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian tương đối dài và đã phải trả một giá khá đắt để có được 11 liên doanh ô tô (VAMA). Tuy nhiên tính cho đến thời điểm hiện tại,công nghiệp ô tô Việt Nam chỉ mới dừng lại ở mức lắp ráp đơn thuần. Việt Nam vẫn chưa sản xuất được linh kiện,phụ tùng nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất lắp ráp các loại ô tô trong nước. Bên cạnh đó giá xe ô tô ở Việt Nam thuộc vào dạng đắt nhất trên thế giới mà tỷ lệ nội địa hóa lại không cao_đây chính là một thiệt thòi lớn cho người tiêu dùng Việt Nam.
Ngày 23/1/2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định 12 quyết định cho phép nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng và được sự ủng hộ của các ban ngành. Nếu như trước đây, nhờ bảo hộ mà có thị trường thì bây giờ khi Nhà nước nới lỏng sự bảo hộ cho các doanh nghiệp ô tô trong nước thì các doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh nhiều hơn với nhau và với ô tô nhập khẩu để giữ vững và phát triển thị phần, để có thu nhập bằng hoặc hơn trước.
Trước những bất cập đó tôi đã chọn đề tài “Thực trạng của ngành ô tô Việt Nam trước quyết định nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng” Kết cấu của đề án gồm có 3 phần :
Chương I : Tổng quan về ngành ô tô Việt Nam
Chương II : Thực trạng của ngành ô tô Việt Nam
Chương III : Những giải pháp cần đặt ra cho nền công nghiệp ô tô Việt Nam
24 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3046 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng của ngành ô tô Việt Nam trước quyết định nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong số các ngành công nghiệp sản xuất dân dụng, ngành ô tô có liên kết đầu vào và đầu ra rộng nhất và sự phối hợp công nghệ cao nhất. Do vậy ngành này có ảnh hưởng lớn đến quá trình công nghiệp hóa của nền kinh tế quốc dân nhưng cũng chính bởi lý do đó việc thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô thành công là rất khó khăn. Ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam là một ngành công nghiệp non trẻ, Chính phủ Việt Nam đã tạo điều kiện rất lớn cho việc phát triển ngành công nghiệp ô tô với mong muốn đưa ngành công nghiệp ô tô trở thành ngành mũi nhọn vào năm 2020. Trong những năm qua Nhà nước đã bảo hộ cho sản xuất ô tô trong nước thông qua việc ưu đãi thuế tiêu thụ đặc biệt,thuế nhập khẩu và thậm chí cả thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian tương đối dài và đã phải trả một giá khá đắt để có được 11 liên doanh ô tô (VAMA). Tuy nhiên tính cho đến thời điểm hiện tại,công nghiệp ô tô Việt Nam chỉ mới dừng lại ở mức lắp ráp đơn thuần. Việt Nam vẫn chưa sản xuất được linh kiện,phụ tùng nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất lắp ráp các loại ô tô trong nước. Bên cạnh đó giá xe ô tô ở Việt Nam thuộc vào dạng đắt nhất trên thế giới mà tỷ lệ nội địa hóa lại không cao_đây chính là một thiệt thòi lớn cho người tiêu dùng Việt Nam.
Ngày 23/1/2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định 12 quyết định cho phép nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng và được sự ủng hộ của các ban ngành. Nếu như trước đây, nhờ bảo hộ mà có thị trường thì bây giờ khi Nhà nước nới lỏng sự bảo hộ cho các doanh nghiệp ô tô trong nước thì các doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh nhiều hơn với nhau và với ô tô nhập khẩu để giữ vững và phát triển thị phần, để có thu nhập bằng hoặc hơn trước.
Trước những bất cập đó tôi đã chọn đề tài “Thực trạng của ngành ô tô Việt Nam trước quyết định nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng” Kết cấu của đề án gồm có 3 phần :
Chương I : Tổng quan về ngành ô tô Việt Nam
Chương II : Thực trạng của ngành ô tô Việt Nam
Chương III : Những giải pháp cần đặt ra cho nền công nghiệp ô tô Việt Nam
Với thời gian nghiên cứu hạn hẹp và góc độ nghiên cứu của một sinh viên với mục đích tìm hiểu và học tập nên tôi mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu hiện trạng của ngành ô tô Việt Nam đồng thời tìm hiểu và nghiên cứu việc đề ra các giải pháp cho công nghiệp ô tô Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tôi xin cám ơn Thạc sỹ Nguyễn Đình Trung đã giúp tôi hoàn thành bản đề án này.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ NGÀNH Ô TÔ VIỆT NAM
1. Quá trình hình thành và phát triển
Kinh tế Việt Nam có thể xem như thực sự bước vào quá trình đổi mới kể từ năm 1992, khi Hiến pháp được sửa đổi với một nội dung quan trọng là sự thừa nhận về mặt pháp lý đối với sự tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân, hay bộ phận kinh tế tư nhân (dù sự thừa nhận về mặt xã hội đã xuất hiện sớm hơn). Những năm tiếp theo, cho đến cuối thập kỷ 90, với chính sách đổi mới kiểu từng bước, nhà nước đã chèo lái nền kinh tế Việt Nam phát triển và đạt những thành tựu đáng kể so với chính mình.
Chính sách kinh tế, đặc biệt những mạnh dạn thay đổi về thể chế (như cởi mở đối với khu vực kinh tế tư nhân, thúc đẩy tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại đa phương) giai đoạn từ sau năm 2000 đã từng bước dẫn dắt Việt Nam thực sự xích gần với sự vận động của trào lưu kinh tế quốc tế.
Nền kinh tế khu vực thực tế đang hợp nhất và trở thành một hệ thống quan trọng của mạng lưới hợp tác phân công lao động toàn cầu, để công nghiệp hóa thành công Việt Nam cần hòa nhập và tìm cho mình được một chỗ đứng trong đó.
Trong bối cảnh đó ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đã ra đời. Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam được gây dựng cách đây gần 10 năm (vào giữa những năm 90) với sự giúp đỡ rất lớn từ phía Nhà nước ta. Chính phủ Việt Nam đã giành thời gian và ưu đãi rất nhiều cho các doanh nghiệp sản xuất ôtô trong nước: Nhà nước đã áp dụng chính sách bảo hộ cho ôtô trong thời gian dài ( từ năm 1999 đến nay) bằng thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ, thuế giá trị gia tăng... Đặc biệt là phải nói đến quyết định số 242/1999/QD_TTg ngày 30/12/1999 về điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2000, trong đó quy định cấm nhập khẩu “xe ô tô 16 chỗ đã qua sử dụng”. Ngoài ra Việt Nam còn tăng cường vốn đầu tư cho các doanh nghiệp liên doanh ô tô trong nước, tạo thêm hàng ngàn việc làm cho người lao động, đồng thời các liên doanh cũng đóng góp đáng kể cho Ngân sách Nhà Nước.
Ngay từ khi mới ra đời ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đã đề ra phương hướng phát triển đẩy mạnh và khuyến khích phát triển sản xuất động cơ , phụ tùng,linh kiện nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất, lắp ráp các loại ô tô trong nước.Tuy nhiên cho tới nay đã 10 năm trôi qua nhưng những gì mà ngành công nghiệp ô tô đạt được mới chỉ là lắp ráp đơn thuần và làm các công đoạn đơn giản như sơn, gò hàn....Bên cạnh đó là khai thác thị trường với giá mà bất kỳ người tiêu dùng nào cũng phải kêu ca.Hiện nay tỷ lệ nội địa hoá của ngành còn rất thấp đạt từ 2% tới 10% mà theo như cam kết của các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ôtô là họ sẽ đạt được tỷ lệ nội địa hoá từ 30% đến 40% sau 10 năm kể từ ngày đi vào sản xuất.
2.Đặc điểm của ngành và các doanh nghiệp sản xuất ô tô
Đặc điểm nổi trội của ngành ô tô trước tiên chính là sự phức tạp của sản phẩm: nói một cách tương đối ô tô yêu cầu nhiều linh kiện,phụ kiện hơn so với những ngành công nghiệp khác như công nghiệp xe máy.Tính hợp nhất trong thiết kế, tính an toàn và tiêu chuẩn cao đồng thời có kích cỡ lớn ,nhiều chức năng hơn và tốc độ cao hơn so với xe máy.Chính vì lẽ đó ngành công nghiệp ô tô yêu cầu phụ trợ công nghiệp lớn và phức tạp trong khi đó các ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam vẫn còn nhỏ bé.
Việt Nam vẫn chưa thực sự hấp dẫn được nhiều nhà đầu tư, bởi lẽ sự phức tạp của sản phẩm: nói một cách tương đối ô tô yêu cầu nhiều linh kiện,phụ kiện hơn so với những ngành công nghiệp khác như công nghiệp xe máy.. Nhận định này đã được các chuyên gia xúc tiến đầu tư và thương mại Nhật Bản đưa ra khi đánh giá về khả năng đáp ứng tương thích của ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam trong quá trình hội nhập. Một hiện trạng cụ thể về sự chậm trễ trong khả năng cung ứng của các doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng Việt Nam cho công nghiệp phương tiện vận chuyển. Câu chuyện này xuất phát từ phản ánh của các doanh nghiệp lắp ráp ôtô Nhật Bản tại Việt Nam, khi họ ký hợp đồng đặt hàng sản xuất và cung ứng linh kiện phụ tùng với một số doanh nghiệp sản xuất trong nước. Thông thường phải mất tối thiểu 3 năm các doanh nghiệp Nhật Bản mới có thể được các nhà sản xuất linh kiện phụ tùng Việt Nam cung cấp đầy đủ các loại linh kiện phụ tùng phù hợp sau khi ký hợp đồng, đây là một khoảng thời gian quá dài đối với các nhà sản xuất Nhật Bản khi họ đang phải đối đầu với cuộc cạnh tranh hết sức quyết liệt với ngay chính những người đồng nghiệp và đồng hương là các nhà sản xuất và lắp ráp ôtô Nhật Bản tại các nước Đông Nam Á khác.
Ô tô
Sản phẩm cho thị trường nội địa
Dây chuyền lắp ráp
Tự sản xuất và mua sắm trong nước
Nhập khẩu từ nước ngoài
Linh kiện máy móc
Thực trạng của các nhà lắp ráp và công nghiệp phụ trợ của ngành ô tô
Thứ hai là đặc điểm về mẫu thiết kế cho thị trường: thiết kế ô tô thường giống nhau giữa các nước( chẳng hạn như Toyota Camry phổ biến trên toàn thế giới).Yêu cầu của ngành ô tô là cần được sản xuất quy mô lớn ở một địa điểm trung tâm.Đó cũng chính là lý do mà đối với các nước đi sau việc bắt đầu sản xuất ô tô gặp khó khăn lớn so với các ngành công nghệ khác.
Thị trường của các nhà sản xuất ô tô Việt Nam là thị trường nội địa nhưng phần lớn các liên doanh đều khẳng định thị trường Việt Nam còn hết sức nhỏ bé ( 0.043 triệu xe vào năm 2003) .Kích cỡ thị trường là yếu tố quan trọng để phát triển công nghiệp ô tô. Thị trường ô tô Việt Nam trong những năm qua tăng trưởng mạnh mẽ song vẫn quá nhỏ bé để đạt được hiệu quả sản xuất
Lực lượng chủ yếu trong công nghiệp ô tô của nước ta là từ phía các liên doanh với nước ngoài. Họ đầu tư vào Việt Nam từ sớm, ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90 và rất kỳ vọng vào sự phát triển của thị trường. Chỉ tính riêng 11 doanh nghiệp thuộc VAMA đã đầu tư 526 triệu USD, với năng lực sản xuất lắp ráp 148.000 xe một năm, lộ trình nội địa hóa cũng được cam kết rõ ràng.
Nước ta có hơn 200 doanh nghiệp tham gia sản xuất, lắp ráp, sửa chữa và chế tạo phụ tùng ô tô, trong đó có 90 cơ sở sản xuất, lắp ráp ô tô và chế tạo phụ tùng đã phác họa lên bức tranh sôi động về sự phát triển của công nghiệp ô tô trong những năm đầu thế kỷ XXI. Các doanh nghiệp nhà nước như Tcty Công nghiệp ô tô, Tcty Máy động lực và Máy nông nghiệp, Tcty Than VN, Tcty Cơ khí giao thông vận tải Sài Gòn là những công ty đứng đầu trong lĩnh vực sản xuất và lắp ráp ô tô vẫn đang tiếp tục triển khai các dự án có đầu tư quy mô lớn, bên cạnh đó, các doanh nghiệp tư nhân như Công ty Chu Lai - Trường Hải và Xuân Kiên cũng nuôi hoài bão xây dựng nhà máy của mình trở thành những trung tâm ô tô lớn trong nước và khu vực.
Nhìn vào công nghiệp ô tô Việt Nam trong những năm qua ta có thể thấy rằng trong tổng số 200 doanh nghiệp nói trên, hầu như chưa có một doanh nghiệp nào đầu tư hoàn chỉnh vào chế tạo các bộ phận quan trọng của ô tô như động cơ, hộp số và hệ thống truyền động, kể cả các doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp này cũng chỉ mới dừng ở việc lắp ráp ô tô dạng CKD là chính, trình độ công nghệ sản xuất lắp ráp gần giống nhau, tỷ lệ sản xuất trong nước đạt thấp, chủ yếu là sơn, hàn, lắp ráp và kiểm tra. Duy nhất có liên doanh Toyota là có nỗ lực thực hiện nâng cao tỷ lệ nội địa hóa thông qua việc kêu gọi các vệ tinh là các công ty trong nước cùng phát triển công nghiệp phụ trợ. Chính vì vậy, mới đây, Bộ Công nghiệp đã cảnh báo xu hướng đầu tư tràn lan trong sản xuất và lắp ráp ô tô và sẽ khó có khả năng kiểm soát, nếu như không có một động thái ngăn chặn mạnh mẽ, kịp thời từ phía các cơ quan chức năng, trong đó có vai trò quan trọng của Bộ Công Nghiệp. Với lý do đó, Bộ Công nghiệp đã tổ chức cuộc họp với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan cùng bốn Tcty lớn của Nhà nước là Tcty Công nghiệp ô tô (VINAMOTO), Tcty Máy động lực và Máy nông nghiệp (VEAM), Tcty Than (TVN), Tcty Cơ khí giao thông vận tải Sài Gòn (SAMCO) và hai doanh nghiệp tư nhân là Công ty Xuân Kiên và Công ty ô tô Chu Lai - Trường Hải với mong muốn tìm các giải pháp tháo gỡ những khó khăn này.
Trên thế giới hiện có 3 hệ thống tiêu chuẩn khí thải an toàn với môi trường đó là của Mỹ, Nhật, và Châu Âu. Việt Nam chọn bộ tiêu chuẩn Châu Âu (Euro 2) vì năm 1998 chúng ta tham gia APEC, mà theo quy định thì các thành viên của APEC bắt buộc phải theo bộ tiêu chuẩn này. Thái Lan, Malaysia cũng đang áp dụng Euro 2. Thậm chí, Singapore, đất nước nổi tiếng về môi trường cũng chỉ đang áp dụng Euro 2.
Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, kể từ 1/7/2007, các loại xe cơ giới là ô tô, xe máy các loại sản xuất trong nước hoặc mới nhập khẩu bắt buộc phải áp dụng các mức tiêu chuẩn khí thải tương đương tiêu chuẩn Euro 2 đối với từng loại xe
Còn việc Việt Nam mới chỉ đưa ra tiêu chuẩn Euro 2 là vì nhiều nguyên nhân khác nhau như: công nghệ ô tô còn lạc hậu, hệ thống bảo dưỡng kiểm tra định kỳ quá sơ sài, nền kinh tế còn kém phá triển, và điều kiện nguyên liệu đầu vào cho xe sử dụng tại Việt Nam…Và với tiêu chuẩn này thì cho đến năm 2007 xe ô tô trong nước sản xuất vẫn không thể xuất khẩu được.Trong khi đó hầu hết các hãng ô tô lớn hoàn toàn có thể áp dụng được tiêu chuẩn Euro 4
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH Ô TÔ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Thời kỳ chưa có quyết định nhập khẩu ôtô đã qua sử dụng
Trong nhiều năm qua, ngành công nghiệp ôtô Việt Nam được phản ánh chủ yếu qua hoạt động của 11 liên doanh FDI thuộc Hiệp hội Các nhà sản xuất Ôtô Việt Nam (VAMA). Hầu hết các doanh nghiệp này mới chỉ lắp ráp ôtô dạng CKD với trình độ công nghệ gần như giống nhau, dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa rất thấp, giá trị gia tăng đạt được chủ yếu ở các khâu sơn, hàn, lắp ráp… Hơn 90% các bộ linh kiện, phụ tùng được cung cấp từ các công ty mẹ hoặc từ các liên doanh của họ ở các nước trong khu vực.
Ngành công nghiệp ôtô của nước ta còn quá non trẻ, sản phẩm của các doanh nghiệp ôtô trong nước chất lượng còn chưa cao, mẫu mã chưa đẹp mà giá bán lại thuộc dạng đắt nhất nhì trên thế giới cao hơn so với các nước trong khu vực. Một chiếc xe cùng hãng,cùng mẫu mã,không biết chúng khác nhau ở những gì mà nước ngoài bán với giá 9.800 USD còn người tiêu dùng Việt Nam phải bỏ ra 27.800 USD. Theo điều tra của JETRO giá xe mui kín 1.500 phân khối ở các thủ đô vào năm 2003 như sau : Việt Nam ( 26.500 USD),Trung Quốc (16.310 USD), Indonesia (18.801USD ),Thái Lan (12.663USD),Malaysia(13.965 USD) và Hàn Quốc (10.365 USD).
Có thể nói giá xe ô tô của nước ta là quá cao so với các nước trong khu vực tuy nhiên người tiêu dùng Việt Nam tương đối dễ tính vì trong những năm qua mặc dù giá ô tô Việt Nam ở mức cao vọt nhưng sức mua của người tiêu dùng vẫn là rất lớn
Nguồn: JETRO, the 14th Survey of Investment- Related Cost Comparison in Major Cities an Regions in Asia ( tháng 3/2004)
Sở dĩ giá ô tô nước ta cao là do thuế nhập khẩu và các khoản thuế nội địa tương đối cao. Chính phủ lại dự định tăng thuế đáng kể với xe sản xuất trong nước. Trong những năm qua mức thuế áp dụng đối với xe ô tô trong nước ngày một tăng. Ta có thể thấy được lộ trình tăng thuế tiêu thụ đặc biệt qua các năm vừa qua thông qua biểu đồ sau:
2003
2004
2005
Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe sản xuất trong nước
5%
24%
40%
Giá bán lẻ xe, ước tính của JAMA (2003=100)
100
122
137
Lộ trình tăng thuế tiêu thụ đặc biệt
Nguồn : Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Nhập Bản (JAMA),” Impact analysis of Vietnam market by 2004 taxation system change”, Bài trình bày, tháng 8/2004
Ngoài ra nguyên nhân thứ hai là do kích cỡ thị trường Việt Nam quá nhỏ bé,nhu cầu sử dụng xe thấp( 7 xe/1000 người) trong khi các nhà sản xuất lắp ráp lại quá nhiều.
Thị trường ôtô Việt Nam còn quá nhỏ bé, chưa phát triển xứng tầm khiến các doanh nghiệp ngại đầu tư vào sản xuất, cung cấp linh kiện. Có doanh nghiệp nước ngoài trả lời, họ chỉ đầu tư khi nhận thấy sản lượng họ đạt được có thể đến mức thấp nhất là 1.000 xe/năm.
Như ta biết kích cỡ thị trường là yếu tố quan trọng để phát triển công nghiệp ô tô.Một thị trường lớn hàm ý quy mô tương xứng,hiệu quả cao các ngành công nghiệp phụ trợ tăng trưởng mạnh và khả năng đưa các hỗn hợp sản phẩm rộng lớn hơn trong khi một thị trường nhỏ hàm ý điều đối lập của tất cả những điều trên.Mặc dù thị trường ô tô Việt Nam trong những năm qua tăng trưởng mạnh mẽ song vẫn quá nhỏ bé để đạt được hiệu quả sản xuất.
Nhìn vào hình 1 ta có thể thấy rằng vào quy mô thị trường ô tô Việt Nam so với các nước trong Châu Á như Ấn Độ, Trung quốc,Thái Lan… thấp hơn rất nhiều.Trong khi thị trường ô tô Ấn Độ đạt 10triệu xe/năm,Trung Quốc 4.3triệu xe/năm, Thái Lan 0.54 triệu xe/năm, Malaysia 0.48triệu xe/năm, Indonesia 0.38 triệu xe/ năm thì thị trường Việt Nam chỉ đạt mức 0.043 triệu xe/năm thấp hơn cả so với Phillipines 0.06 triệu xe/năm.
Giá xe, kích cỡ thị trường và thuế có mối quan hệ qua lại. Trong trường hợp thị trường Việt Nam quá nhỏ bé cộng với thuế cao dẫn đến hiệu quả thấp và chi phí cao từ đó lại làm cho thị trường tiếp tục nhỏ bé.
Trong bối cảnh thị trường quá nhỏ bé như vậy nhưng sức mua của người tiêu dùng là quá lớn. Người tiêu dùng phải xếp hang thậm chí còn phải chen lấn để mua ô tô. Trong những năm qua tồn tại thực trạng người bán thì ít ( chỉ có 11 thành viên của VAMA) trong khi đó số lượng người tiêu dùng có nhu cầu về ô tô lại rất lớn. Mặc sức các thành viên VAMA liên tục tăng giá bán ô tô ép giá người tiêu dùng, người tiêu dùng Việt Nam vẫn đua nhau mua xe. Vào 11 tháng đầu năm 2004 số lượng xe ô tô các doanh nghiệp bán ra đạt vào khoảng 23.949 xe. Tính cho đến cuối năm 2004 các doanh nghiệp còn không đủ lượng xe mà bán bởi lẽ sức mua của người tiêu dùng trong nước quá cao. Tháng 10 năm 2005 lượng xe bán ra là 3.367 xe. Như vậy ta có thể thấy rằng trong những năm qua mặc dù công nghiệp ô tô Việt Nam vẫn chỉ dừng lại ở lắp ráp ô tô nhưng với sự giúp đỡ và bảo hộ từ phía Nhà nước các doanh nghiệp cũng đã có sự tiến bộ đáng kể về trình độ tay nghề. Đồng thời lực lượng Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô đã tạo ra sự đầu tư tương đối lớn giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động và có đóng góp cho Ngân sách Nhà nước.
2. Thời kỳ khi có quyết định nhập khẩu ôtô đã qua sử dụng
Ngày 23/1/2006 bằng Nghị định 12/2006/NĐ_CP về Cơ chế điều hành xuất nhập khẩu mới có hiệu lực từ ngày 1/5/2006 Chính phủ đã bãi bỏ quy định cấm nhập khẩu xe ô tô các loại đã qua sử dụng Theo đó các loại ô tô đã qua sử dụng được nhập khẩu chỉ phải đảm bảo điều kiện là : đã qua sử dụng không quá 5năm, tính từ năm sản xuất tới năm nhập khẩu (Theo khoản 3 điều 10 NĐ 12/2006/NĐ_CP)
Quyết định này của Chính phủ thực sự là một động lực mạnh mẽ để thị trường ô tô trong nước có những chuyển biến tích cực hơn.Nghị định này đối với người tiêu dùng cũng như các nhà sản xuất ô tô trong nước thực sự là một bất ngờ lớn. Nghị định 12 ban hành đã gây ảnh hưởng rất lớn đối với tình hình thị trường trong nước
Phải nói rằng thị trường ô tô năm 2006 thực sự đã khác rất nhiều so với mấy năm trước đây.Nếu như vào những tuần cuối tháng 11/2005 các nhà sản xuất trong nước đã công bố giá xe ô tô trong nước sẽ không giảm vào năm 2006 mà sẽ tiếp tục tăng giá thì cho đến thời điểm hiện tại các hãng xe đua nhau giảm giá , khuyến mại nhằm khuyến khích sức mua của người tiêu dùng. Ngày 12/1/2006 Công ty Toyota Việt Nam đã tung ra dòng xe Innova đa dụng với sự đột ngột phá về giá rất cạnh tranh trong thời điểm hiện nay ( với mức 26.9000 USD/chiếc cho loại Z và giá 29.9000 USD cho loại G), thấp hơn giá dòng xe tương đương của hãng Mitsubishi hơn13.000USD. Tiếp đó tới ngày 10/2/2006 Công ty ôtô Ford Việt Nam đã chính thức công bố sẽ giảm giá một số sản phẩm, các mẫu xe hơi được giảm giá sẽ là những sản phẩm cạnh tranh với các mẫu mà Toyota vừa giảm giá. Cùng thời điểm đó liên doanh sản xuất ô tô Vidamco chuyên sản xuất các loại xe GM_Daewoo cũng đưa ra một chương trình khuyến mại đặc biệt (áp dụng đến hết tháng 2/2006) cho 13 loại xe. Tiếp đó ngay vào những ngày cận Tết Bính Tuất, Toyota Việt Nam tiếp tục giảm giá bán lẻ cho 3 dòng xe thông dụng của mình là Zace, Corolla Altis và Vios từ 1.800 USD đến 3.000 USD/chiếc. Chuyện xe lên giá ầm ầm mà vẫn có hàng trăm người xếp hàng mua như hồi cuối năm 2004 đã lui vào quá khứ. Các hãng xe đua nhau thông báo giảm giá,lúc đầu chỉ giảm vài trăm USD sau đó mạnh dạn giảm hẳn vài ngàn USD cho một xe nhưng người tiêu dùng vẫn quay lưng,ngoảnh mặt đi.
Theo thống kê lượng xe bán ra trong tháng 11/2005 của 11 thành viên Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam( VAMA) chỉ đạt 2.567 xe, giảm so với tháng 10/2005 là gần 800 xe.Sự tụt dốc này còn được thể hiện rõ nét hơn khi so sánh với lượng xe bán ra so với cùng ký năm 2004.Theo thống kê của VAMA thì lượng xe bán ra của Hiệp hội tháng 11/2004 đạt 5.519 xe như vậy lượng bán ra vào tháng 11/2005 chỉ bằng 46.5% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến thời điểm cuối năm 2005 tổng lượng xe bán ra của VAMA mới chỉ đạt 30.949 xe còn thấp hơn 11 tháng của năm 2004 gần 2.000 xe. Nguyên nhân của những thực trạng này đó là do tâm lý chờ đợi giảm giá xe của khách hàng đã khiến cho lượng xe bán ra của VAMA giảm. Đà giảm sút trong bán hàng của các liên doanh ôtô nửa cuối năm 2005 vẫn còn được tiếp diễn tới đầu năm nay khi hàng rào cấm nhập khẩu xe ô tô cũ đã qua sử dụng đã được loại bỏ. Tính tới thời điểm tháng 2/2006 tổng lượng xe bán ra của 11 liên doanh thuộc hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam chỉ đạt vẻn vẹn 1.467 xe giảm 3.3% so với tháng 1. Mặc dù lượng xe bán ra có tăng 5% so với cùng kỳ năm 2004 nhưng cũng không thấm tháp gì. Dòng xe đa dụng 8 chỗ Innova của Toyota được coi là một bước đột phá mạnh mẽ về giá tháng 1/2006 đã bán được 515 chiếc nhưng sang tháng 2/2006 cũng đã giảm mạnh chỉ bán được 407 xe.
Người tiêu dùng trong nước ai ai cũng phấn khởi trước quyết định này của