Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới có thể phát triển mà lại đứng biệt lập, tách rời quan hệ kinh tế với các nước khác. Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là một trong những xu hướng vận động chủ yếu trong đời sống kinh tế quốc tế hiện nay. Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là yêu cầu rất cấp bách để xây dựng nền kinh tế phát triển nhanh ở nước ta. Muốn phát triển nền kinh tế lạc hậu, thiếu vốn, thiếu những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài thì đầu tư nước ngoài đã trở nên một vấn đề quan trọng và cần thiết để phát triển nền kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài thì nước tiếp nhận đầu tư có thể tranh thủ huy động được nguồn vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại của nước ngoài, tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. Không những thế đầu tư nước ngoài còn là cơ hội để tìm kiếm thị trường bên ngoài, tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới.
27 trang |
Chia sẻ: khactoan_hl | Lượt xem: 2395 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng mất cân đối trong các hình thức đầu tư FDI tại Việt Nam và những giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới có thể phát triển mà lại đứng biệt lập, tách rời quan hệ kinh tế với các nước khác. Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là một trong những xu hướng vận động chủ yếu trong đời sống kinh tế quốc tế hiện nay. Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là yêu cầu rất cấp bách để xây dựng nền kinh tế phát triển nhanh ở nước ta. Muốn phát triển nền kinh tế lạc hậu, thiếu vốn, thiếu những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài thì đầu tư nước ngoài đã trở nên một vấn đề quan trọng và cần thiết để phát triển nền kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài thì nước tiếp nhận đầu tư có thể tranh thủ huy động được nguồn vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại của nước ngoài, tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. Không những thế đầu tư nước ngoài còn là cơ hội để tìm kiếm thị trường bên ngoài, tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới.
Nắm bắt được tình hình thực tế đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) đã đề ra những chính sách hết sức đúng đắn, đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, xoá bỏ hoàn toàn cơ chế quan liêu bao cấp cũ. Một trong những bước chuyển biến lớn trong định hướng đổi mới kinh tế, thể chế hoá đường lối của Đại hội VI là việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Sau khi Luật đầu tư nước ngoài ra đời và thay đổi, bổ sung liên tục quá trình thu hút đầu tư nước ngoài Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đó, quá trình thu hút đầu tư, sự vận hành của các dự án đã làm nảy sinh vấn đề mất cân đối cần được khắc phục nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. Chính vì vậy mà nhóm chúng em chọn đề tài: “ Thực trạng mất cân đối trong các hình thức đầu tư FDI tại Việt Nam và những giải pháp khắc phục ”. Do thời gian có hạn nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu sự mất cân đối trong đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, đánh giá hậu quả mất cân đối và đề ra giải pháp.Các số liệu thống kê lấy từ năm 1988 đến năm 2013. Nhóm hy vọng bài tiểu luận này sẽ hữu ích cho mọi người.
NỘI DUNG
KHÁI NIỆM VỀ NGUỒN VỐN FDI VÀ CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ FDI
Khái niệm về nguồn vốn FDI
Với ý nghĩa cốt lõi nhất, FDI hay đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Theo IMF: FDI là hình thức đầu tư quốc tế phản ánh mục tiêu của một thực thể cư trú tại một nền kinh tế nhằm có được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp cư trú tại một nên kinh tế khác. Lợi ích lâu có nghĩa là tồn tại một mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp và một mức độ ảnh hưởng đáng kể của nhà đầu tư đối với việc quản lý doanh nghiệp. [nguồn: IMF 1993]
Theo OECD: FDI phản ánh mục tiêu của một thực thể cư trú tại một nền kinh tế (“nhà đầu tư trực tiếp”) muốn có được lợi ích lâu dài trong một thực thể cư trú tại một nền kinh tế khác nền kinh tế của nhà đầu tư (“doanh nghiệp đầu tư trực tiếp”). Lợi ích lâu dài ngụ ý một mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp và một mức độ ảnh hưởng đáng kể trong việc quản lý doanh nghiệp đó. [nguồn: OECD 1996]
Có thể thấy FDI được đặc trưng bởi mục đích tìm kiếm lợi ích lâu dài và một mức độ ảnh hưởng đáng kể của các nhà đầu tư đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, tùy từng thái độ và mục tiêu phát triển, mỗi quốc gia lại có những tiêu chuẩn riêng về mức sở hữu tối thiểu và các yếu tố của mối quan hệ đầu tư trực tiếp (như đại diện trong ban giám đốc, tham gia vào quá trình ra quyết định, các giao dịch vật chất bên ngoài công ty, việc trao đổi nhân sự quản lý, cung cấp các thông tin kĩ thuật, cung cấp tín dụng dài hạn với mức lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường). Tựu chung lại, có thể thấy sự khác biệt cơ bản của FDI so với các hình thức đầu tư quốc tế khác như sau:
Thứ nhất, mọi hình thức đầu tư quốc tế đều được tiến hành ở bên ngoài nước của công ty đầu tư, nhưng FDI, khác với các hình thức khác, được tiến hành bên trong công ty đầu tư: quyền kiểm soát đối với việc sử dụng những nguồn lực được di chuyển vẫn nằm trong tay nhà đầu tư, cho phép nhà đầu tư đưa ra quyết định sản xuất và đầu tư.
Thứ hai, trong khi mọi hình thức đầu tư liên quan đến việc di chuyển của nguồn lực tài chính ra khỏi biên giới, FDI còn liên quan đến việc di chuyển những tài sản và nguồn lực khác, ví dụ như công nghệ, kĩ năng quản lý và những kĩ năng khác, khả năng tiếp cận thị trường, năng lực kinh doanh….Vì vậy, có thể nói, FDI không chỉ bao gồm dòng chảy của các nguồn lực tài chính vào nước chủ nhà mà đây là một gói các nguồn lực và tài sản cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển của nước chủ nhà. FDI cũng liên quan đến quyền kiểm soát của nhà đầu tư nước ngoài đối với hoạt động sản xuất tại nước chủ nhà.
Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Đây là một văn bản được ký kết giữa một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước (nước nhận đầu tư) để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách nhiệm và phân phối kết quả kinh doanh mà không thành lập một công ty, xí nghiệp hay không ra đời một tư cách pháp nhân mới nào.
Ưu điểm:
Với nước tiếp nhận: giải quyết được tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghê, tạo thêm đuợc mối quan hệ trong hợp tác kinh doanh, được nắm quyền điều hàng dự án.
Với nước đầu tư: chia sẻ đuợc sự rủi ro trong đầu tư, tận dụng đựoc hệ thống phân phối có sẵn , điều hành, phân bổ của nước tiếp nhận trong quá trình đầu tư. Xâm nhập vào thị truờng nước sở tại đễ dàng hơn mà không mất thời gian thăm dò, nghiên cứu.
Nhược điểm
Với nước tiếp nhận: khó thu hút vốn đầu tư,chỉ thực hiện được ở một số lĩnh vực sinh lời.
Với nước đầu tư: không được trực tiếp điều hành dự án.
Công ty liên doanh – Xí nghiệp liên doanh
Xí nghiệp hay công ty liên doanh được thành lập giữa một bên là một thành viên của nước nhận đầu tư và một bên là các chủ đầu tư ở nước khác tham gia. Một xí nghiệp liên doanh có thể gồm hai hoặc nhiều bên tham gia liên doanh.
Ưu điểm
Với nước tiếp nhận đầu tư: trước hết giải quyết đưoc tình trạng thiếu vốn, đổi mới công nghệ,nâng cao được trình độ của của người lao động , học hỏi được cách thức quản lý làm việc chuyên nghiệp.
Với nước đầu tư: chia sẻ được rủi ro,tận dụng được hệ thông phân phối có sẵn,thâm nhập được vào thị trường truyền thông và không mất thời gian chi phí cho viêc nghiên cứu thị trường tại nước sở tại.
Nhựơc điểm
Cả hai bên đều gặp phải những rắc rối khó khăn trong quản lý như mất nhiều thời gian để thương thảo,bàn luận,khác biệt về văn hoá nhìn nhận trong đầu tư nên dễ xuất hiện mâu thuẫn trong quản lý.
Với nước tiếp nhận đầu tư:thay đổi nhân sự ở công ty mẹ sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của liên doanh, đối tác nước ngoài thường quan tâm đến lợi ích toàn cầu vì vậy liên doanh nhiều khi phai chịu thua thiệt vì lợi ích ở nơi khác.
Với nhà đầu tư:không chủ động được trong việc điều hành,dễ bị mất cơ hội kinh doanh.
Công ty hay xí nghiệp có 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đây là hình thức các công ty hay xí nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức cá nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, tự quản lý và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Ưu điểm
Với nước tiếp nhận đầu tư:thu được lợi nhuận từ doanh nghiệp(tiền thuê đất,thuế) tiếp cận đựơc thị trường nước ngoài.
Với nhà đầu tư nước ngoài:tận dụng được tài nguyên của nước sở tại, chủ động trong việc quản lý, điều hành.
Nhược điểm
Với nước tiếp nhận đầu tư:khó tiếp thu đựơc kinh nghiệm quản lý,công nghệ để nâng cao được trình độ của cán bộ quản lý,cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp trong nước.Bị chia sẻ thị truờng của nước mình,bị tận dụng nguồn tài nguyên.
Với nhà đầu tư nước ngoài:phải chịu hoàn toàn mọi rủi ro trong quá trình đầu tư,mất nhiều thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị truơng,khó xâm nhập vào nhiều lĩnh vực thị trưòng trong nước lớn.
Các hình thức khác:
Đầu tư vào các khu chế xuất, khu phát triển kinh tế, thực hiện những hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (B.O.T). Những dự án B.O.T thường được chính phủ các nước đang phát triển tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hiện việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế.
Ưu điểm
Với nước tiếp nhận đầu tư:thu được vốn đầu tư vào nhưng dự án hạ tầng đòi vốn đầu tư lớn,giảm sức ép cho ngân sách nhà nước,nâng cao được các công trình hạ tầng trong nước.
Với nhà đầu tu nước ngoài:hiệu quả sử dụng vốn được đảm bảo,chủ động quản lý, điều hành và tự chủ kinh doanh lợi nhuận.
Nhược điểm
Với nước tiếp nhận đầu tư: khó tiếp cận khả năng quản lý và ra soát công trình.Nhà nước cung chịu rủi ro ngoài kiểm soat của nhà đầu tư.
Với nhà đầu tư nước ngoài: mất nhiều thời gian trong việc đàm phán ,thực hiện hợp đồng.
Tác động của FDI
Mặc dù FDI vẫn chịu sự chi phối của Nhà nước nhưng FDI ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt khác bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất, kinh doanh nên mức độ khả thi của dự án là khá cao, đặc biệt là trong việc tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Do quyền lợi gắn chặt với dự án, họ quan tâm đến hiệu quả kinh doanh nên có thể lựa chọn công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ quản lý và tay nghề của công nhân. Vì vậy FDI ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư.
Đối với nước chủ đầu tư :
Đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở các nước tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng. Mặt khác đầu tư ra nước ngoài giúp bành trướng sức mạnh kinh tế và nâng cao uy tín chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
Đối với nước nhận đầu tư:
FDI có tác dụng lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát… Qua FDI các tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại những doanh nghiệp có nguy cơ phá sản, giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người lao động. FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình hình bội chi ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước khác.
FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục được tình trạng thiếu vốn kéo dài. Nhờ vậy mà mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển to lớn với nguồn tài chính khan hiếm được giải quyết, đặc biệt là trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Theo sau FDI là máy móc thiết bị và công nghệ mới giúp các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học - kỹ thuật mới. Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất giúp tiết kiệm được chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trên thị trường quốc tế.
Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội hiện đại được du nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nước bắt kịp phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với phong cách làm việc công nghiệp cũng như hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi. FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hoá nước ngoài và đi kèm với nó sẽ là những hoạt động Marketing được mở rộng không ngừng.
Bên cạnh những tác động tích cực, FDI còn có những tác động tiêu cực đối với cả nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư:
Với nước chủ đầu tư: vốn đầu tư chảy ra nước ngoài có khả năng làm giảm tăng trưởng GDP và việc làm của quốc gia; khi các công ty lớn đầu tư ra nước ngoài sản xuất những mặt hàng cùng loại sẽ tạo nên khả năng cạnh tranh mới giữa các doanh nghiệp ngoài nước với chính doanh nghiệp trong nước, thậm chí cạnh tranh với chính doanh nghiệp đầu tư.
Với nước nhận đầu tư: nhà đầu tư nước ngoài có thể kiểm soát thị trường địa phương, làm mất tính độc lập, tự chủ về kinh tế, phụ thuộc ngày càng nhiều vào nước ngoài; FDI chính là công cụ phá vỡ hàng rào thuế quan bảo hộ, làm mất tác dụng của công cụ thuế quan; tạo cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước, có thể dẫn đến suy giảm sản xuất của các doanh nghiệp trong nước; FDI, nhất là của các TNCs, có thể gây nên những vấn đề phức tạp mới về chuyển giao các công nghệ quá hiện đại mà không phù hợp; lợi nhuận thu được có xu hướng chuyển ra nước ngoài, làm giảm tiềm lực phát triển kinh tế lâu dài; các nước phát triển có xu hướng chuyển giao các công nghệ lạc hậu sang các nước nhận đầu tư; góp phần làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội mới như phân hóa đội ngũ cán bộ, “chảy máu chất xam”, tham nhũng, hối lộ…
THỰC TRẠNG MẤT CÂN ĐỐI TRONG CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ FDI VÀO VIỆT NAM
Tình hình thu hút vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam từ 1988 – 2013
Những năm cuối thập niên 80 – đầu thập niên 90 trong bối cảnh quốc tế: chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan vỡ; các thế lực thù địch tìm cách chống phá Việt Nam trên nhiều mặt. Thế giới có những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị và an ninh quốc tế, sự phục hồi chậm của nền kinh tế thế giới và biến động giá cả trên thị trường quốc tế... Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á thực hiện cải cách kinh tế, trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới. Tình hình trong nước: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ, mang nặng tính chất tự cấp tự túc, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mức lạm phát lên tới trên 700% vào năm 1986, sản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Với bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, để khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện công cuộc “đổi mới” toàn diện, trong đó có việc hoàn thiện, nâng Điều lệ Đầu tư năm 1977 thành bộ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đã khẳng định sự đúng đắn của chủ trương.
Trong 3 năm 1988 – 1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam còn ít (214 dự án với tổng số vốn dăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động nhiều đén tình hình kinh tế -xã hội đất nước.
Trong thời kỳ 1991 – 1996, vốn ĐTNN đã tăng lên mạnh mẽ với 1.781 dự án được cấp phép có tổng số vốn đăng ký 28,3 tỷ USD. Đây có thể xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN vào Việt Nam, đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư – kinh doanh tấp so với một số nước trong khu vực, sẵn lực lượng lao động với giá cả nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy ĐTNN tằng trưởng nhanh chóng có tác động lan tỏa đến thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Năm 1955 thu hút đc 6,6 tỷ USD tăng 5,5 lần so với năm 1991 (1,2 tỷ USD ). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đắng ký tăng 45% so với năm trước.
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD; nhưng số vốn đã giảm mạnh ít hơn năm trước khá nhiều, đó là do tác động của cuộc khủng khoảng kinh tế ở Châu Á năm 1997. Trong khoảng thời gian này nhiều dự án ĐTNN đực cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số là từ các nhà đầu tư Hàn Quốc và Hồng Công).
Từ năm 2000 - 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 tỷ USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18% so với năm 2000; năm 2002 vốn dăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001; năm 2003 đạt 3,1 tỷ USD ,tăng 45,1% so với năm trước.
Từ năm 2004 – 2007, ĐTNN vào Việt Nam tăng mạnh năm 2005 đã tăng 50,8% so với năm 2003, và đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đạt được con số cao kỷ lục trong năm 2007 với 20,3 tỷ USD vốn ĐTNN , đó là con số cao nhất trong 20 năm (1988-2007) và tăng gần gấp đôi so với năm 1996.
Theo báo cáo nhanh của Cục Đầu tư nước ngoài vào ngày 25-12-2008, tổng số vốn đầu tư ngước ngoài đăng ký của cả nước đạt 64,01 tỷ USD, tăng hơn 200% so với năm 2007,đây là con số cao nhất từ trước đến nay.
Năm 2009, tình hình vốn đầu tư nước ngoài FDI vào Việt Nam chỉ đạt 21,48 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 10 tỉ USD. Đây là mức suy giảm khá mạnh và chỉ bằng 30% so với năm 2008, nhưng đây cũng là con số khá cao trong bối cảnh cuộc khủng hoảng khinh tế toàn cầu vào cuối năm 2008.
Năm 2010, năm cuối thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, FDI ở Việt Nam đạt được những kết quả đáng khích lệ. Năm 2010,tuy chỉ đạt được 18,5 tỷ USD vốn FDI, nhưng ước tính các dự án FDI đã giải ngân được 11 tỉ USD, tăng 10% so với năm 2009, trong đó, giải ngân của các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) ước đạt 8 tỷ USD. Vốn FDI chiếm 25,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010, cao hơn năm 2009 (chiếm 25,5%). Tưởng như nề kinh tế đã bắt đầu khôi phục thì theo kết quả báo cáo của Bộ Công Thương, ước tính cho cả năm 2011, tổng vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 14 tỷ USD và vốn giải ngân đạt gần 11 tỷ USD, tổng vốn đăng ký 2011 giảm 24% so với năm 2010.
Năm 2012 tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã bắt đầu phục hồi với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt 16,3 tỷ USD, tăng 16,43% so với năm 2011. Con số này đã cao hơn nhiều so với ước tính sơ bộ mà Cục Đầu tư nước ngoài đã công bố hồi cuối năm 2012: cả vốn cấp mới và tăng thêm là 13,013 tỷ USD, bằng 84,7% so với cùng kỳ 2011. Như vậy, năm 2012, Việt Nam đã đạt mục tiêu về thu hút FDI (15-16 tỷ USD) và đã tăng so với năm trước, đây là một kết quả rất tích cựccho nền kinh tế Việt Nam.
Năm 2013, theo các báo cáo nhận được, tính đến ngày 15/12/2013 cả nước có 1275 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 14,272 tỷ USD, tăng 70,5% so với cùng kỳ năm 2012 và 472 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 7,355 tỷ USD, tăng 30,8% so với cùng kỳ năm 2012. Dây là con số với số liệu đáng mừng cho nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phục hồi sau cuộc khủng khoảng nền kinh tế toàn cầu.
Mất cân đối trong các hình thức đầu tư FDI tại Việt Nam
Thực trạng:
Trong giai đoạn đầu thu hút FDI vào Việt Nam (1988 – 1994), , FDI tập trung chủ yếu vào hình thức liên doanh,chiếm khoảng 80% tổng vốn đăng ký, 20% còn lại chia đều cho các hình thức khác. Một trong những nguyên nhân là do trong thời kỳ đầu thu hút FDI, các nhà đầu tư nước ngoài còn chưa am hiểu về môi trường đầu tư của Việt Nam, về những thủ tục pháp lý cần thiết… vì thế họ lựa chọn hình thức liên doanh để tìm hiểu thêm về môi trường đầu tư của Việt Nam thông qua các đối tác liên doanh của mình.Tuy nhiên, từ năm 1995 đến nay, FDI theo hình thức 100% vốn nước ngoài gia tăng thông qua đầu tư mới hoặc chuyển từ liên doanh sang, do vậy hình thức liên doanh giảm đi rõ rệt.
Tính đến hết năm 2007, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 51,2 tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức liên doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về số dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh có 221 dự án với tổng vốn đăng ký 4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% tổng vốn đăng ký. Số còn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO. Có thể so sánh tỷ trọng dự án hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngoài tính đến hết năm 2004 là 39,9%, theo hình thức liên doanh là 40,6% và theo hình thức hợp doanh là 19,5% để thấy được hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư lựa chọn hơn.
Trong