Thực trạng ngân sách Nhà nước và tình hình thâm hụt ngân sách tại Việt Nam giai đoạn 2005 – 2009

Một nhà nước dù tồn tại trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử đều luôn cố gắng hoàn thành được sứ mạng lịch sử của nó. Để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, nhà nước cần có những công cụ riêng của mình. Một trong những công cụ đắc lực giúp Nhà nước đó chính là ngân sách Nhà nước.Trong những năm qua thì vai trò của ngân sách Nhà nước đã được thể hiện rõ trong việc giúp Nhà nước hình thành các quan hệ thị trường góp phần kiểm soát lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp để từ đó làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế.Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đó thì việc sử dụng ngân sách Nhà nước hiện nay còn nhiều bất cập, chưa đúng cách, đúng lúc, cấp vốn đầu tư chưa hiệu quả, sự yếu kém trong việc quản lí thu chi ngân sách đã đặt ra một vấn đề rất đáng quan tâm khi xem xét về ngân sách Nhà nước. Thực tế đó cho thấy chúng ta cần phải có cái nhìn sâu hơn về ngân sách Nhà nước và tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước vì ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách Nhà nước đến các hoạt động kinh tế - xã hội là hết sức to lớn. Vậy thế nào là thâm hụt ngân sách Nhà nước?nguyên nhân nào dẫn đến thâm hụt? ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách Nhà nước đến tình hình kinh tế - xã hội là như thế nào? thực trạng và các biện pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước ở nước ta hiện nay như thế nào? Trong thời gian tới để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế cao và ổn định thì liệu nước ta có chấp nhận một mức bội chi ở mức cao hay không? Tất cả những vấn đề nói trên đã và đang đặt ra nhiều đòi hỏi đối với các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách để có thể tìm ra những nguyên nhân và các biện pháp xử lí tình hình bội chi ngân sách Nhà nước. Trong phạm vi của một đề án môn học với đề tài "Ngân sách nhà nước và thâm hụt ngân sách nhà nước" em xin đề cập đến một số vấn đề như sau: khái quát hoá những vấn đề cơ bản về ngân sách Nhà nước và bội chi ngân sách Nhà nước, chỉ ra thực trạng về sử dụng ngân sách Nhà nước, cân đối và bội chi ngân sách Nhà nước ở nước ta hiện nay và những kiến nghị giải pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước.Dựa trên cơ sở đó kết cấu của đề án bao gồm có 2 chương. Chương 1: Lý thuyết chung về ngân sách nhà nước và thâm hụt ngân sách nhà nước. Chương 2: Thực trạng ngân sách Nhà nước và tình hình thâm hụt ngân sách tại Việt Nam giai đoạn 2005 – 2009

doc32 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7143 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng ngân sách Nhà nước và tình hình thâm hụt ngân sách tại Việt Nam giai đoạn 2005 – 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Một nhà nước dù tồn tại trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử đều luôn cố gắng hoàn thành được sứ mạng lịch sử của nó. Để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, nhà nước cần có những công cụ riêng của mình. Một trong những công cụ đắc lực giúp Nhà nước đó chính là ngân sách Nhà nước.Trong những năm qua thì vai trò của ngân sách Nhà nước đã được thể hiện rõ trong việc giúp Nhà nước hình thành các quan hệ thị trường góp phần kiểm soát lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp để từ đó làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế.Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đó thì việc sử dụng ngân sách Nhà nước hiện nay còn nhiều bất cập, chưa đúng cách, đúng lúc, cấp vốn đầu tư chưa hiệu quả, sự yếu kém trong việc quản lí thu chi ngân sách đã đặt ra một vấn đề rất đáng quan tâm khi xem xét về ngân sách Nhà nước. Thực tế đó cho thấy chúng ta cần phải có cái nhìn sâu hơn về ngân sách Nhà nước và tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước vì ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách Nhà nước đến các hoạt động kinh tế - xã hội là hết sức to lớn. Vậy thế nào là thâm hụt ngân sách Nhà nước?nguyên nhân nào dẫn đến thâm hụt? ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách Nhà nước đến tình hình kinh tế - xã hội là như thế nào? thực trạng và các biện pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước ở nước ta hiện nay như thế nào? Trong thời gian tới để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế cao và ổn định thì liệu nước ta có chấp nhận một mức bội chi ở mức cao hay không? Tất cả những vấn đề nói trên đã và đang đặt ra nhiều đòi hỏi đối với các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách để có thể tìm ra những nguyên nhân và các biện pháp xử lí tình hình bội chi ngân sách Nhà nước. Trong phạm vi của một đề án môn học với đề tài "Ngân sách nhà nước và thâm hụt ngân sách nhà nước" em xin đề cập đến một số vấn đề như sau: khái quát hoá những vấn đề cơ bản về ngân sách Nhà nước và bội chi ngân sách Nhà nước, chỉ ra thực trạng về sử dụng ngân sách Nhà nước, cân đối và bội chi ngân sách Nhà nước ở nước ta hiện nay và những kiến nghị giải pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước.Dựa trên cơ sở đó kết cấu của đề án bao gồm có 2 chương. Chương 1: Lý thuyết chung về ngân sách nhà nước và thâm hụt ngân sách nhà nước. Chương 2: Thực trạng ngân sách Nhà nước và tình hình thâm hụt ngân sách tại Việt Nam giai đoạn 2005 – 2009 Chương 1: Lý thuyết chung về ngân sách nhà nước và thâm hụt ngân sách nhà nước Ngân sách nhà nước Khái niệm: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, dịch vụ tài chính là đầu tàu phát triển kinh tế, từ sản xuất đến phân phối và tiêu thụ. Hệ thống tài chính vững chắc là cơ sở để có được tiềm lực tài chính vững mạnh tiến tới phát triển kinh tế trong nước cũng như hội nhập kinh tế thế giới. Trong hệ thống tài chính thống nhất, ngân sách nhà nước là khâu tài chính tập trung giữ vị trí chủ đạo, đồng thời là khâu tài chính hình thành sớm nhất. Ngân sách nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lý Nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hóa tiền tệ. Thuật ngữ “Ngân sách Nhà nước” được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế xã hội ở nhiều quốc gia nhưng quan niệm về Ngân sách Nhà nước chưa thống nhất. Luật Ngân sách Nhà nước ngày 16/12/2002 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Bản chất của Ngân sách Nhà nước: Ngân sách Nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Nhà nước bằng quyền lực chính trị và xuất phát từ nhu cầu tài chính để đảm bảo việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình đã đặt ra các khoản thu và chi ngân sách Nhà nước. Điều này cho thấy sự tồn tại của Nhà nước, vai trò của Nhà nước đối với xã hội là yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và tính chất hoạt động của ngân sách Nhà nước. Xét về phương diện pháp lý, Ngân sách Nhà nước là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi bằng tiền của Nhà nước trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Đạo luật này được cơ quan lập pháp của quốc gia đó ban hành. Xét về bản chất kinh tế, mỗi hoạt động của Ngân sách Nhà nước đều là hoạt động phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia (phân phối lần đầu và tái phân phối). Và vì vậy, về nội dung kinh tế, ngân sách Nhà nước thể hiện các mối quan hệ kinh tế trong phân phối. Đó là hệ thống quan hệ kinh tế giữa một bên là Nhà nước với một bên là các tổ chức kinh tế xã hội, các tầng lớp dân cư. Xét về tính chất xã hội, ngân sách Nhà nước luôn luôn là một công cụ kinh tế của Nhà nước, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước là một quỹ tiền tệ tập trung với các khoản thu và khoản chi của Nhà nước, do vậy hoạt động của ngân sách Nhà nước là hoạt động phân phối các nguồn tài chính của xã hội, phản ánh các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong hoạt động phân phối đó. Đó là các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với doanh nghiệp, Nhà nước với các đơn vị hành chính sự nghiệp, Nhà nước với các tầng lớp dân cư, Nhà nước với thị trường tài chính. Vai trò của ngân sách Nhà nước: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ngân sách Nhà nước ngày càng trở nên quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế cũng như giải quyết các vấn đề xã hội. Ngân sách Nhà nước phản ánh các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình thu chi ngân sách. Những quan hệ kinh tế này chỉ có thể phát sinh, phát triển trên cơ sở vận động không ngừng của các cơ quan tiền tệ trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Tính chất, quy mô, mức độ và hiệu quả của quá trình vận động này là tiền đề vật chất quan trọng nhất của ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa ngân sách Nhà nước với sự vận động của các đơn vị tiền tệ nảy sinh trong lĩnh vực sản xuất, lưu thông hàng hóa, các quan hệ tiền tệ thuộc nội dung ngân sách Nhà nước hoàn toàn không mang tính thụ động mà có tác động trở lại. Sự tác động đó hoàn toàn phụ thuộc vào việc Nhà nước sử dụng ngân sách làm công cụ quản lý kinh tế, xã hội như thế nào. Trong cơ chế thị trường, ngân sách Nhà nước được sử dụng làm công cụ quan trọng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, xã hội. Do vậy có thể nói cùng với việc đảm bảo chi tiêu của Nhà nước bằng việc huy động các nguồn tài chính trên phạm vị rộng lớn trong và ngoài nước, vai trò tất yếu của ngân sách Nhà nước ở mọi thời đại và trong mọi mô hình kinh tế là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội. Vai trò này của ngân sách Nhà nước được thể hiện trên 3 khía cạnh sau: Kích thích sự tăng trưởng kinh tế (vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế) Giải quyết các vấn đề xã hội (vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội) Góp phần ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát (điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường) Kích thích sự tăng trưởng kinh tế (vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế) Trong cơ chế thị trường kế hoạch hóa tập trung, vai trò của ngân sách Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động là rất thụ động. Ngân sách thực hiện bao cấp tràn lan cho các hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua cấp vốn cố định, vốn lưu động, cấp bù lỗ, bù giá, bù lương,… Trong điều kiện đó, hiệu quả của các khoản thu chi ngân sách Nhà nước không được coi trọng và tác động của ngân sách Nhà nước đến các hoạt động kinh tế nhằm điều chỉnh các hoạt động đó và sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là hết sức hạn chế. Chuyển sang cơ chế thị trường, trong lĩnh vực kinh tế, Nhà nước định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích sự phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. Nhà nước thu thuế vừa tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, mặt khác, chính sách thuế đối với từng lĩnh vực khác nhau sẽ góp phần kích thích sản xuất phát triển, hướng nhà đầu tư bỏ vốn vào những lĩnh vực kinh tế cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng đã định. Ví dụ như thuế suất đánh vào ô tô nhập khẩu rất cao để khuyến khích sản xuất trong nước. Đồng thời, với các khoản chi từ ngân sách Nhà nước, Nhà nước sẽ chú trọng đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng, vào các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, đưa ra các gói kích thích kinh tế khi kinh tế lâm vào thời kỳ khó khăn, khủng hoảng. Giải quyết các vấn đề xã hội (vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội) Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, sự tồn tại và hoạt động có hiệu quả của bộ máy Nhà nước, lực lượng quân đội, công an, sự phát triển của các hoạt động xã hội, y tế, văn hóa có ý nghĩa quyết định. Việc thực hiện các nhiệm vụ này về cơ bản thuộc về Nhà nước và không vì mục tiêu lợi nhuận. Việc sử dụng những dịch vụ kể trên được phân chia giữa những người tiêu dùng, nhưng nguồn tài trợ để thực hiện các nhiệm vụ đó lại được cấp phát từ ngân sách Nhà nước. Như vậy, trong việc thực hiện các nhiệm vụ có tính chất chung toàn xã hội, ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, cùng với việc thực hiện các nhiệm vụ có tính chất chung toàn xã hội, hàng năm Chính phủ vẫn có sự chú ý đặc biệt cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó thông qua các loại trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hoặc có hòan cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, các loại trợ cấp giúp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu (lương thực, điện, nước), các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, các chương trình quốc gia lớn về chống mù chữ, chống dịch bệnh, các chi phí cho việc cung cấp các hoàng hóa khuyến dụng, hàng hóa công cộng,… Bên cạnh các khoản chi ngân sách cho việc thực hiện các vấn đề xã hội, thuế cũng được sử dụng để thực hiện vai trò tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Nền kinh tế thị trường với những khuyết tật của nó sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư. Nhà nước phải có chính sách hợp lý nhằm điều tiết lại khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo trong xã hội. Việc kết hợp giữa thuế trực thu và thuế gián thu, một mặt tạo ra nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, mặt khác nhằm điều tiết thu nhập của tầng lớp dân cư có thu nhập cao, điều tiết tiêu dùng, đảm bảo thu nhập hợp lý của các tầng lớp người lao động. 1.1.3.3. Góp phần ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát (điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường) Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường là sự cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp nhằm đạt được lợi nhuận tối đa, các yếu tố cơ bản của thị trường là cung cầu và giá cả thường xuyên tác động lẫn nhau và chi phối hoạt động của thị trường. Sự mất cân đối giữa cung và cầu sẽ làm cho giá cả tăng lên hoặc giảm đột biến gây ra biến động trên thị trường, dẫn đến sự dịch chuyển vốn của các doanh nghiệp từ ngành này sang ngành khác, từ địa phương này sang địa phương khác. Do đó, để đảm bảo lợi ích cho nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng nhà nước phải sử dụng ngân sách để can thiệp vào thị trường nhằm bình ổn giá cả thông qua công cụ thuế và các khoản chi từ ngân sách nhà nước. Trong trường hợp thị trường có nhiều biến động, giá cả lên quá cao hoặc xuống quá thấp, nhờ lực lượng dự trữ hàng và tiền, chính phủ có thể điều hòa quan hệ cung-cầu hàng hóa, vật tư để bình ổn giá cả trên thị trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và ổn định sản xuất. Chính phủ cũng có thể sử dụng ngân sách Nhà nước nhằm khống chế và đẩy lùi nạn lạm phát một cách có hiệu quả thông qua việc thông qua việc thực hiện chính sách thắt chặt ngân sách, nghĩa là cắt giảm các khoản chi tiêu ngân sách, chống tình trạng bao cấp, lãng phí trong chi tiêu, đồng thời có thể tăng thuế tiêu dùng để hạn chế cầu, mặt khác có thể giảm thuế với đầu tư, kích thích sản xuất phát triển để tăng cung. Thu và chi của ngân sách Nhà nước: Thu của ngân sách Nhà nước Thu ngân sách Nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị để tập trung một bộ phận tổng sản phẩm quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. Như vậy thu ngân sách Nhà nước bao gồm toàn bộ các khoản tiền được tập trung vào quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước để đáp ứng cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Trong bất cứ xã hội nào, cơ cấu các khoản thu của ngân sách Nhà nước đều gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền lực chính trị của Nhà nước. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước là điều kiện xuất hiện các khoản thu ngân sách Nhà nước. Ngược lại, các khoản thu ngân sách Nhà nước là tiền đề vật chất không thể thiếu được để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Thu ngân sách Nhà nước luôn luôn gắn chặt với quá trình kinh tế và các phạm trù chính trị. Kết quả của quá trình hoạt động kinh tế và hình thức, phạm vi, mức độ vận động của các phạm trù giá trị là tiền đề quan trọng xuất hiện hệ thống thu ngân sách Nhà nước. Và hệ thống thu ngân sách Nhà nước cũng là nhân tố qan trọng có ảnh hưởng to lớn đến kết quả của của quá trình kinh tế cũng như sự vận động của các phạm trù giá trị. Xét theo tác dụng của khoản thu với quá trình cân đối ngân sách, thu ngân sách Nhà nước bao gồm các khoản: + Thu trong cân đối ngân sách Nhà nước gồm: Thuế, phí và lệ phí Thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước Thu lợi tức cổ phần của Nhà nước Các khoản thu khác theo luật định *Thuế: Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng nhất. Thuế không chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số thu ngân sách Nhà nước hàng năm mà còn là công cụ của Nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc cho nhà nước do luật pháp qui định đối với các pháp nhân và thể nhân thuộc đối tượng chịu thuế nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thuế là hình thức phân phối lại bộ phận nguồn tài chính của xã hội, không mang tính hoàn trả trực tiếp cho người nộp. Do đó, tại thời điểm nộp thuế, người nộp thuế không được hưởng bất kỳ một lợi ích nào mà xem như đó là trách nhiệm và nghĩa vụ đối với nhà nước. Thuế mang tính cưỡng chế và được thiết lập theo nguyên tắc luật định. Để phát huy tốt tác dụng điều tiết vĩ mô của các chính sách thuế, nội dung của chính sách thuế thường xuyên có sự thay đổi cho phù hợp với diễn biến thực tế của đời sống kinh tế xã hội và phù hợp với yêu cầu của quản lý kinh tế, tài chính. Các sắc thuế chủ yếu hiện nay đang được áp dụng ở nước ta gồm có: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu,… Các loại thuế ở nước ta được chia thành 2 nhóm lớn: thuế trực thu và thuế gián thu. Nhóm thuế trực thu là những loại thuế mà nhà nước thu trực tiếp vào các pháp nhân hay thể nhân khi có tài sản hoặc thu nhập được qui định nộp thuế. Đây là loại thuế mà người nộp thuế chính là người chịu thuế ví dụ như: thuế thu nhập cá nhân, thuế nhà đất … Nhóm thuế gián thu: là những loại thuế đánh vào giá trị hàng hoá khi nó lưu chuyển trên thị trường, là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế không phải là người chịu thuế, nó được cấu thành trong giá cả hàng hoá dịch vụ và người tiêu dùng là người chịu thuế. Người nộp thuế không phải đối tượng chịu thuế ví dụ như: V.A.T, thuế tiêu thụ đặc biệt… Mỗi sắc thuế khác nhau, xét trên giác độ luật, đều được cấu tạo bởi các yếu tố sau: Đối tượng nộp thuế: Đối tượng nộp thuế xác định chủ thể nộp thuế là ai. Theo các sắc thuế hiện nay, đối tượng là các cá nhân hoặc các tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân. Đối tượng tính thuế: Đối tượng tính thuế xác định thuế được tính trên cái gì: tính trên giá trị tài sản, tính trên thu nhập hay trên phần giá trị gia tăng,… Thuế suất, thuế biểu: Trong các luật thuế hiện hành ở nước ta, các hình thức thuế suất được sử dụng phổ biến là thuế suất tỷ lệ và thuế suất lũy tiến. Thuế suất có vị trí quan trọng đặc biệt vì nó thể hiện mối quan hệ kinh tế giữa người nộp thuế với Nhà nước. Biểu thuế thể hiện các mức thuế suất quy định khác nhau cho một đối tượng tính thuế Yếu tố miễn, giảm thuế: Việc quy định các yếu tố miễn giảm trong các sắc thuế nhằm thực hiện các vấn đề chính sách xã hội qua các luật thuế, đồng thời còn tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước sử dụng linh hoạt công cụ thuế để điều chỉnh các mặt hoạt động sản xuất theo chủ trương của Nhà nước. *Thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước Trong nền kinh tế thị trường nhà nước tham gia các hoạt động kinh tế bằng việc đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh dưới hình thức góp vốn vào các doanh nghiệp, công ty liên doanh, mua cổ phiếu của các công ty cổ phần. Số vốn đầu tư của nhà nước vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nói trên sẽ sinh lời và lợi tức thu được sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của nhà nước, hiệu quả sản xuất kinh doanh và cơ chế phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Các khoản thu này phản ảnh hoạt động kinh tế đa dạng của nhà nước, bao gồm: - Thu từ việc bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh. - Thu từ việc bán tài sản của nhà nước đã cho các chủ thể trong xã hội thuê trước đây. - Thu từ sử dụng vốn thuộc nguồn của ngân sách Nhà nước. - Thu từ việc bán lại các cơ sở kinh tế của nhà nước cho các thành phần kinh tế khác. - Thu từ cho thuê hoặc bán tài nguyên thiên nhiên. + Thu để bù đắp sự thiếu hụt của ngân sách Nhà nước: bao gồm các khoản vay trong nước và vay nước ngoài cho chi tiêu ngân sách. Chi của ngân sách Nhà nước: Chi của ngân sách Nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. Chi ngân sách Nhà nước chính là việc cung cấp các phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của Nhà nước. Chi ngân sách Nhà nước luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Chính phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia. Mức độ, phạm vi chi tiêu ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào tính chất nhiệm vụ của Chính phủ trong mỗi thời kỳ. Tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách Nhà nước được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt xã hội và chính trị, ngoại giao. Vì vậy, khi xem xét, đánh giá về các khoản chi ngân sách, cần sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng, đồng chi ở tầm vĩ mô. Xét về mặt tính chất, phần lớn các khoản chi ngân sách Nhà nước đều là các khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Vì vậy, các nhà quản lý phải có sự phân tích, tính toán cẩn thận trên nhiều khía cạnh trước khi đưa ra các quyết định chi tiêu để tránh được những lãng phí không cần thiết và nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách Nhà nước. Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân chia các khoản chi ngân sách Nhà nước: theo chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và theo tính chất kinh tế của các khoản chi ngân sách Nhà nước, theo các ngành kinh tế, theo tính chất của quá trình tái sản xuất xã hội. Theo chức năng nhiệm vụ của Nhà nước, nội dung chi ngân sách Nhà nước bao gồm: + Chi kiến thiết kinh tế + Chi văn hóa – xã hội + Chi quản lý hành chính + Chi an ninh, quốc phòng + Các khoản chi khác Hiện nay, cách phân chia theo chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước ít được sử dụng, người ta thường phân chia nội dung chi ngân sách Nhà nước theo tính chất kinh tế của các khoản chi ngân sách Nhà nước. Theo tiêu chí này, chi ngân sách Nhà nước được chia thành các nội dung: + Chi thường xuyên: Là các khoản chi không có trong khu vực đầu tư và có tính chất thường xuyên để tài trợ cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước nhằm duy trì hoạt động. Về nguyên tắc, các khoản chi này phải được tài trợ bằng các khoản thu không mang tính hoàn trả (thu trong cân đối) của ngân sách Nhà nước. Chi thường xuyên gồm có: Chi về chủ quyền quốc gia: tức là các chi phí mà cơ quan Nhà nước cần phải thực hiện để bảo vệ chủ quyền quốc gia như quốc phòng, an ninh, ngoại giao, thông tin đại chúng,… Chi phí liên quan đến sự điều hành và duy trì hoạt động của các cơ quan Nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ được giao Chi phí do sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm cải thiện đời sống nhân dân như: trợ cấp cho Nhà nước để thực hiện các hoạt động sự nghiệp, trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội, hỗ trợ quỹ Bảo hiểm xã hội,… + Chi đầu tư phát triển: là tất cả các c
Luận văn liên quan