Thực trạng ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam

Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng 2/3 năng lượng mà thế giới đang sử dụng hiện nay là từ dầu khí. Vì vậy nguồn năng lượng này trên đất liền đứng trước nguy cơ cạn kiệt do khai thác quá mức. Nên việc tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại các vùng biển trên thế giới hiện nay đang được tiến hành mạnh mẽ. Thế kỷ 21, Việt Nam là quốc gia đang phát triển, nhu cầu năng lượng đáp ứng hoạt động sản xuất và sinh hoạt là vô cùng lớn. Với bờ biển kéo dài trên 3260km và vùng biển đặc quyền kinh tế trên 1.000.000km2 đây là tiền đề cho phép hoạch định một chiến lược biển, phù hợp với xu thế phát triển của một quốc gia biển. Theo tính toán của các chuyên gia, chỉ tính riêng trữ lượng dầu khí ngoài khơi miền nam Việt Nam chiếm khoảng 25% trữ lượng dầu dưới đáy biển Đông. Có thể khai thác khoảng 20 triệu tấn/năm. Đây là nguồn năng lượng chính đảm bảo cho sự phát triển của nước ta. Tuy nhiên những hoạt động khai thác dầu khí, vận chuyển trên biển và các sự cố tràn dầu đang mang đến nhiều nguy cơ gây ô nhiễm dầu trên biển bởi sức ép kinh tế, ý thức và khả năng quản lý tài nguyên kém hiệu quả dẫn tới hậu quả ô nhiễm môi trường biển. Trong quá khứ từng xảy ra nhiều vụ ô nhiễm dầu trên biển gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái. Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Hoa Kỳ (NRC) đưa ra con số ước đoán, hàng năm có khoảng 3,2 triệu tấn dầu làm ô nhiễm biển từ các nguồn khác nhau. Các nguồn ô nhiễm chính được ghi nhận là từ dầu, phụ gia và sự cố tràn dầu. gây tổn thất không nhỏ về mặt kinh tế và hệ sinh thái Việt Nam Dầu khí là một loại tài nguyên đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế quốc gia. Nhưng phát triển đi đôi với bảo vệ môi trường là vấn đề cấp thiết cần được quan tâm để phát triển đất nước vững mạnh và lâu dài. Xuất phát từ vấn đề trên nên tôi chọn đề tài “ Thực trạng ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam” làm chuyên đề kinh tế.

doc27 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5508 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lý do chọn đề tài Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng 2/3 năng lượng mà thế giới đang sử dụng hiện nay là từ dầu khí. Vì vậy nguồn năng lượng này trên đất liền đứng trước nguy cơ cạn kiệt do khai thác quá mức. Nên việc tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại các vùng biển trên thế giới hiện nay đang được tiến hành mạnh mẽ. Thế kỷ 21, Việt Nam là quốc gia đang phát triển, nhu cầu năng lượng đáp ứng hoạt động sản xuất và sinh hoạt là vô cùng lớn. Với bờ biển kéo dài trên 3260km và vùng biển đặc quyền kinh tế trên 1.000.000km2 đây là tiền đề cho phép hoạch định một chiến lược biển, phù hợp với xu thế phát triển của một quốc gia biển. Theo tính toán của các chuyên gia, chỉ tính riêng trữ lượng dầu khí ngoài khơi miền nam Việt Nam chiếm khoảng 25% trữ lượng dầu dưới đáy biển Đông. Có thể khai thác khoảng 20 triệu tấn/năm. Đây là nguồn năng lượng chính đảm bảo cho sự phát triển của nước ta. Tuy nhiên những hoạt động khai thác dầu khí, vận chuyển trên biển và các sự cố tràn dầu đang mang đến nhiều nguy cơ gây ô nhiễm dầu trên biển bởi sức ép kinh tế, ý thức và khả năng quản lý tài nguyên kém hiệu quả dẫn tới hậu quả ô nhiễm môi trường biển. Trong quá khứ từng xảy ra nhiều vụ ô nhiễm dầu trên biển gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái. Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Hoa Kỳ (NRC) đưa ra con số ước đoán, hàng năm có khoảng 3,2 triệu tấn dầu làm ô nhiễm biển từ các nguồn khác nhau. Các nguồn ô nhiễm chính được ghi nhận là từ dầu, phụ gia và sự cố tràn dầu. gây tổn thất không nhỏ về mặt kinh tế và hệ sinh thái Việt Nam Dầu khí là một loại tài nguyên đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế quốc gia. Nhưng phát triển đi đôi với bảo vệ môi trường là vấn đề cấp thiết cần được quan tâm để phát triển đất nước vững mạnh và lâu dài. Xuất phát từ vấn đề trên nên tôi chọn đề tài “ Thực trạng ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam” làm chuyên đề kinh tế. Mục tiêu nghiên cứu. 2.1. Mục tiêu chung. Phân tích thực trạng ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam. 2.2. Mục tiêu cụ thể. - Phân tích các nguyên nhân gây ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam. - Thấy được các ảnh hưởng gây ra do ô nhiễm dầu ở Việt Nam. - Tìm ra các giải pháp khắc phục tình hình ô nhiễm đâu trên biển. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu thứ cấp: Số liệu của các cơ quan thống kê, tạp chí khoa học chuyên ngành, qua các phương tiện như internet, báo chí Phương pháp phân tích: Sử dụng phương pháp liệt kê, so sánh và suy luận. Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Tình hình ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam. Về thời gian: Từ năm 2000 đến năm 2010. Đối tượng nghiên cứu: Nguyên nhân gây ô nhiễm dầu và ảnh hưởng do ô nhiễm dầu ở Việt Nam. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN MÔI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM. Nguồn lợi từ biển. Hiện trạng môi trường biển Viêt Nam. CHƯƠNG 2 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH Ô NHIỄM DẦU TRÊN BIỂN VIỆT NAM. Khái quát tình hình ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam. Những nguyên nhân chính gây ô nhiễm dầu trên biển Việt Nam. Ô nhiễm dầu từ các cơ sở công nghiệp và dân cư đô thị. Ô nhiễm dầu từ hoạt động khai thác dầu khí và sự cố tràn dầu. Giao thông vận tải trên biển gây ô nhiễm dầu ở Việt Nam. Ảnh hưởng gây ra do ô nhiễm dầu ở Việt Nam. Ô nhiễm dầu tác động đến hệ sinh thái biển Việt Nam. Thiệt hại do ô nhiễm dầu gây ra cho con người. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG Ô NHIỄM DẦU TRÊN BIỂN VIỆT NAM. Giải pháp từ phía nhà nước về tình hình ô nhiễm dầu. Các doanh nghiệp và tổ chức phi chính phủ làm gì để khắc phục tình trạng ô nhiễm dầu ở Việt Nam? PHẦN KẾT LUẬN Kết luận. Kiến nghị. Tài liệu tham khảo: PHẦN GIỚI THIỆU Lý do chọn đề tài Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng 2/3 năng lượng mà thế giới đang sử dụng hiện nay là từ dầu khí. Vì vậy nguồn năng lượng này trên đất liền đứng trước nguy cơ cạn kiệt do khai thác quá mức. Nên việc tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại các vùng biển trên thế giới hiện nay đang được tiến hành mạnh mẽ. Thế kỷ 21, Việt Nam là quốc gia đang phát triển, nhu cầu năng lượng đáp ứng hoạt động sản xuất và sinh hoạt là vô cùng lớn. Với bờ biển kéo dài trên 3260km và vùng biển đặc quyền kinh tế trên 1.000.000km2 đây là tiền đề cho phép hoạch định một chiến lược biển, phù hợp với xu thế phát triển của một quốc gia biển. Theo tính toán của các chuyên gia, chỉ tính riêng trữ lượng dầu khí ngoài khơi miền nam Việt Nam chiếm khoảng 25% trữ lượng dầu dưới đáy biển Đông. Có thể khai thác khoảng 20 triệu tấn/năm. Đây là nguồn năng lượng chính đảm bảo cho sự phát triển của nước ta. Tuy nhiên những hoạt động khai thác dầu khí, vận chuyển trên biển và các sự cố tràn dầu đang mang đến nhiều nguy cơ gây ô nhiễm dầu trên biển bởi sức ép kinh tế, ý thức và khả năng quản lý tài nguyên kém hiệu quả dẫn tới hậu quả ô nhiễm môi trường biển. Trong quá khứ từng xảy ra nhiều vụ ô nhiễm dầu trên biển gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái. Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Hoa Kỳ (NRC) đưa ra con số ước đoán, hàng năm có khoảng 3,2 triệu tấn dầu làm ô nhiễm biển từ các nguồn khác nhau. Các nguồn ô nhiễm chính được ghi nhận là từ dầu, phụ gia và sự cố tràn dầu. gây tổn thất không nhỏ về mặt kinh tế và hệ sinh thái Việt Nam Dầu khí là một loại tài nguyên đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế quốc gia. Nhưng phát triển đi đôi với bảo vệ môi trường là vấn đề cấp thiết cần được quan tâm để phát triển đất nước vững mạnh và lâu dài. Xuất phát từ vấn đề trên nên tôi chọn đề tài “ Thực trạng ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam” làm chuyên đề kinh tế. Khái quát phương pháp tiến hành đề tài Mục tiêu nghiên cứu. Mục tiêu chung. Phân tích thực trạng ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam. 2.1.2. Mục tiêu cụ thể. - Phân tích các nguyên nhân gây ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam. - Thấy được các ảnh hưởng gây ra do ô nhiễm dầu ở Việt Nam. - Tìm ra các giải pháp khắc phục tình hình ô nhiễm đâu trên biển. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu thứ cấp: Số liệu của các cơ quan thống kê, tạp chí khoa học chuyên ngành, qua các phương tiện như internet, báo chí Phương pháp phân tích: Sử dụng phương pháp liệt kê, so sánh và suy luận. Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Tình hình ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam. Về thời gian: Từ năm 2000 đến năm 2010. Đối tượng nghiên cứu: Nguyên nhân gây ô nhiễm dầu và ảnh hưởng do ô nhiễm dầu ở Việt Nam. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN MÔI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM Nguồn lợi từ biển: Hàng năm, kinh tế biển đóng góp 12% GDP và khoảng 50% giá trị xuất khẩu của cả nước. Riêng sản lượng hải sản ven bờ biển khai thác đã chiếm tới 80% tổng sản lượng. Trữ lượng cá toàn vùng biển Việt Nam ước tính khoảng 4,2 triệu tấn, trong đó khoảng 1,7 triệu tấn ở ngoài khơi với ngưỡng khai thác bền vững từ 1,4-1,7 triệu tấn. Từ năm 2002, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đã đứng thứ 3 cả nước và sử dụng tới 4% lực lượng lao động... Biển Việt Nam cũng đã cung cấp khoảng 35 loại hình khoáng sản với quy mô trữ lượng khai thác khác nhau thuộc các nhóm: nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý, khoáng sản lỏng... Biển cũng là nơi chứa đựng những tiềm năng phát triển ngành công nghiệp dầu khí. Các ngành khác như: vận tải biển; đóng, sửa chữa tàu biển...đã mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho sự phát triển đất nước với 7,3 triệu USD từ xuất khẩu thuyền viên... Hiện trạng môi trường biển Viêt Nam. Công ước Luật biển năm 1982 chỉ ra năm nguồn gây ô nhiễm biển gồm: các hoạt động trên đất liền, thải các chất độc hại ra biển, vận chuyển hàng hóa trên biển, thăm dò và khai thác tài nguyên trên thềm lục địa và đáy biển và ô nhiễm không khí.  Báo cáo hiện trạng môi trường biển Việt Nam đã chỉ rõ, chất lượng môi trường biển và vùng ven bờ Việt Nam đang tiếp tục suy giảm theo chiều hướng xấu đi. Các nguồn ô nhiễm từ lục địa theo sông ngòi mang ra biển như dầu và sản phẩm dầu, nước thải, phân bón nông nghiệp, thuốc trừ sâu, chất thải công nghiệp, chất thải phóng xạ và nhiều chất ô nhiễm khác. Hàng năm, các chất thải rắn (Si, NO3, NH4, PO4,…) đổ ra biển ở mức đáng lo ngại. Trên thế giới khoảng 50 triệu tấn, gồm đất, cát, rác thải, phế liệu xây dựng, chất phóng xạ. Một số chất thải loại này sẽ lắng tại vùng biển ven bờ. Một số chất khác bị phân huỷ và lan truyền trong toàn khối nước biển. Ða dạng sinh học động vật đáy ở ven biển miền bắc và thực vật nổi ở miền Trung suy giảm rõ rệt. Lượng hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu trong cơ thể các loài thân mềm hai mảnh vỏ được xác định cao nhất tại Sầm Sơn và cửa Ba Lạt (11,14 - 11,83 mg/kg thịt ngao), thấp nhất tại Trà Cổ (1,54 mg/kg). Với các chất như: an-đrin, en-đrin, đi-e-đrin, đặc biệt là an-đrin và en-đrin có ở hầu hết các mẫu phân tích sinh vật đáy ở các vùng cửa sông ven biển phía bắc đều cao hơn giới hạn cho phép, biến đổi từ 0,12 đến 3,11 mg/kg. + Một nguyên nhân nữa là do thiếu kinh phí để xử lý môi trường và buông lỏng quản lý. Tại các thành phố lớn, ngay cả các thành phố lớn như TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, hầu như toàn bộ nước thải sinh hoạt được xả trực tiếp ra sông mà không qua xử lý. Có những loại không phân huỷ được đọng lại ở ven bờ, chìm xuống đáy biển, những chất phân huỷ thì hoà tan trong toàn khối nước biển. Nước thải sinh hoạt và công nghiệp đổ xuống biển chưa qua xử lý nên chỉ số vi trùng học luôn ở mức cao. Ở một số cảng đáng báo động là hàm lượng thuỷ ngân đã vượt ngưỡng cho phép, cảng Vũng Tàu vượt 3,1lần, cảng Nha Trang vượt 1,1 lần + Các hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng sử dụng một lượng rất lớn phân bón hoá học và thuốc trừ sâu. Lượng phân bón hoá học và thuốc trừ sâu không được hấp thụ hết cũng đổ ra sông. Các nguồn ô nhiễm trên được sông tải ra biển và gây ô nhiễm biển. Nạn phá rừng đầu nguồn cũng gây xói lở đất và tăng độ đục ở các cửa sông, cảng biển. Độ đục nước vùng cảng Hải Phòng là 418-424mg/l; cảng Đà Nẵng 33-167mg/l. + Các công trình sản xuất, nhà máy đóng tàu biển, các công trình đảm bảo du lịch, và rất nhiều các hoạt động khác đều tác động xấu đến môi trường tự nhiên của biển. Những công trình trên biển ngày càng mọc thêm nhiều. Hầu hết các công trình cảng và hoạt động của cảng đều tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên, như mất các nơi sinh cư do lấy đất xây dựng, ô nhiễm nước, đất, không khí, tiếng ồn...trong khu vực cảng và phụ cận. Từ việc xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở giao thông, nạo vét luồng lạch, dẫn đến phá hoại sinh thái vùng cửa sông, ven biển ngập mặn, vùng đất chua phèn, tạo nên một sự đảo lộn, cùng với việc đổ phế thải dầu, mỡ. Hệ thống đường thuỷ phát triển, phương tiện vận tải ngày càng nhiều, lượng dầu mỡ gây ô nhiễm tới 50% nguồn gây ô nhiễm. Ô nhiễm không khí có tác động mạnh mẽ tới ô nhiễm biển. Nồng độ CO2 cao trong không khí sẽ làm cho lượng CO2 hoà tan trong nước biển tăng. Nhiều chất độc hại và bụi kim loại nặng được không khí mang ra biển. Sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển trái đất do hiệu ứng nhà kính sẽ kéo theo sự dâng cao mực nước biển và thay đổi môi trường sinh thái biển. Trong tương lai, do khan hiếm nguồn trên lục địa, sản lượng khai thác khoáng sản đáy biển sẽ gia tăng đáng kể. Trong số đó, việc khai thác dầu khí trên biển có tác động mạnh mẽ nhất đến môi trường biển. Hiện tượng rò rỉ dầu từ giàn khoan, các phương tiện vận chuyển và sự cố tràn dầu có xu hướng gia tăng cùng với sản lượng khai thác dầu khí trên biển. Cặn dầu lắng xuống đáy làm ô nhiễm trầm tích đáy biển. Nồng độ dầu cao trong nước có tác động xấu tới hoạt động của các loài sinh vật biển. Mặt dầu loang ngăn chặn không khí hoà tan vào nước nên hàm lượng oxy trong nước thấp, trung bình hàm lượng oxy chỉ còn 3,3-10,9mg/l vào mùa khô và 0,16-6,1mg/l vào mùa lũ, trong khi đó nhu cầu oxy rất cao, cần tới 13,6-31mg/l. Bên cạnh các nguồn ô nhiễm nhân tạo trên, biển có thể bị ô nhiễm bởi các quá trình tự nhiên như núi lửa phun, tai biến bão lụt, sự cố rò rỉ dầu tự nhiên v.v... + Hiện tượng thủy triều đỏ cũng đã xuất hiện ở nước ta từ tháng 6 đến trung tuần tháng 7 âm lịch tại vùng biển nam trung bộ, đặc biệt là tại Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Thiệt hại gây ra do thủy triều đỏ rất lớn, tiêu diệt tôm, cua, cá, san hô, rong cỏ biển. Bảo vệ môi trường biển là một trong những nội dung quan trọng của các chương trình bảo vệ môi trường của Liên Hợp Quốc và các quốc gia trên thế giới. Công ước Luật biển năm 1982, Công ước Marpol 73/78 chống ô nhiễm biển, Công ước quốc tế 1990 về việc sẵn sàng đối phó và hợp tác quốc tế chống ô nhiễm dầu đã thể hiện sự quan tâm của quốc tế đối với vấn đề ô nhiễm biển. CHƯƠNG 2 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH Ô NHIỄM DẦU TRÊN BIỂN VIỆT NAM Khái quát chung tình hình ô nhiễm dầu trên biển Việt Nam. Những hoạt động khai thác dầu khí và vận tải trên biển đang mang đến nhiều nguy cơ gây ô nhiễm dầu trên biển. Trong quá khứ từng xảy ra nhiều vụ ô nhiễm dầu trên biển gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái. Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Hoa Kỳ (NRC) năm 2009 đưa ra con số ước đoán, hàng năm có khoảng 3,2 triệu tấn dầu làm ô nhiễm biển từ các nguồn khác nhau. Biểu đồ 1. Nguyên nhân chính gây ô nhiễm dầu ở Việt Nam năm 2009 Nguồn: Trung tâm truyền thông bảo vệ môi trường. Trong đó nguồn ô nhiễm dầu lớn nhất xuất phát từ các cơ sở công nghiệp và dân cư đô thị có khoảng 960.000 tấn dầu chiếm 30%, đứng thứ hai phải kể đến ô nhiễm do hoạt động của các tàu chở dầu với 22%, sau đó là các vụ tai nạn tàu chở dầu 13%, trong khi đó các hoạt động khai thác dầu khí trên biển chiếm một tỷ lệ khiêm tốn khoảng 2%. Ngạc nhiên hơn cả là ô nhiễm dầu tự nhiên từ các đứt gãy của vỏ trái đất chiếm tới 8%, gấp bốn lần ô nhiễm từ các hoạt động khai thác dầu khí trên biển. Còn lại 25% là do nhiều nguyên nhân khác. Gần đây nhất, từ tháng 12/2006 đến cuối tháng 4/2007 vùng biển Đông nước ta đã hứng chịu từ 21.620 – 51.500 tấn dầu trôi nổi gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển và các vùng duyên hải từ Bắc đến Nam. Thống kê cho biết, mới chỉ thu gom được 1.721 tấn trôi dạt vào bãi biển của 20 tỉnh thành, số còn lại bị khuyếch tán hay đi đâu, gây hậu quả cho môi trường, cho thực vật và sinh vật biển thế nào chưa ai biết được. Nguyên nhân chính gây ô nhiễm dầu trên biển Việt Nam. Ô nhiễm dầu từ các cơ sở công nghiệp và dân cư đô thị. Do rò rỉ, tháo thải trên đất liền: Trong quá trình dịch vụ, sản xuất công nghiệp, khối lượng dầu mỏ bị tháo thải qua hoạt động công nghiệp vào hệ thống cống thoát nước của nhà máy đổ ra sông rồi ra biển. Số lượng dầu mỏ thấm qua đất và lan truyền ra biển ước tính gần 3 triệu tấn mỗi năm. Theo Báo cáo quốc gia về ô nhiễm biển từ đất liền Việt Nam năm 2004, thì lượng dầu mỡ khoáng thải xuống biển của các cơ sở công nghiệp chỉ riêng thành phố Hạ Long là 844 tấn/năm. Với tốc độ tăng trưởng của nghành công nghiệp bình quân 15 %/năm, từ năm 2004 đến năm 2010 thì lượng dầu thải xuống biển của các cơ sở công nghiệp ở thành phố Hạ Long hẳn đã bỏ xa con số 844 tấn/năm. Từ vùng kinh tế trọng điểm ven biển phía nam đã thải vào các sông một lượng nước thải sinh hoạt là 113.216m3/ngày và nước thải công nghiệp 312.330m3/ngày. Tính đến 11/2010 chất thải sẽ tăng rất lớn: dầu khoảng 35-160 tấn/ngày, nitơ tổng số 26-52 tấn/ngày và tổng amonia 15-30 tấn/ngày Bảng 1. Thải lượng một số chất gây ô nhiễm đổ ra biển từ một số vùng công nghiệp và dân cư tập trung ven biển năm 2003.(đơn vị: tấn) Chất gây ô nhiễm  Hải Phòng -Quảng Ninh  Đà Nẵng -Quảng Nam  Vũng Tàu -Tp HCM   Nước thải (103m3/năm)  895.793,00  1.385  20.935   Cu  65,29     Pb  45,12     Zn  840,73     Hg  5,13     As  45,89     Cd  3,44     Thuốc trừ sâu  7,50     Phân hóa học  255,10   9,571   Dầu, mỡ  22.448,10     Nguồn: Báo cáo Hiện trạng Môi trường Việt Nam 2003 Từ những con số trên cho thấy các cơ sở công nghiệp và đô thị mộc lên càng nhiều thì gánh nặng môi trường biển ngày càng lớn nếu nhà nước không có chính sách bảo vệ cụ thể. Ô nhiễm dầu từ các hoạt động khai thác dầu khí và sự cố tràn dầu ở Việt Nam. Khoảng 200 triệu tấn dầu được vận chuyển hàng năm qua các vùng biển ngoài khơi Việt Nam từ Trung Đông tới Nhật Bản và Triều Tiên. Các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ngoài khơi Việt Nam đang tăng lên hàng năm. + Biển Đông đã trở thành một trong các địa điểm thăm dò và khai thác dầu khí nhộn nhịp nhất. Nước ta có khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí, phát triển mạnh ở các khu vực: vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan và Quần đảo Trường Sa. Hoạt động khai thác dầu khí ngoài việc thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt động này còn phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí, trong đó có 20 - 30% là chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi chứa và nơi xử lý. + Trong quá trình khai thác dầu ngoài biển khơi đôi khi xảy ra sự cố dầu phun lên cao từ các giếng dầu do các thiết bị van bảo hiểm của giàn khoan bị hỏng, dẫn đến một khối lượng lớn dầu tràn ra biển làm cho một vùng biển rộng lớn bị ô nhiễm. Người ta ước tính hàng năm có khoảng hơn 1 triệu tấn dầu mỏ tràn ra trên mặt biển do những sự cố giàn khoan dầu đó. Các hoạt động thăm dò và khai thác sau đó là vận chuyển dầu gây ra tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do dầu. Các tầu trở dầu làm thoát ra biển tới 0,7% tải trọng của chúng trong quá trình vận chuyển thông thường. Sóng biển và gió đều có chiều hướng đưa lượng dầu thoát ra tấp vào bờ biển Việt Nam. Các tai nạn tàu thuyền thường gặp là do các tàu đâm va nhau, đâm vào đá ngầm, đâm vào cầu cảng, mắc cạn, … đặc biệt khi xảy ra bão, xoáy lốc, gió lớn. Theo ước tính trung bình có khoảng 400.000 tấn dầu/năm đổ xuống sông, biển do tai nạn tàu thuyền, sự cố dàn khoan dầu khí trên biển. Theo Hiệp hội Công nghiệp dầu khí và bảo vệ môi trường quốc tế (IPECA), những năm nửa cuối thế kỷ XX đến nay có trung bình 1-3 vụ tràn dầu siêu lớn/năm xảy ra trên biển (có lượng dầu tràn ≥ 100.000 thùng/vụ, 1 thùng ≈ 160 lít). + Các vụ rò rỉ và tràn dầu đã được cục môi trường thống kê bằng tài liệu kể từ năm 1989. Vụ nghiêm trọng nhất cho tới nay xảy ra hồi tháng 10 năm 1994. Tàu chở dầu của Singapore đã đâm vào cầu tầu ở cảng Cát Lái trên sông Sài Gòn gần thành phố Hồ Chí Minh làm tràn ra hơn 1.700 tấn dầu gasoil. + Tháng 09/2001 tàu chở dầu FORMOSA va chạm với tàu chở dầu ONE Petrolimex-1 ở vịnh Gành Rái, thành phố Vũng Tàu, làm đổ 750 tấn DO. + 18 giờ 30 ngày 12-1-2002 tàu Fortune Freighter đâm va với xà lan chở 500 tấn dầu của Tỉnh đội An Giang tại khu vực Cảng contena quốc tế trên sông Sài Gòn, làm hàng trăm tấn dầu bị tràn ra ngoài. Tuy được hỗ trợ của các cơ quan ứng cứu sự cố dầu tràn quốc gia nhưng ảnh hưởng của sự cố đến môi trường không nhỏ. + 11 giờ ngày 20-3-2003 tàu Hoàng Anh chở 600 tấn dầu DO bị chìm tại phao số 8 vụng Vũng Tàu, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nuôi trồng thủy sản ở khu vực. + Tàu chở dầu KASCO Monrovia va chạm với Cát Lái Jetty, trên song Sài Gòn- HCM vào tháng 01/2005, làm tràn 518 tấn DO. + Ngoài ra còn hàng chục vụ tai nạn làm tràn dầu trong 10 năm qua ở Việt Nam gây ô nhiễm nghiêm trọng. Dưới đây là thống kê lượng dầu tràn gây ô nhiễm biển Việt Nam qua các giai đoạn. Biểu đồ 2. Lượng dầu tràn gây ô nhiễm biển Việt Nam qua các năm. Nguồn: Bộ tài nguyên và môi trường Từ năm 1987 đến năm 2008, có hơn 90 vụ tràn dầu trên vùng biển qua 20 tỉnh từ đảo Bạch Long Vĩ xuống tới Cà Mau, gây tổn thất lớn về sinh thái và kinh tế xã hội. Giao thông vận tải trên biển gây ô nhiễm dầu Ngoài chất thải sinh hoạt và rác thải rắn thì dầu mỡ và các sản phẩm từ dầu mỏ là nguồn gây ô nhiễm được quan tâm nhiều nhất, vì với 1 tấn dầu có khả năng loang phủ trên một diện tích 12 km2 mặt nước gây thiếu ôxy nghiêm trọng cho hệ sinh thái dưới đáy biển và trên mặt biển, ven bờ. Những nguyên nhân chính gây nhiễm bẩn nước do dầu và các sản phẩm dầu là: các tai nạn do va chạm hoặc do mắc cạn của tàu thuỷ nói chung và các tàu dầu nói riêng; việc xả cặn dầu, nước dằn tàu lẫn