Nhà ở là nhu cầu thiết yếu của mọi người dân trong xã hội, là
vấn đề quốc kế dân sinh .Việc giải quyết chỗ ở được nhân dân coi như là
điều kiện tiên quyết cho việc thành công trong đường đời, sự nghiệp của
mỗi cá nhân và là một việc lớn trong đời của một con người.Vì thế các
nước trên thế giới đều có chính sách phát triển nhà ở .Đối với nước ta
Đảng và Nhà nước cũng rất quan tâm đến nhà ở cho người dân .Điều 62
Hiến pháp năm 1992 có ghi :”Công dân có quyền có nhà ở, Nhà nước
mở rộng việc xây dựng nhà ở đồng thời khuyến khích, giúp đỡ tập thể,
công dân xây dựng nhà ở theo quy hoạch chung nhằm thực hiện quyền
đó. “.
Khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước do kết quả của các hoạt động kinh
tế, tốc độ đô thị hoá ngày càng nhanh, việc di dân tự do vào các đô thị
lớn .đã làm cho các vấn đề kinh tế xã hội trở lên bức xúc , bộc lộ
nhiều vấn đề cần giải quyết, đặc biệt là vấn đề nhà ở đôthị trong thế kỷ
XXI.
Bài viết có sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp
thống kê, tổng hợp đánh giá số liệu.Với phương pháp này việc nghiên
cứu “Thực trạng và giải pháp phát triển nhà ở đô thị nước ta” sẽ được
xem xét trong mối quan hệ tác động qua lại giữa lý luận và thực tiễn, từ
đó có thể đề ra giải pháp khắc phục những tồn tại.
Trong điều kiện của bài viết này, với vốn kiến thức và thời
gian có hạn khó có thể có một cách nhìn tổng quát và đầy đủ về nhà ở
đô thị nước ta. Bài viết được hoàn thành với sự hướng dẫn chính của
TS.Hoàng Cườngvà các thầy cô giáo giảng dạy ở Trung tâm đào tạo
địa chính và kinh doanh bất động sản.
30 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4032 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp phát triển nhà ở đô thị nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề Tài:
Thực trạng và giải pháp
phát triển nhà ở đô thị nước ta
§Ò ¸n chuyªn ngµnh
Kinh tÕ vµ qu¶n lý ®Þa chÝnh
LỜI NÓI ĐẦU
Nhà ở là nhu cầu thiết yếu của mọi người dân trong xã hội, là
vấn đề quốc kế dân sinh .Việc giải quyết chỗ ở được nhân dân coi như là
điều kiện tiên quyết cho việc thành công trong đường đời, sự nghiệp của
mỗi cá nhân và là một việc lớn trong đời của một con người.Vì thế các
nước trên thế giới đều có chính sách phát triển nhà ở .Đối với nước ta
Đảng và Nhà nước cũng rất quan tâm đến nhà ở cho người dân .Điều 62
Hiến pháp năm 1992 có ghi :”Công dân có quyền có nhà ở, Nhà nước
mở rộng việc xây dựng nhà ở đồng thời khuyến khích, giúp đỡ tập thể,
công dân xây dựng nhà ở theo quy hoạch chung nhằm thực hiện quyền
đó..... “.
Khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước do kết quả của các hoạt động kinh
tế, tốc độ đô thị hoá ngày càng nhanh, việc di dân tự do vào các đô thị
lớn ....đã làm cho các vấn đề kinh tế xã hội trở lên bức xúc , bộc lộ
nhiều vấn đề cần giải quyết, đặc biệt là vấn đề nhà ở đô thị trong thế kỷ
XXI.
Bài viết có sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp
thống kê, tổng hợp đánh giá số liệu....Với phương pháp này việc nghiên
cứu “Thực trạng và giải pháp phát triển nhà ở đô thị nước ta” sẽ được
xem xét trong mối quan hệ tác động qua lại giữa lý luận và thực tiễn, từ
đó có thể đề ra giải pháp khắc phục những tồn tại.
Trong điều kiện của bài viết này, với vốn kiến thức và thời
gian có hạn khó có thể có một cách nhìn tổng quát và đầy đủ về nhà ở
đô thị nước ta. Bài viết được hoàn thành với sự hướng dẫn chính của
TS.Hoàng Cường và các thầy cô giáo giảng dạy ở Trung tâm đào tạo
địa chính và kinh doanh bất động sản.
§Ò ¸n chuyªn ngµnh
Kinh tÕ vµ qu¶n lý ®Þa chÝnh
Em xin chân thành cảm ơn và rất mong được sự đóng góp ý
kiến của thầy cô và các bạn.
I. Cơ sở lý luận của đề tài:
1. Khái niệm và đặc điểm nhà ở:
1.1.Khái niệm:
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về nhà ở tuỳ thuộc vào góc độ
nghiên cứu.
*Trên góc độ xây dựng :
Nhà ở là sản phẩm của hoạt động xây dựng và không gian bên
trong có tổ chức được ngăn cách với môi trường bên ngoài dùng để ở.
*Trên góc độ quản lý kinh tế :
Nhà ở là tài sản có giá trị đặc biệt đối với đời sống con người,
là bộ phận quan trọng bảo vệ con người trước các hiện tượng tự nhiên .
1.2.Đặc điểm nhà ở:
*Nhà ở là tài sản không thể di dời được, nó gắn liền vưới đất,
được xây dựng trên đất. Sự gắn liền với đất này chỉ vị trí của nó được
phân bố ở đâu. Mà hiện nay các giao dịch trên thị trường nhà đất đô thị
người ta quan tâm nhiều đến vị trí của nhà đất vì vị trí nhà đất có ảnh
hưởng rất lớn đến giá trị tài sản nhà đất.
*Nhà ở là một bất động sản có tính bền vững, thời gian sử
dụng dài, hao mòn chậm. Đặc điểm này có thuận lợi cho người sử dụng
nhất là đối với người có thu nhập thấp , vì họ có khả năng nâng cấp, xây
dựng mới nhà ở là rất kém. Họ có thể xây dựng một ngôi nhà có chất
lượng trung bình và sử dụng nó trong khoảng thời gian gần 20 năm mà
không phải sửa chữa lớn, trừ những duy tu bảo dưỡng nhỏ như sơn quét
vôi tường, cửa....
*Nhà ở là tài sản có giá trị lớn. So với các hàng hoá khác khi
mua sắm thì việc xây dựng nhà ở đòi hỏi một khoản vốn đầu tư lớn và
§Ò ¸n chuyªn ngµnh
Kinh tÕ vµ qu¶n lý ®Þa chÝnh
nhất là hiện nay giá nhà đất, nguyên vật liệu xây dựng ở các đô thị rất
cao.
*Nhà ở rất đa dạng, phong phú cả về số lượng và chất lượng.
Đặc điểm này một mặt là do sự đa dạng của các tầng lớp dân cư đô thị,
mặt khác là thu nhập của dân cư đô thị đã tăng lên, phong tục tập quán
truyền thống từng nơi khác nhau.
2.Ý nghĩa của nhà ở :
*Nhà ở đô thị là điều kiện vật chất trọng yếu để phát triển kinh
tế đô thị:
Môi trường cư trú, điều kiện sinh hoạt của nơi ở, nơi làm việc,
môi trường văn hoá khu vực, môi trường tự nhiên khu vực...ảnh hưởng
rất lớn tới tái sản xuất sức lao động và tác động tới tâm sinh lý của người
lao động, ảnh hưởng tới quá trình sản xuất, tới hiệu quả của nền kinh tế.
Chẳng hạn như khoảng cách giữa nơi ở và nơi làm việc có tác động rất
lớn tới lao động, đó là thể lực và trí lực, nó làm hao phí về thời gian, mà
trong thời đại ngày nay môi trường cạnh tranh khốc liệt thì thời gian làm
việc càng được sử dụng triệt để, hiệu quả.
Sự phát triển của nhà ở trực tiếp tác động đến những ngành có
liên quan đến xây dựng như ngành công nghiệp vật liêụ xây dựng, ngành
cung cấp thiết bị, máy móc xây dựng. Chất lượng và quy mô nhà ở đô thị
sẽ góp phần kích thích hay hạn chế nhu cầu của dân cư đô thị với các
loại hàng hoá như: dụng cụ gia đình, hàng điện tử điện lạnh, trang trí nội
thất. Cùng với chính sách của Nhà nước thì chất lượng và quy mô nhà ở
ảnh hưởng tới thị trường tiêu thụ sản phẩm, hệ thống Ngân hàng, phân
bố dân cư và nguồn lao động.
Nền kinh tế thị trường phát triển khi nó phát triển đồng bộ các
thị trường, trong đó thị trường bất động sản là một bộ phận. Trong khi đó
thị trường bất động sản chỉ hoạt động mạnh mẽ và diễn ra sôi nổi ở các
§Ò ¸n chuyªn ngµnh
Kinh tÕ vµ qu¶n lý ®Þa chÝnh
đô thị thị lớn. Cung- cầu và chất lượng nhà ở sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
thị trường bất động sản, điều này thể hiện ở những cơn sốt nhà đất.
*Nhà ở đô thị là điều kiện vật chất trọng yếu để tái sản xuất
sức lao động đô thị:
Lao động là điều kiện cơ bản để tiến hành sản xuất, lao động
là đầu vào của quá trình sản xuất. Chất lượng của lao động bao gồm thể
lực và trí lực ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sản xuất. Để nâng cao
chất lượng lao động thì đầu tiên là đảm bảo các điều kiện ăn, ở, mặc và
những tư liệu sinh hoạt khác. Như Ph-Ăngghen nói: “Con người trước
hết phải ăn uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới đến làm chính trị, khoa học,
nghệ thuật, tôn giáo....”(1)
Nhà ở là phương tiện quan trọng để bảo vệ con người trước
các hiện tượng tự nhiên như nắng, mưa, gió, bão, giá rét....mà còn là nơi
nuôi dưỡng , giáo dục đào tạo con người từ khi sinh ra và lớn lên, tạo
điều kiện tái sản xuất sức lao động của con người.
*Nhà ở đô thị là điều kiện vật chất ảnh hưởng tới sinh hoạt xã
hội và điều chỉnh quan hệ xã hội.
Nhà ở không những là tài sản có giá trị, có tầm quan trọng đặc
biệt đối với mỗi gia đình, mà còn là một trong những tiêu chuẩn làm
thước đo phản ánh trình độ phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia, mức
sống dân cư của một dân tộc. Một thực tế là khi nhìn vào một ngôi nhà ta
có thể biết được phong tục tập quán, đời sống vật chất tinh thần của
những người đang sống trong ngôi nhà đó.Đối tượng xã hội ngày càng
phát triển, tỷ lệ người già, người độc thân, các cặp vợ chồng mới ngày
càng tăng dẫn tới phải xây dựng những mẫu nhà, mẫu căn hộ thích hợp.
Xã hội phát triển, căn hộ đông người sẽ giảm, lối sống, tập quán của
C.Mác- Ăngghen: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, trang500.
người dân đô thị thay đổi. Sự hình thành và phát triển các khu dân cư và
quá trình phát triển đô thị luôn gắn liền với phát triển nhà ở. Đi kèm là
§Ò ¸n chuyªn ngµnh
Kinh tÕ vµ qu¶n lý ®Þa chÝnh
sự đa dạng về kiến trúc nhà ở , thể hiện ở phong cách xây dựng, vật liệu
xây dựng , thiết kế....bộc lộ quan điểm tôn giáo , nhân sinh , thẩm mỹ.
3. Cung- Cầu nhà ở:
*Cung nhà ở:
Theo các nhà kinh tế học thì lĩnh vực sản xuất nhà ở được
phân chia thành ba khu vực: khu vực Nhà nước, khu vực tư nhân và khu
vực không chính thức. Ba khu vực trên được xem như sự chuyển hoá
liên tục từ sự kiểm soát toàn bộ của Nhà nước về xây dựng nhà ở ở khu
vực Nhà nước đến việc xây dựng nhà ở do tư nhân và các doanh nghiệp
xây dựng dưới sự điều tiết của Nhà nước và đến nhà ở bất quy tắc được
xây dựng bởi các gia đình và các nhà thầu nhỏ.
-Khu vực Nhà nước: khu vực này được xem như tiêu điểm
chính của chính sách nhà ở, vì đó là khu vực mà Chính phủ có thể kiểm
soát trực tiếp. Nhà ở khu vực này chiếm tỷ lệ không lớn và phân bố
không đồng đều giữa các đô thị có quy mô và vị trí khác nhau. Khu vực
Nhà nước chỉ những đề án nhà ở được Chính phủ hoặc các xí nghiệp, cơ
quan Nhà nước trực tiếp xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách và nhà ở
có nguồn gốc sở hữu khác được chuyển thành sở hữu của Nhà nước theo
quy định của pháp luật. Nhà ở do Nhà nước cung cấp thường là loại nhà
được bao cấp, với nguồn cung cấp có hạn mà nhu cầu lại rất lớn, nên khó
tránh khỏi những bất công trong chính sách phân phối nhà ở .
-Khu vực tư nhân: Nhà ở được xây dựng bởi những cá nhân
hoặc doanh nghiệp không phải từ nguồn vốn Nhà nước, nhưng hoạt động
trong hệ thống quy tắc chính thức của Nhà nước.Khu vực này Chính phủ
ít kiểm soát được mặc dù đã được Nhà nước điều tiết. Các quy tắc mà
Nhà nước điều tiết là rất cần thiết vì lý do an ninh công cộng và bảo
đảm các tiêu chuẩn của người tiêu dùng do thiếu thông tin về thị trường
nhà ở. Những người cần nhà ở nhất chính là những người nghèo thành
thị, nhưng thị trường nhà ở tư nhân không đáp ứng sự càn nhà mà đáp
§Ò ¸n chuyªn ngµnh
Kinh tÕ vµ qu¶n lý ®Þa chÝnh
ứng nhu cầu có khả năng thanh toán.Trong thực tế, xây dựng nhà ở khu
vực tư nhân có hiệu quả hơn khu vực Nhà nước. Nhưng nếu chúng ta
buông lỏng , không điều tiết khu vực này sẽ dẫn đến khoảng cách giữa
người giàu và người nghèo tăng lên và dẫn đến sự bất bình đẳng trong xã
hội về nhà ở.
-Khu vực nhà ở không chính thức: Đây là khu vực xây dựng
nhà ở của tư nhân không theo quy tắc, hoặc nhà ở được xây dựng trên
các giá trị của cộng đồng và tự giúp đỡ lẫn nhau. Nhà ở trong khu vực
không chính thức có vô số hình thức, tuỳ thuộc vào bối cảnh kinh tế – xã
hội và thiết chế đăc thù của dân cư đô thị. Khu vực này, trên thực tế
đóng góp vào sự gia tăng quỹ nhà ở , đặc biệt đối với những tầng lớp dân
cư có thu nhập thấp.
*Cầu về nhà ở đô thị :
Tại các đô thị các đối tượng có nhu cầu nhà ở bao gồm :
-Nhà ở cho số dân tăng tự nhiên và tăng cơ học.
-Nhà ở cho những hộ chưa có nhà, đang phải ở chung, ở nhờ,
hoặc phải sống tạm bợ tại các khu ổ chuột.
-Nhà ở cho công chức và lực lượng vũ trang.
-Nhà ở nới thêm diện tích ở cho những hộ hiện đang ở quá
chật.
-Nhà ở phục vụ các đối tượng tái định cư để chỉnh trang và
xây dựng các công trình hạ tầng đô thị .
-Nhà ở cho viên chức và người lao động tại các khu công
nghiệp tập trung.
-Nhà ở cho học sinh, sinh viên.
-Nhà ở cho người nước ngoài đến làm việc hoặc kinh doanh.
-Nhà ở phục vụ các nhu cầu khác.
§Ò ¸n chuyªn ngµnh
Kinh tÕ vµ qu¶n lý ®Þa chÝnh
Nhu cầu nhà ở tại các đô thị rất đa dạng vì dân cư đô thị làm
nhiều nghề khác nhau và thu nhập giữa các tầng lớp dân cư đô thị có sự
chênh lệch lớn.
4.Quản lý Nhà nước về nhà ở:
Trong pháp lệnh ngày 26-3-1991 đã quy định rõ nội dung quản
lý Nhà nước về nhà ở. Nội dung quản lý Nhà nước về nhà ở bao gồm:
*Ban hành quy chế, tiêu chuẩn quy phạm về quy hoạch, thiết kế
xây dựng, quản lý và sử dụng nhà ở:
Đây là một trong những nội dung quan trọng nhất trong quản lý
Nhà nước về nhà ở. Nhà nước thống nhất quản lý nhà ở bằng pháp luật
nhằm đảm bảo việc duy trì, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và không ngừng
phát triển quỹ nhà ở.
Trong công tác quản lý Nhà nước về nhà ở, Nhà nước cũng qy
định cụ thể về các quy chế, thủ tục, tiêu chuẩn bán nhà, khung giá cho
từng loại tại Nghị định 61/CP ngày 5-5 –1994 của Chính phủ. Đối với
những nhà chung cư cao tầng hoặc nhà ở do nhiều chủ quản lý, Bộ Xây
Dựngđã ban hành những quy chế quản lý và sử dụng riêng kèm theo
Quyết định 1127/BXD-QLN ngày 16-8-1994 của Bộ trưởng Bộ Xây
Dựng.
Bên cạnh những quy định về quản lý sử dụng nhà ở, Nhà nước
cũng cần xây dựng các chính sách thoả đáng nhằm một mặt khuyến
khích các tổ chức kinh doanh tập thể tư nhân tham gia vào quá trình xây
dựng nhà ở, nâng cao giá trị quỹ nhà ở ; mặt khác có khả năng khắc phục
những cơn sốt giả tạo về giá nhà , tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
thoả mãn nhu cầu của mình.
*Lập kế hoạch xây dựng nhà ở theo đồ án quy hoạch được
duyệt.
Lập kế hoạch xây dựng và phát triển nhà ở là một công tác
tổng hợp, phức tạp liên quan đến nhiều ngành như giao thông, thương
§Ò ¸n chuyªn ngµnh
Kinh tÕ vµ qu¶n lý ®Þa chÝnh
mại, dịch vụ... đồng thời nó gắn liền với sự nghiệp phát triển kinh tế –xã
hội của địa phương. Đây là một công tác quan trọng và cấp bách đòi hỏi
người dân phải quan tâm và nhận thức được điều này. Lập kế hoạch xây
dựng và phát triển nhà ở tốt sẽ làm tiền đề quan trọng thúc đẩy phát triển
sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống nhân dân, tạo nên
bọ mặt mới cho sự phát triển văn minh của đất nước.
*Cho phép hoặc đình chỉ việc xây dựng, cải tạo nhà ở .
Để bảo đảm nhà ở được xây dựng theo đúng quy hoạch đã được
duyệt, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của quy hoạch tổng thể của
từng địa phương khi xây dựng nhà ở cần có sự chỉ đạo, cho phép của cấp
có thẩm quyền.
*Đăng ký, điều tra, thống kê nhà ở.
Đây là một nôi dung cơ bản trong công tác quản lý Nhà nước
về nhà ở. Nó bảo đảm quyền lợi của người chủ sở hữu nhà ở trước pháp
luật và bảo đảm cho cơ quan quản lý nắm được tình hình nhà ở của địa
phương mình và lập kế hoạch phát triển nhà ở.
*Thanh tra Nhà nước, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm
pháp luật nhà ở.
Công tác thanh tra và kiểm tra là chức năng của bất cứ cấp quản
lý nào. Nó có nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định
của pháp luật về quản lý sử dụng nhà ở.
Với các nội dung trên, Nhà nước thông qua các công cụ quản lý,
các quy định mang tính pháp lý để hoạch định và chỉ đạo thực hiện chính
sách phát triển nhà ở phù hợp từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất
nước.
II.Thực trạng phát triển nhà ở đô thị và những vấn đề đặt ra:
1.Thực trạng phát triển nhà ở đô thị :
1.1.Trước thời kỳ đổi mới:
§Ò ¸n chuyªn ngµnh
Kinh tÕ vµ qu¶n lý ®Þa chÝnh
Trong giai đoạn này tuy thiết kế xây dựng còn một số nhược
điểm nhưng bằng nguồn vốn tập trung của Nhà nước, nên đã giải quyết
cơ bản chỗ ở cho đông đảo CBCNVtrên một số đô thị lớn. Tính bao cấp
tuyệt đối trong lĩnh vực nhà ở đô thị được thể hiện trong việc cấp nhà
cho thuê với khoản tiền thuê rất thấp (1% tiền lương).Do đó đã dẫn đến
không đủ kinh phí để duy tu bảo dưỡng và nâng cấp nhà ở, khiến cho
quỹ nhà ở xuống cấp nhanh chóng gây thiệt hại về kinh tế.
Thời kỳ bao cấp, Nhà nước ban hành nhiều chính sách nhà ở.
Chương trình Quốc gia về nhà ở được thực hiện nhằm cung cấp nhà ở
cho người lao động trong khu vực kinh tế Nhà nước ở các đô thị lớn như
Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh. Các chính sách như: chính
sách vốn đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng...đã góp phần
giải quyết được nhu cầu nhà ở.Song, với cách sản xuất và phân phối nhà
ở trong thời kỳ bao cấp đã tạo ra nhiều bất công giữa các ngành, cơ quan
xí nghiệp. Cùng với sự thiếu kinh nghiệm về quy hoạch, quản lý đô thị
đã dẫn đến hệ thống đường xá, điện nước, vệ sinh môi trường thấp kém .
Theo số liệu điều tra nhà ở năm 1989 cho thấy: vào thời
điểm năm 1989 tỷ lệ dân số ở một số đô thị sống trong những căn nhà
được Nhà nước xây dựng trong giai đoạn 1961- 1975 như sau:
Thành phố Hà Nội: 23,6% dân cư thành phố.
Thành phố Hải Phòng: 19,8%
Thành phố Đà Nẵng: 37%
Thành phố Hồ Chí Minh:42%
Từ năm1975 đến 1985, tỷ lệ quỹ nhà ở mới xây dựng khá cao
trong tổng quỹ nhà của nhiều đô thị lớn như Hà Nội 37,1%; Hải Phòng
43,3%; Đà Nẵng 31,8%; trong khi đó Thành phố Hồ Chí Minh lại lâm
vào tình trạng khó khăn, đình trệ trong lĩnh vực này.(2)
Tóm lại, đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX chỉ có
khoảng 30% CBCNV Nhà nước được cấp nhà, 70% còn lại phải tự lo
§Ò ¸n chuyªn ngµnh
Kinh tÕ vµ qu¶n lý ®Þa chÝnh
lấy nhà ở của mình bằng nhiều cách khác nhau hoặc phải sống trong
những điều kiện nhà ở chật hẹp, thiếu không gian.
1.2.Từ 1986 đến nay:
Từ năm 1986 đến nay, chế độ bao cấp nhà ở không còn nữa.
Nhà ở đô thị do dân tự lo, hoặc Nhà nước và nhân dân cùng làm, bộ mặt
các khu nhà thay đổi rõ rệt.Theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường,
lĩnh vực nhà ở cũng bắt đầu chuyển biến. Đến cuối 1990 diện tích nhà cả
nước ta có khoảng 500 triệu m2, trong đó tại các đô thị là 81 triệu m2,
nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước có khoảng 26 triệu m2(chủ yếu là các đô
thi). Diện tích bình quân đầu người cả nước khoảng 7m2, trong đó ở đô
thị là 5,8m2/ người. Trong những năm từ 1991-1995, các đô thị cả nước
xây dựng được 26 triệum2nhà ở. Đến cuối 1995 diện tích nhà ở đô thị
nước ta có khoảng 107 triệu m2, bình quân là 7,2 m2/người. Ước tính từ
1996-2000, các đô thị cả nước xây dựng được 40 triệu m2nhà ở. Thực tế
đến cuối 2000 cả nước có diện tích nhà ở là 147 triệu m2, bình quân là
7,7 m2/ người; trong đó Hà Nội có 9 triệu m2nhà ở , bình quân là 6,8
m2/người , Thành phố Hồ Chí Minh có 33 triệu m2 nhà ở, bình quân là
7,8 m2/người.
Trong giai đoạn này Nhà nước có nhiều văn bản xoá bỏ bao
cấp, khuyến khích nhân dân tự xây dựng nhà ở. Chính sách đầu tư nhà ở
cũng chuyển từ đầu tư có tính chất bao cấp sang chính sách tạo điều kiện
đã khơi dậy tiềm năng của nhân dân trong xây dựng nhà ở.Việc đổi mới
sản xuất nhà ở đô thị ởViệt Nam thể hiện trên hai mặt: khối lượng được
sản xuất ra và cơ cấu đa dạng của các chủ thể tham gia vào quá trình sản
xuất nhà ở .Vì vậy, trong năm 1990 tại các đô thị đã có 1/3 khối lượng
nhà ở được xây dựng bằng tiền của người dân. Năm 1992 vốn đầu tư xây
dựng nhà ở của cơ quan xí nghiệp và nhân dân gấp 2 lần vốn của Nhà
(2) Giáo trình QLNN về đất đai và nhà ở, trang 248.
§Ò ¸n chuyªn ngµnh
Kinh tÕ vµ qu¶n lý ®Þa chÝnh
nước .Đến 1994 thì 70% nhà ở là do dân tự xây dựng, tỷ lệ này có xu
hướng tăng dần. Điều này làm cho quỹ nhà ở tăng lên đáng kể cả về số
lượng và chất lượng, giải quyết được một bước nhu cầu nhà ở của dân
cư.
Tại các đô thị lớn, nhiều khu nhà ở mới đã và đang được xây
dựng theo quy hoạch với quy mô hiện đại, đồng bộ, bao gồm cả các dịch
vụ thương mại, thể thao, vui chơi giải trí và các công trình hạ tầng kỹ
thuật đúng tiêu chuẩn.Đó là khu đô thị mới Định Công, Linh Đàm, khu
làng Quốc tế Thăng Long, khu đô thị mới Trung Hoà - Nhân Chính( tại
Hà Nội ), khu đô thị mới Nam Sài Gòn, An Phú, An Khánh(tại Thành
phố Hồ Chí Minh), khu đô thị mới Cát Bi(tại Hải Phòng)....Nhiều khu tái
định cư, khu nhà ở cho người có thu nhập thấp... đã và đang được xây
dựng tại một số đô thị .Tại Thành phố Hồ Chí Minh đã giải toả được
hàng ngàn căn nhà ổ chuột , cải thiện môi trường cho thàng phố và giải
quyết nhà ở mới cho dân là một thành công lớn trong thời gian qua.
Hiện tại, hầu hết nhà ở đô thị đều xây dựng bằng vật liệu bền,
nhưng cũng còn nhiều nhà xây dựng tạm bợ. Quá nửa nhà ở đô thị có
tuổi thọ trên 50 năm cần được sửa chữa và nâng cấp. Nhiều nhà nguy
hiểm –“tháp nghiêng” đầy hiểm hoạ phải phá đi làm lại. Tại Thành phố
Hà Nội có hơn 300.000 m2 nhà hư hỏng nặng, trong đó có 44 chung cư
cao tầng bị lún lứt nguy hiểm.Tại Thành phố Hồ Chí Minh có hơn
1.000.000 m2 hư hỏng nặng, trong đó có 105 chung cư cần tháo dỡ xây
dựng mới. Nhiều hộ sống chen chúc trong một nhà thiếu tiện nghi phục
vụ tối thiểu. Cơ sở hạ tầng kém chất lượng làm cho đời sống dân cư đô
thị gặp khó khăn, môi trường bị ô nhiễm.
2.Những vấn đề đặt ra:
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc xây dựng, phát triển
nhà ở còn bộc lộ những hạn chế sau đây:
*Về phát triển nhà ở :
§Ò ¸n chuyªn ngµnh
Kinh tÕ vµ qu¶n lý ®Þa chÝnh
Quỹ nhà ở tăng lên nhưng bình quân diện tích đầu người vẫn
thấp vì dân số đô thị tăng nhanh. Tình trạng nhà ở trong các đô thị xuống
cấp nghiêm trọng. Hiện có tới hàng triệu m2nhà ở đô thị cần sửa chữa
hoặc dỡ bỏ, nhưng do nguồn vốn đầu tư của quỹ nhà ở hạn hẹp nên hàng
triệu người vẫn phải sống chật vật trong những căn nhà này. Nhìn chung
chúng ta chưa có đầy đủ quy hoạch ngắn hạn, dài hạn, và chi tiết, chưa
phân lô, chuẩn bị đất và mặt bằng cho xây dựng lâu dài.C