Thực hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến lớn từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó đã tạo ra một môi trường tốt để cho các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động, phát triển và có điều kiện để khẳng định vai trò của mình trong sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, do Việt nam trong một thời kỳ dài phát triển kinh tế theo hình thức kế hoạch hoá tập chung bao cấp nên khi chuyển sang cơ chế thị trường thì sự phát triển kinh tế gặp rất nhiều khó khăn do cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật.v.v.còn quá nghèo nàn, lạc hậu. Để giải quyết vấn đề khúc mắc đó Đảng và Nhà nước ta đã đề ra rất nhiều chủ trương đường lối sao cho sớm tạo ra được hạ tầng cơ sở vật chất, kỹ thuật phát triển để đáp ứng nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế nước ta. Dưới nhiều hình thức khác nhau trong những năm qua, Việt nam đã huy động được một khối lượng lớn vốn để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như huy động vốn trong nước, vay ưu đãi của các chính phủ và các tổ chức quốc tế nhưng hiệu quả và ưu việt hơn cả là hình thức huy động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì ở hình thức này, nước sở tại sẽ được đầu tư vốn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến, không phải lo trả nợ những khoản nợ kếch sù và sự phụ thuộc về chính trị. Trong thời gian qua ( khoảng 15 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ) Việt nam đã đạt được kết quả đáng kể tuy nhiên nếu so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì kết quả đó thật khiêm tốn. Nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) và thực tế hoạt động của hình thức này ở Việt nam nên em đã chọn đề tài: “ Thực trạng và Giải pháp thu hút FDI vào Việt nam để làm bài thu hoạch thực tập chuyên đề ( chuyên đề thực tập ). Với ý tưởng muốn góp phần nhỏ vào việc tổng kết đánh giá khách quan vai trò ảnh hưởng tác động cũng như những ý nghĩa quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với Việt nam, một trong những nước đang trong quá trình thực hiện mở cửa, mở rộng hợp tác quốc tế, hội nhập khu vực và thế giới. Đồng thời cũng muốn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần vào việc hoàn thiện chính sách để tích cực thu hút hơn nữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam trong thời gian tới.
Trong khuôn khổ chuyên đề thực tập này, ngoài phần LỜI MỞ ĐẦU, KẾT LUẬN, nội dung được kết cấu như sau:
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM
CHƯƠNG III: CÁC ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THU HÚT FDI VÀO VIỆT NAM
97 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3989 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp thu hút FDI vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến lớn từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó đã tạo ra một môi trường tốt để cho các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động, phát triển và có điều kiện để khẳng định vai trò của mình trong sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, do Việt nam trong một thời kỳ dài phát triển kinh tế theo hình thức kế hoạch hoá tập chung bao cấp nên khi chuyển sang cơ chế thị trường thì sự phát triển kinh tế gặp rất nhiều khó khăn do cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật.v.v.còn quá nghèo nàn, lạc hậu. Để giải quyết vấn đề khúc mắc đó Đảng và Nhà nước ta đã đề ra rất nhiều chủ trương đường lối sao cho sớm tạo ra được hạ tầng cơ sở vật chất, kỹ thuật phát triển để đáp ứng nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế nước ta. Dưới nhiều hình thức khác nhau trong những năm qua, Việt nam đã huy động được một khối lượng lớn vốn để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như huy động vốn trong nước, vay ưu đãi của các chính phủ và các tổ chức quốc tế nhưng hiệu quả và ưu việt hơn cả là hình thức huy động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì ở hình thức này, nước sở tại sẽ được đầu tư vốn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến, không phải lo trả nợ những khoản nợ kếch sù và sự phụ thuộc về chính trị. Trong thời gian qua ( khoảng 15 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ) Việt nam đã đạt được kết quả đáng kể tuy nhiên nếu so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì kết quả đó thật khiêm tốn. Nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) và thực tế hoạt động của hình thức này ở Việt nam nên em đã chọn đề tài: “ Thực trạng và Giải pháp thu hút FDI vào Việt nam ’’ để làm bài thu hoạch thực tập chuyên đề ( chuyên đề thực tập ). Với ý tưởng muốn góp phần nhỏ vào việc tổng kết đánh giá khách quan vai trò ảnh hưởng tác động cũng như những ý nghĩa quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với Việt nam, một trong những nước đang trong quá trình thực hiện mở cửa, mở rộng hợp tác quốc tế, hội nhập khu vực và thế giới. Đồng thời cũng muốn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần vào việc hoàn thiện chính sách để tích cực thu hút hơn nữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam trong thời gian tới.
Trong khuôn khổ chuyên đề thực tập này, ngoài phần lời mở đầu, kết luận, nội dung được kết cấu như sau:
chương I: lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
chương II: thực trạng của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam
chương III: các định hướng và giải pháp thu hút FDI vào Việt nam
Chương 1
lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
I. Lịch sử hình thành
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện và phát triển cùng với sự ra đời và bành trướng của chủ nghĩa tư bản. Các công ty của Anh, Hà lan, tây Ban Nha và Bồ đào nha đã tiên phong trong lĩnh vực này dưới hình thức đầu tư vốn và kỹ thuật vào các nước thuộc địa để khai thác tài nguyên (nông, lâm, sản, hải và thuỷ sản) nhằm cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp ở chính quốc. Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cùng với sự lớn mạnh của nền kinh tế các nước Pháp, Đức, Mỹ.. .sức phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa.
Trong thế kỷ XIX, do quá tình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh mẽ, các nước công nghiệp phát triển lúc bấy giờ đã tích luỹ được những khoản tư bản khổng lồ, đó là tiền đề quan trọng đầu tiên cho xuất khẩu tư bản. Lê nin trong tác phẩm “ Chủ nghĩa đế quốc , giai đoạn tột cùng của chủ nghiã tư bản” nhận định việc xuất khẩu tư bản nói chung đã trở thành đặc trưng cơ bản của sự phát triển mới nhất về kinh tế trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là “ tư bản thừa” xuất hiện trong các nước tiên tiến. Nhưng thực chất của vấn đề này là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung tư bản đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu câù đầu tư tư bản ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội đã đến độ vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia để hình thành nên quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế.
Thông thường ở các nước công nghiệp phát triển, việc đầu tư ở trong nước không còn mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà tư bản vì lợi thế so sánh ở trong nước không còn nữa. Để gia tăng lợi nhuận, các nhà tư bản ở các nước tiên tiến đã thực hiện đầu tư ra nước ngoài, thường là vào các nước tiên tiến đã thực hiện đầu tư ra nước ngoài, thường là vào các nước lạc hậu hơn. Sở dĩ như vậy là vì trong các nước lạc hậu, tư bản vẫn còn ít, giá đất đai tương đối thấp, tiền thuê nhân công thấp, nguyên liệu rẻ. Mặt khác các công ty tư bản lớn đang cần nguồn nguyên liệu và các tài nguyên thiên nhiên khác đảm bảo cung cấp ổn định và đáng tin cậy cho việc sản xuất của họ. Điều này một mặt tạo điều kiện cho các công ty lớn thu lợi nhuận cao, một mặt giúp họ đảm bảo được vị trí độc quyền.
Thêm vào đó dưới tác động của nhiều nhân tố, đặc biệt là sự phát triển của khoa học công nghệ, các chính sách bảo hộ mậu dịch và khả năng mở rộng thị trường của các nước đang phát triển và các nền công nghiệp mới, không gian kinh tế cho các dòng di chuyển vồn đầu tư ngày càng mở rộng dưới sự chi phối của quy luật kinh tế về lợi thế so sánh ( tương đối và tuyệt đối ). Bản chất của vấn đề là sự phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định bởi những quy luật kinh tế khách quan với những điều kiện cần và đủ nhất định. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong số những mặt biểu hiện bên ngoài cuả quá trình phân công lao động quốc tế.
II. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Cùng với việc mở rộng và đa dạng hoá các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước ta. Trong những năm vừa qua, kể từ khi Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được thừa nhận như là một giải pháp quan trọng góp phần thúc đẩy sụ phát triển nội sinh của nền kinh tế đất nước.
Để hiểu được khái niệm đẩu tư trực tiếp nước ngoài phải hiểu :
Đầu tư là một bộ phận cấu thành nên tổng cầu. Trong kinh tế học vĩ mô, thuật ngữ “ đầu tư ” có ý nghĩa là sự bổ sung vào tư liệu sản xuất hàng hoá vốn ( trang thiết bị, nhà xưởng, hay hàng hoá vật lưu kho ) hoặc sản xuất hàng hoá dự trữ. Nói cách khác, đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu hút về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó ( Các nguồn lực có thể tiền, tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ .. .)
Hoạt động đầu tư là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn lực phục vụ sản xuất, kinh doanh nhằm sản xuất ra sản phẩm hay cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội. Đối với nền kinh tế nói chung, toàn bộ việc đầu tư được tiến hành ở một thời kỳ nhất định là nhân tố cơ bản duy trì và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, giải quyết công ăn việc làm, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế trong thời kỳ tiếp theo. Xét về lâu dài, khối lượng đầu tư của ngày hôm nay sẽ quyết định dung lượng sản xuất, tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức độ cải thiện đời sống trong tương lai.
Đầu tư quốc tế là hình thức đầu tư các nguồn lực ở nước ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với các mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục đích kinh tế xã hội. Về bản chất, đầu tư quốc tế là hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ sung và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của các công ty, các tập đoàn nước ngoài hiện nay. Nhiều trường hợp, việc buôn bán hàng hoá ở nước sở tại là bước đi tìm hiểu thị trường, luật lệ để đi đến sở tại là điều kiện xuất khẩu máy móc, vật tư, nguyên vật liệu và khai thác tài nguyên của nước chủ nhà. Cùng với hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, hợp thành những dòng chính trong trào lưu có tính quy luật trong liên kết kinh tế toàn cầu hiện nay.
Đầu tư quốc tế theo cách truyền thống thường có hai hình thức chủ yếu đó là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. “Một đầu tư được coi là đầu tư trực tiếp khi phần sở hữu của nhà đầu tư đủ để cho phép kiểm soát công ty trong khi đầu tư mà cho nhà đầu tư khoản thu nhập nhưng không cho quyền kiểm soát công ty nói chung là đầu tư gián tiếp nước ngoài”. (UNCTAD 1999 Phạm vi và định nghĩa LHQ New York & geneva Tr.7).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại mà mình đã bỏ vốn tại nước sở tại. Hay nói cách khác, FDI là một loại hình thức di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có thể được xem xét theo các khía cạnh sau:
1.Về mặt kinh tế
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư quốc tế được đặc trưng bởi quá trình di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác. Nhìn chung ở các nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là một hoạt động kinh doanh, một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Nhân tố nước ngoài ở đây, không chỉ được thể hiện ở sự khác biệt về quốc tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vàhoặc quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở việc di chuyển tư bản bắt buộc phải vượt ra khỏi tầm kiểm soát của một quốc gia. Việc di chuyển tư bản này là nhằm phục vụ mục đích kinh doanh tại nước nhận đầu tư và việc kinh doanh đó do chính các chủ đầu tư thực hiện hoặc kết hợp với chủ đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư thực hiện. Như vậy, hai điều kiện cơ bản cuả đầu tư trực tiếp nước ngoài là : có sự di chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư ( pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
2. Về mặt pháp lý
Hiện nay quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài diễn ra tại hầu hết các nước trên thế giới. Nên khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một khái niệm phổ biến, được ghi nhận trong các đạo luật như : Luật khuyến khích đầu tư của Thái Lan ( đầu tư nói chung), luật khuyến khích đầu tư của Hàn quốc ( cho từng ngành) , luật đầu tư nước ngoài của Inđônêxia, Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam ( đầu tư trực tiếp )...
Theo luật đầu tư nước ngoài của Inđônêxia, đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhằm mục đích thực hiện kinh doanh tại Inđônêxia, với điều kiện người chủ sở hữu vốn, phải trực tiếp gánh chịu rủi ro của người đầu tư. Do đó, cần phải chỉ ra khả năng vốn nước ngoài được sử dụng trong một doanh nghiệp có hợp tác với vốn trong nước. Vốn nước ngoài không chỉ là ngoại tệ mà bao gồm cả các tài sản cố định cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp.
Đối với xuất khẩu tư bản, đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như việc di chuyển tư bản ra nước ngoài nhắm thiết lập ở đó những hoạt động kinh doanh nhất định để thu lợ nhuận. Còn đối với nước tiếp nhận đầu tư nó lại là việc tiếp nhận vốn của người nước ngoài để cho phép chủ đầu tư nước ngoài tổ chức các hoạt động kinh doanh theo những hình thức mà pháp luật quy định.
Như vậy, dù nhìn nhận dưới góc độ nào đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đều là hoạt động kinh doanh quốc tế dựa trên cơ sở của quá trình di chuyển tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu do các pháp nhân và thể nhân thực hiện theo những hình thức nhất định và trong đó chủ đầu tư tham gia trực tiếp vào quá trình đầu tư.
ở Việt Nam, các văn bản pháp luật đầu tiên về đầu tư trực tiếp nước ngoài là điều lệ về đầu tư nước ngoài ( ban hành kèm theo nghị định số 115/CP ngày 18-04-1977 ). Điều lệ này không nên định nghĩa cụ thể về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng trong tư tưởng của các quy phạm thì khaí niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như khái niệm được ghi nhận sau này trong luật đầu tư trực tiếp nước ngoài 1987: “ đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đầu tư vào Việt nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh, hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài ”. ( khoản 3 điều 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam ).
Như vậy về mặt pháp lý, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài được đề cập trong pháp luật của các quốc gia chỉ giới hạn phạm vi nhìn nhận về đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới con mắt của nước tiếp nhận đầu tư.
Để hiểu rõ hơn khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài, việc so sánh đầu tư trực tiếp nước ngoài với đầu tư gián tiếp nước ngoài và các quan hệ thương mại thông thường có yếu tố nước ngoài là hết sức cần thiết.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là chủ đầu tư trực tiếp kinh doanh ( sử dụng và quản lý vốn đầu tư vào mục đích kinh doanh ), còn đầu tư gián tiếp thì ngược lại, chủ đầu tư không trực tiếp quản lý và sử dụng vốn. Việc quản lý và sử dụng vốn trong đầu tư gián tiếp được thực hiện theo một cơ chế khác.
Sự khác biệt về chủ thể đầu tư được thể hiện ở chỗ trong đầu tư gián tiếp, chủ thể chủ yếu là các quốc gia và các tổ chức quốc tế. Trong khi đó, chủ thể chủ yếu thực hiện các hoạt động đầu tư trực tiếp là các pháp nhân và thể nhân. Về mặt mục đích đầu tư quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài là quan hệ kinh doanh theo cơ chế thị trường nên lợi nhuận là mục tiêu cao nhất và là mục tiêu cuối cùng của các chủ đầu tư. Còn trong đầu tư gián tiếp, kinh doanh và lợi nhuận không phải là mục tiêu trực tiếp của chủ đầu tư, bởi quan hệ này không phải là quan hệ kinh doanh một cách thuần tuý. Quá trình đầu tư gián tiếp thường được diễn ra dưới hình thức cho vay với lãi xuất ưu đãi hoặc viện trợ không hoàn lại. Về tính chất của đầu tư quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài là quan hệ có mục đích kinh doanh nên nó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường, ít chịu ảnh hưởng của các quan hệ chính trị. Vì vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài không thể biến nước tiếp nhận đầu tư thành con nợ của nước có tư bản xuất khẩu qua đầu tư trực tiếp. Còn quan hệ đầu tư gián tiếp là quan hệ mang màu sắc chính trị, ảnh hưởng bởi quan hệ giữa các quốc gia, ít chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế. Trong đầu tư gián tiếp, quan hệ cho vay ưu đãi là quan hệ phổ biến. Như vậy đầu tư gián tiếp biến nước tiếp nhận đầu tư thành con nợ của nước hay tổ chức quốc tế đã xuất khẩu tư bản qua đầu tư gián tiếp. Hơn nữa, nước tiếp nhận đầu tư gián tiếp không chỉ bị biến thành con nợ mà còn phải đảm bảo một số điều kiện khác mang tính chính trị. Báo cáo của Bộ Kế hoạch và đầu tư, tháng 3/1996 đã đề cập “ Bên cạnh những thuận lợi to lớn ở trong nước và quốc tế đối với việc thu hút và sử dụng ODA, chúng ta còn nhiều khó khăn và thách thức. ODA trên thế giới là nguồn vốn có hạn lại có sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước đang phát triển. ODA và chính trị đi liền với nhau, các nước cung cấp ODA thường hay gắn các điều kiện để mưu tìm lợi ích kinh tế hoặc chính trị. Phần lớn ODA là vốn vay, tuy có phần ưu đãi , song phải trả nợ nếu không tính toán đúng đắn sẽ có nguy cơ mắc phải nợ nần” .
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng khác xa các quan hệ thương mại thông thường như quan hệ nhập khẩu, vay thương mại, gia công hàng hoá... Bởi lẽ, vì bản chất đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc di chuyển Tư Bản từ nước này sang nước khác để kinh doanh và chủ đầu tư không bị tách rời khỏi vốn đầu tư ( quản lý và sử dụng vốn đầu tư , hưởng lợi nhận thu được và phải chịu rủi ro trực tiếp, nếu có). Các quan hệ này chịu sự điều chỉnh của pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài . Còn các quan hệ thương mại thông thường là các quan hệ thương mại trao đổi hàng – tiền giữa các chủ thể trong từng việc cụ thể, dù có sự chuyển dịch hàng – tiền quan biên giới nhưng không kéo theo sự quản lý của chủ sở hữu và sự chuyển giao quyền quản lý và chịu trách nhiệm gánh chịu rủi ro với đối tượng chuyển giao. Các quan hệ này chịu sự điều chỉnh của pháp luật về thương mại.
Có thể nói, trong pháp luật của các nước, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện dưới sự nhìn nhận bằng con mắt của nước tiếp nhận đầu tư . Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phát sinh từ các quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài , các quan hệ này đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư . Vì vậy, họ đã ban hành ra những quy phạm pháp luật để điều chỉnh nhằm tạo cơ sở pháp lý cho sự phát sinh, phát triển của quan hệ này theo hướng có lợi cho mình. Tổng thể các quy phạm pháp luật nói trên hợp thành pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài . Nói cách khác, pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh những mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài . Đây là khái niệm pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài của bất cứ nước tiếp nhận đầu tư nào.
III. Đặc điểm và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài .
1. Đặc điểm.
Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư , tự quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi . Hình thức này mang tính khả thi cao, không có những ràng buộc về chính trị , không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế nước sở tại.
Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh hay hợp đồng - hợp tác - kinh doanh theo tỷ lệ góp vốn của mình và quy định của nước sở tại.
Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết qủa hoạt độnh kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn vào vốn pháp định hay theo thoả thuận giữa các bên.
Thông qua FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý... là các mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không thể giải quyết được.
Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn pháp định mà chủ đầu tư đóng góp, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án.
FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
2 Vai trò.
Thực tiễn hoạt động đầu tư trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hét sức to lớn đối với nước tiếp nhận đầu tư , đặc biệt là những nước đang phát triển.
Ngày nay, do vai trò quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài nên các nước đang phát triển và cả các nước phát triển đều ra sức cạnh tranh để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài .
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò là một nguồn cung cấp vốnlớn, góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư - một căn bệnh kinh niên và phổ biến của bất kỳ quốc gia chậm phát triển nào. Với một nguồn vốn lớn, đầu tư trực tiếp nước ngoài 14 năm qua đã đóng góp quan trọng cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước thể hiện: vốn đầu tư nước ngoài trong các năm 1991 - 1995 chiếm 25,7% và từ năm 1996 đến nay chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư xã hội, đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và bù đắp quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng lai, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vào GDP tăng nhanh qua các năm từ 2% năm 1992, đến 6,3% năm 1995 và 12,7% năm 2000. Giá trị sản xuất của khu vực đầu tư nước ngoài trong tổng giá trị xuất khẩu công nghiệp 9,6% năm 1990, lên 25,1% năm 1995 và 35,5% năm 2000. Nguồn thu ngân sách Nhà nước từ khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài liên tục tăng: Năm 1994 đạt 128 triệu USD , đến 1998 đạt 370 triệu USD ( chiếm 6-7% tổng thu ngân sách Nhà nước) nếu tính cả dầu khí thì tỷ lệ này đạt 20%, tính đến hết năm 2000 thì ngành kinh tế có vốn đầu tư