Trong chương 5 chúng ta phản ánh một trạng thái cân bằng thương mại tự do với một trạng thái cân bằng tự cung tự cấp, trong đó một quốc gia không thể đạt 2 trạng thái cân bằng thương mại cùng một lúc.Cả hai trạng thái cân bằng đó, hầu như chưa từng nghe thấy trong thực tế.Thay vào đó, khi một quốc gia không tham gia vào thương mại, chính phủ của quốc gia đó sẽ dựng lên các rào cản khác nhau để hạn chế thương mại. Những rào cản phổ biến nhất là các loại thuế nhập khẩu đánh vào hàng hoá nước ngoài.Các khoản thuế này thường được gọi là thuế quan,chỉ đơn giản là một hình thức đánh thuế hàng hóa. Thuế quan đôi khi đánh vào hàng xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Ví dụ như trường hợp xuất khẩu khí đốt tự nhiên của Canada sang Hoa Kỳ. Ngoài ra còn có những hình thức khác của chính sách hạn chế thương mại nhưng trong chương này chỉ tập trung vào thuế. Các rào cản khác, chẳng hạn như hạn ngạch nhập khẩu, sẽ được thảo luận trong chương sau, và chúng tôi sẽ dành lại cho đến Chương 19 để đề cập chi tiết về lý do tại sao các chính sách đó được đưa vào sử dụng bởi các chính phủ.
Bây giờ, chúng ta thiết lập hai lý do quan trọng mà các chính phủ có thể dựa vào đó để đánh thuế thương mại. Lý do thứ nhất, rất quan trọng là bảo vệ các hoạt động của ngành công nghiệp trong nước cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Ví dụ như tham gia vào khuôn khổ Heckscher-Ohlin, chúng ta sẽ hạn chế nhập khẩu thay vào đó là những yêu cầu cao hơn trong các lĩnh vực chuyên sâu của một nền kinh tế có các yếu tố khan hiếm. Hình thức cực đoan nhất của thuế quan bảo hộ sẽ là loại bỏ thuế nhập khẩu. Chúng tôi gọi đây là thuế quan cấm. Lý do thứ hai là để nâng cao nguồn thu cho chính phủ. Cách thức này phổ biến ở những nước đang phát triển, nơi việc thu thuế thương mại tại biên giới dễ dàng hơn việc xây dựng các loại thuế thu nhập trên diện rộng. Thật vậy, nhiều nhà xuất khẩu các sản phẩm thông thường bị đánh thuế xuất khẩu để tăng nguồn thu của nhà nước. Tuy nhiên, các loại thuế thương mại tương đối không quan trọng đối với nguồn thu cho việc phát triển kinh tế .
35 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2003 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thương mại quốc tế lý thuyết và dẫn chứng - Chương 15: Thuế quan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I. BẢN DỊCH GỐC
15.1: GIỚI THIỆU...................................................................................................................................3
15.2: TỔN THẤT PHÚC LỢI TỪ THUẾ QUAN................................................................................3
15.3:THUẾ QUAN, CÁC LOẠI THUẾ VÀ SỰ BIẾN DẠNG THUẾ................................................5
15.4: QUYỀN LỰC DỊCH VỤ ĐỘC QUYỀN......................................................................................9
15.5: MỨC THUẾ TỐI ƯU VÀ SỰ TRÃ ĐŨA.................................................................................11
15.6 : HIỆU QUẢ BẢO VỆ...................................................................................................................13
15.7: LÃI KINH DOANH VỚI NHIỀU HÀNG HÓA, THUẾ THƯƠNG MẠI VÀ TRỢ CẤP....16
15.8: KẾT LUẬN...................................................................................................................................18
Tài liệu tham khảo.................................................................................................................................21
II. BẢN TÓM TẮT...................................................................................................................................22
15.1: GIỚI THIỆU
Trong chương 5 chúng ta phản ánh một trạng thái cân bằng thương mại tự do với một trạng thái cân bằng tự cung tự cấp, trong đó một quốc gia không thể đạt 2 trạng thái cân bằng thương mại cùng một lúc.Cả hai trạng thái cân bằng đó, hầu như chưa từng nghe thấy trong thực tế.Thay vào đó, khi một quốc gia không tham gia vào thương mại, chính phủ của quốc gia đó sẽ dựng lên các rào cản khác nhau để hạn chế thương mại. Những rào cản phổ biến nhất là các loại thuế nhập khẩu đánh vào hàng hoá nước ngoài.Các khoản thuế này thường được gọi là thuế quan,chỉ đơn giản là một hình thức đánh thuế hàng hóa. Thuế quan đôi khi đánh vào hàng xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Ví dụ như trường hợp xuất khẩu khí đốt tự nhiên của Canada sang Hoa Kỳ. Ngoài ra còn có những hình thức khác của chính sách hạn chế thương mại nhưng trong chương này chỉ tập trung vào thuế. Các rào cản khác, chẳng hạn như hạn ngạch nhập khẩu, sẽ được thảo luận trong chương sau, và chúng tôi sẽ dành lại cho đến Chương 19 để đề cập chi tiết về lý do tại sao các chính sách đó được đưa vào sử dụng bởi các chính phủ.
Bây giờ, chúng ta thiết lập hai lý do quan trọng mà các chính phủ có thể dựa vào đó để đánh thuế thương mại. Lý do thứ nhất, rất quan trọng là bảo vệ các hoạt động của ngành công nghiệp trong nước cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Ví dụ như tham gia vào khuôn khổ Heckscher-Ohlin, chúng ta sẽ hạn chế nhập khẩu thay vào đó là những yêu cầu cao hơn trong các lĩnh vực chuyên sâu của một nền kinh tế có các yếu tố khan hiếm. Hình thức cực đoan nhất của thuế quan bảo hộ sẽ là loại bỏ thuế nhập khẩu. Chúng tôi gọi đây là thuế quan cấm. Lý do thứ hai là để nâng cao nguồn thu cho chính phủ. Cách thức này phổ biến ở những nước đang phát triển, nơi việc thu thuế thương mại tại biên giới dễ dàng hơn việc xây dựng các loại thuế thu nhập trên diện rộng. Thật vậy, nhiều nhà xuất khẩu các sản phẩm thông thường bị đánh thuế xuất khẩu để tăng nguồn thu của nhà nước. Tuy nhiên, các loại thuế thương mại tương đối không quan trọng đối với nguồn thu cho việc phát triển kinh tế .
15.2: TỔN THẤT PHÚC LỢI TỪ THUẾ QUAN
Trong phần này chúng tôi tập trung vào nền kinh tế nhỏ phải đối mặt với tỷ lệ giá cố định thế giới.Đó là, các nước có thể giao thương ít hay nhiều tuỳ thích tại mức giá cố định thế giới là p*. Trong trường hợp này, mức thuế sẽ ảnh hưởng đến giá cân bằng giữa cung và cầu trong nước, nhưng chúng sẽ không ảnh hưởng đến p*. Ta cũng giả sử rằng mô hình lợi thế so sánh giống như việc một nước xuất khẩu hàng hoá Y nhập khẩu hàng hoá X. Chính phủ sẽ đánh thuế theo giá hàng trên từng đơn vị mà X nhập khẩu vào trong nước. Vì p* là cố định, giá trong nước của X sẽ tăng do tăng thuế. Cho p=px/py là tỷ lệ giá trong nước. Vì không đánh thuế xuất khẩu, mối quan hệ giữa tỷ lệ giá trong nước và tỷ lệ giá thế giới sẽ theo công thức sau: px = py(l + t) và py = p* hoặc px = p* (l + t). Do đánh thuế nhập khẩu vào hàng hoá X nên tỷ lệ giá trong nước sẽ lớn hơn tỷ lệ giá thế giới (p > p *).
Đó là giá nội địa bị bóp méo bởi chính sách thuế quan, thay vì giá thế giới mà người tiêu dùng có thể chi trả và người sản xuất nhận được. Tất nhiên,việc kinh doanh thương mại vẫn còn phải được cân đối theo giá thế giới, bởi vì p* vẫn là giá mà một nước giao dịch với các nước khác trên thế giới. Thực tế này cho chúng ta điều kiện cân bằng được tóm tắt như sau:
MRS=MRT=p=p*(1+t)>p* (15.1)
px*(Xc - Xp)+ py*(Yc - Yp)=0 hoặc p = (Yc – Yp)/(Xp - Xc) (15.2)
Chỉ số p và с biểu thị số lượng của một hàng hóa được sản xuất và tiêu thụ, tương ứng với mỗi loại hàng hoá X và Y. Trong phương trình (15.1), người tiêu dùng và sản xuất trong nước sẽ tương đương với MRS tiêu thụ nội địa và MRT sản xuất nội địa cùng với giá nội địa,giá này sẽ lớn hơn giá thế giới. Như vậy, ở trạng thái cân bằng sau thuế quan, các độ dốc của đường bàng quan cộng đồng và đường biên sản xuất sẽ bằng nhau, nhưng lớn hơn độ dốc của giá thế giới. Phương trình (15.2) yêu cầu rằng các điểm sản xuất trong nước và tiêu thụ phải được liên hệ với giá thế giới.
Mô hình 15.1: Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu
Y
X
Những điều kiện cân bằng có nghĩa là với mức cân bằng thuế quan đã nêu phải như hình 15.1. Trong sơ đồ đó, A chỉ trạng thái cân bằng tự cung tự cấp, trong khi Cf và Qf chỉ các điểm thương mại tự do tiêu thụ và sản xuất tương ứng. Một mức thuế suất nhập khẩu của X sẽ cho kết quả sản xuất tại một điểm như Qt và kết quả tiêu thụ tại một điểm như Ct. Điểm Qt và Ct được liên kết bởi giá thế giới theo quy định của cán cân thanh toán hạn chế (Eq . (15,2)). Điểm Qt ,và Ct cũng đáp ứng (Eq.(15,1)) trong đó chúng ta có MRS - MRT> p *.
Một số đặc điểm cân bằng sau thuế rõ ràng từ hình. (15.1) Đầu tiên, mức thuế quan sau phúc lợi (Ut) thấp hơn mức thương mại tự do (Uf), nhưng cao hơn mức tự cung tự cấp (Ua). Vì vậy, thuế suất dẫn đến một sự mất mát phúc lợi liên quan đến thương mại tự do nhưng chắc chắn không liên quan đến tự cung tự cấp. Thứ hai, thuế quan là nguyên nhân sản xuất di chuyển từ điểm tự do thương mại (Qf) trở lại về phía các điểm tự cung tự cấp (A). Thứ ba, việc giảm thuế quan nhập khẩu cũng gây ra sự suy giảm khối lượng xuất khẩu, mà phải đúng trong trường hợp không có bất kỳ sự thay đổi trong giá thế giới. Các tam giác thương mại mới là QtVCt . Cuối cùng, bởi vì xuất khẩu của VQt đơn vị của Y có giá trị VZ đơn vị của X với giá trong nước mà VCt với giá thế giới, các số ZCt mô tả nguồn thu thuế, được đo theo đơn vị nhập khẩu X. Chúng tôi giả thiết rằng chính phủ đã giảm nguồn thu từ người dân trong một thời kì, cho phép họ đạt được trạng thái cân bằng tiêu thụ tại điểm Ct.
Những tác động vào phúc lợi, sản xuất và thương mại cho thấy tác dụng thiết yếu của thuế, để chuyển quốc gia từ thương mại tự do theo hướng tự cung tự cấp. Quốc gia sẽ có ít lợi ích hơn nhưng nó có một lợi thế so sánh và có thể bỏ qua một số các lợi ích từ thương mại. Thật vậy, thực tế là thu nhập quốc dân giảm từ ОNf đến ONt . Nếu thuế quan đều tăng liên tục, cuối cùng quốc gia sẽ không được lợi trong việc nhập khẩu bất kỳ hàng hoá X nào như trong hình (15.1) và sẽ định hướng quay trở lại trạng thái cân bằng tự cung tự cấp tại A. Như chúng ta đã đề cập, thuế quan này được gọi là một thuế quan cấm.
Thuế quan sẽ hướng sự chuyển động này đi về phía tự cung tự cấp do giá trong nước sai lệch và bởi vì người sản xuất và người tiêu dùng trong nước phản ứng với giá trong nước, bằng cách làm sai lệch quyết định trong nước. Bằng cách tăng giá của X, thuế quan dường như làm cho X có giá trị hơn thực tế và do đó khuyến khích sản xuất trong nước để sản xuất nó nhiều hơn .Nguồn lực được chuyển sang từ các mô hình thật của các lợi thế so sánh của sự sai lệch này, vì vậy lợi ích từ chuyên môn bị mất. Giá tiêu dùng tương tự bị bóp méo, vì vậy lợi ích từ trao đổi cũng bị mất.
Mô hình 15.2 : Tác động của thuế nhập khẩu đường cầu dư thừa
Bây giờ kiểm tra tác động của các loại thuế quan bằng cách sử dụng một đường cầu dư thừa giống như trong chương 4. Trong hình. (15.2), đường cầu dư thừa cho Quốc gia nhỏ đi qua trục giá tại pa ,cho thấy rằng giá cả tương đối thấp, nền kinh tế sẽ chọn nhập khẩu X. Thực tế rằng đây là nền kinh tế nhỏ mô tả bởi sự tồn tại của đường cầu dư thừa co dãn hoàn hảo nước ngoài E* ở tỷ giá thương mại tự do p* . Các trạng thái cân bằng thương mại tự do liên quan đến mức nhập khẩu tính bằng giá Xf . Thêm vào đó thuế nhập khẩu phải chịu đối với X sẽ chuyển xuống phần cầu nhập khẩu của các đường cầu dư thừa X bằng phần trăm t. Ở đây, trong hình (15.2), E’x được xác định bởi mối quan hệ p'(l + t) = p, trong đó p cho giá dọc theo đường cầu dư thừa ban đầu. Lưu ý rằng thuế quan này sẽ cấm nếu giá thế giới p* ở giữa p'a và pa. Theo giá thế giới p* tại hình (15.2), thuế quan làm giảm nhập khẩu từ Xf xuống Xt , với xuất khẩu giảm xuống tương ứng p*Xt đơn vị của Y, dù thuế được áp dụng đối với hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Tỷ lệ giá trong nước liên quan tại các nhà nhập khẩu nhỏ trở thành p = p*(l + t ) trong khi nguồn thu thuế quan là hình chữ nhật pp*TS , được đo theo đơn vị Y.
Một điểm quan trọng nữa là ngoài việc giảm thu nhập nói chung, thuế nhập khẩu còn phân phối lại thu nhập. Trong hình (15.1) thuế quan làm tăng giá trong nước của hàng hoá X và sản xuất di chuyển từ Qf đến Qt. Như chúng ta đã biết từ những phân tích trước đây, sự chuyển đổi này nói chung sẽ làm thay đổi giá yếu tố. Trong mô hình Heckscher-Ohlin, việc tăng giá và tăng sản xuất của X sẽ làm tăng thu nhập thực tế các yếu tố được sử dụng chuyên sâu trong sản xuất và giảm thu nhập thực tế các yếu tố khác (định lý Stolper-Samuelson). Như vậy, trong trường hợp này, tổn thất thể hiện ở hình (15.1) được chia không đồng đều, và yếu tố này thực ra phải tốt hơn hết. Bởi vì phúc lợi nói chung ở nền kinh tế giảm trừ các loại thuế quan, nó làm cho yếu tố khác phải chịu một tổn thất phúc lợi vượt quá mức an toàn. Những hệ quả của sự phân bổ mức bảo vệ sẽ giúp chúng ta giải thích tại sao có chính sách bảo hộ. Chương 19 sẽ tập trung vào vấn đề này.
15.3:THUẾ QUAN, CÁC LOẠI THUẾ VÀ SỰ BIẾN DẠNG THUẾ
Như chúng ta đã đề cập trước đây, thuế quan cũng là một loại thuế đặc biệt. Mục đích của phần này là để mở rộng khái niệm về thuế quan cũng như các loại thuế và để phân tích mối quan hệ giữa thuế quan với các loại thuế khác. Từ mô hình 15,1 ta có thể thấy rằng thuế nhập khẩu đối với X có tác dụng nâng cao cả giá tính đối với người tiêu dùng và giá nhận được từ các nhà sản xuất. Điều này gây bất lợi cho người tiêu dùng của X và giúp các nhà sản xuất của nó. Thuế quan đóng vai trò như thuế tiêu dùng và trợ cấp sản xuất. Trong thực tế, thuế quan có tác dụng tương đương với thuế tiêu thụ kết hợp với trợ cấp sản xuất. Từ thông tin trong hình 15,1, chúng ta thấy rằng nó không thể cho biết trạng thái cân bằng tại Ct được gây ra bởi thuế nhập khẩu hoặc bởi một thuế tiêu thụ/trợ cấp sản xuất kết hợp trên X.
Thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu
Nó là một cái gì đó khó khăn hơn để nắm bắt được tại điểm đó mức thuế nhập khẩu đối với X là chính xác tương đương với số thuế xuất khẩu đối với Y. Như chúng ta đã chỉ ra trước đây, kim ngạch nhập khẩu tương đương với kim ngạch xuất khẩu. Hãy nhớ rằng các mức thuế nhập khẩu đối với X làm tăng giá ở trong nước trên mức giá thế giới (px> p *) trong khi làm cho giá ở trong nước của Y bằng với giá thế giới (py = p*). Ảnh hưởng của thuế quan về giá tương đối là để thiết lập p> p*. Về phần mình, một thuế xuất khẩu thiết lập các mối quan hệ sau đây giữa giá trong nước của Y và giá cả thế giới: py – p* (l - t) . (Lưu ý rằng đối với những nước nhỏ, thuế sẽ làm giảm giá trong nước nhận được từ những nhà sản xuất của những mặt hàng xuất khẩu bằng cách giảm số tiền thuế, bởi vì hàng xuất khẩu phải được bán với mức giá cố định của thế giới.) Như vậy,thuế phân chia giữa giá trong nước và thế giới đối với Y (py p*. Nhìn lại một lần nữa vào các thông tin trong hình 15.1, chúng ta nhận thấy rằng nó không thể cho biết liệu các trạng thái cân bằng tại Ct được tạo ra bởi một thuế quan nhập khẩu hay thuế quan xuất khẩu.
Thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu là tương đương nhau trong việc tăng giá tương đối trong nước và hàng nhập khẩu và giảm giá tương đối trong nước đối với hàng xuất khẩu. Cả hai đều có xu hướng dịch chuyển các nguồn lực trongngành công nghiệp xuất khẩu vào các ngành công nghiệp nhập khẩu, cạnh tranh. Nhiều nhà quan sát cho rằng các nước nên hạn chế nhập khẩu bằng thuế quan đồng thời khuyến khích xuất khẩu bằng cách trợ giá. Hai nhược điểm: Trước tiên, chúng ta không nên làm trong mộtnền kinh tế nhỏ, nơi mà thương mại tự do là tối ưu, và thứ hai, hai chính sách được đề xuất có tác dụng hoàn toàn ngược lại và do đó sẽ có xu hướng loại bỏ nhau.
Trợ cấp xuất khẩu
Rất thú vị khi xem xét những ảnh hưởng của trợ cấp xuất khẩu trong một nền kinh tế mở quy mô nhỏ. Chính sách này đã được phân tích trong hình 15.3. Giả sử rằng s là mức trợ cấp theo trị giá xuất khẩu của Y rồi py* p = (l + s) và p= p*/(l + s) < p*. Phương trình (15,1) được thay thế bằng
Tất nhiên, cán cân thanh toán hạn chế trong biểu thức. (15.2) vẫn tồn tại.
Mô hình 15.3: Trợ cấp xuất khẩuFIGURE 15.3
Export subsidies.
Y
Hình 15,3 cho thấy các trợ cấp xuất khẩu làm cho đất nước sản xuất nhiều Y hơn và ít X hơn (điểm Qs) so với ở trạng thái cân bằng thương mại tự do (điểm Qf), Như vậy, thu nhập ONs thật của quốc gia nhỏ hơn trongthương mại tự do, cũng như trường hợp đối với thuế quan. Cả hai chính sách này đều bóp méo sự phân phối. Sự khác biệt là trợ cấp tạo ra sản xuất vượt mức của Y, trong khi đó thuế quan tạo ra mức tiêu thụ quá mức của X. Sự tiêu thụ xảy ra tại điểm Cs nơi mà MRS tiêu thụ bằng với tỷ lệ giá trong nước bị bóp méo. Đất nước này giao dịch mạnh hơn so với thế giới (cả xuất khẩu và nhập khẩu tăng) nhưng lợi ích bị giảm từ Uf đến Us . Quan sát gợi ý thấy rằng gia tăng thương mại bằng xuất khẩu tăng trợ cấp nói chung sẽ không làm cho một nền kinh tế tốt hơn. Thực tế, trợ cấp xuất khẩu thường được nhiều phúc lợi hơn so với mức thuế giảm vì họ yêu cầu người nộp thuế để tài trợ cho họ, hơn là tạo ra nguồn thu thuế.
Trong thực tế, một xuất khẩu (hoặc nhập khẩu) trợ cấp thực sự có thể làm cho một nền kinh tế tồi tệ hơn là chính sách tự cung tự cấp, như chúng tôi chứng minh sau này trong Phần 15,7, Tuy nhiên, bằng cách xem xét hình 15,3 lần nữa ta có thể thấy được điều này. Nếu việc bóp méo sản xuất gây ra bởi trợ cấp là quá lớn thì đường giá thế giới bắt đầu từ điểm Qs thực sự sẽ đi qua dưới đường bàng quan Ua, Việc kinh doanh ở đất nước này sẽ không tốt hơn so với trợ cấp xuất khẩu.
Thuế tiêu thụ và hỗ trợ sản xuất
Bây giờ chúng ta quay trở lại quan điểm cho rằng mức thuế nhập khẩu (hoặc xuất khẩu, thuế) tương đương với thuế tiêu thụ và trợ cấp sản xuất.Giả sử rằng vì một lý do chính trị nào đó chính phủ quyết định gia tăng sản xuất trong lĩnh vực nhập khẩu, cạnh tranh tương đối so với mức nó đạt được trong thương mại tự do. Một lý do chính phủ có thể muốn làm điều này làmột số mức tối thiểu của sản xuất trong lĩnh vực nhập khẩu, cạnh tranh được xem là quan trọng vì lý do an ninh quốc gia, như có thể là trường hợp vớidầu, sắt thép, hoặc các chất bán dẫn. Với mục tiêu này, vấn đề kinh tế quan trọng là, các phương pháp chi phí thấp nhất để đạt được nó là gì? Vấn đề với một mức thuế nhập khẩu là nó hoạt động như thuế tiêu thụ, ngoài phục vụ như là một trợ cấp cho sản xuất. Có thể nói nó không tốt hơn để sử dụng thay vì trợ cấp đầu ra không? Câu trả lời chắc chắn là có, như đã trình bày trong hình. 15.4. Nếu chính phủ sử dụng một mức thuế nhập khẩu để chuyển hướng sản xuất từ QF để tiêu thụ Qt> sẽ chuyển đến Ct,dẫn đến một mức phúc lợi của Ut.
Mô hình 15.4 : Thuế tiêu thụ và hỗ trợ sản xuất
Y
Giả sử rằng chính phủ thay vì chỉ đơn giản là trợ giá sản xuất của X trong một cách mà các biên lai cho mỗi đơn vị sản xuất giống như với thuế quan. Trong trường hợp này sản lượng vẫn sẽ chuyển sang QTI nhưng người tiêu dùng sẽ không phải đối mặt với giá cả bị bóp méo và thay vào đó sẽ được phép thương mại ở mức giá thế giới. Điều này sẽ cho phépngười tiêu dùng đạt đến gói tiêu dùng Cs và mức độ tiện ích Us như trong hình 15.4. Kết quả này có thể được giải thích bằng cách sử dụng thuật ngữ của lợi ích từ việc trao đổi và lợi ích từ phát triển chuyên môn trong chương 5. Thuế quan trong hình. 15,4 bóp méo giá cả tiêu dùng và sản xuất,từ đó gây ra một sự mất mát của những lợi ích từ trao đổi cũng như lợi ích từ chuyên môn. Trợ cấp chỉ bóp méo giá của các nhà sản và đó gây ra một sự mất mát duy nhất của lợi ích từ chuyên môn. Kỳ lạ, mặc dù sự logic trong hình. 15,4, chính trị gia và công chúng nói chung xuất hiện để tìm ra mức thuế được chấp nhận hơn so với trợ cấp bởi vì thuế là phương pháp phổ biến hơn của sự bảo vệ. Được nói về nhiều điều hơn sẽ là cơ sỏ chính trị như sự lựa chọn trong Chương 19.
Thuế quan và sự biến dạng
Một điểm cuối cùng liên quan đến thuế quan và thuế được khám phá tronghình. 15,5. Như chúng ta đã nói trước đây trong chương này, kết quả là mức thuế có hại cho một nền kinh tế mở nhỏ dựa trên giả định rằng không có biến dạng trong nền kinh tế. Nếu có biến dạng, nó có thể là trường hợp đó,mức thuế có thể được sử dụng để bù đắp những biến dạng và do đó làm tăng phúc lợi. Khả năng này là một ứng dụng của những gì được biết về kinh tế như thuyết tốt nhất thứ hai. Lý thuyết này nói rằng sự hiện diện của nhiềubiến dạng (chẳng hạn như các loại thuế trong nước hoặc độc quyền), phúc lợi xã hội không nhất thiết phải cải thiện bằng cách loại bỏ một biến dạng duy nhất (chẳng hạn như thuế nhập khẩu). Một báo cáo tương đương là trong sự hiện diện của các biến dạng, thêm một biến dạng bổ sung có thể cải thiện phúc lợi.
Hình thức áp dụng thứ hai của lý thuyết tốt nhất thứ hai là hình 15,5. Giả sử vì một lý do chính trị, các nhà sản xuất của Y có quản lý để có được một trợ cấp từ chính phủ và rằng chính phủ không muốn để có những rủi ro chính trị loại bỏ các trợ cấp. Sản xuất thương mại tự do sẽ diễn ra tại một điểm như QF hình. 15,5, nơi mà tỷ lệ giá Ps của các nhà sản xuất trong nước (độ dốc của đường biên giới sản xuất) là tròn hơn so với tỷ lệ giá thế giới. Người tiêu dùng có thể giao dịch ở mức giá thế giới, và do đó tiêu thụ được cho bởi điểm Сf.
Mô hình 15.5 : Thuế quan và sự biến dạng
Mặc dù chính phủ không thể loại bỏ các trợ cấp, nó có thể cải thiện phúc lợi bằng cách giới thiệu một biến dạng bổ sung, cụ thể là, một mức thuế nhập khẩu đối với X. Điều này sẽ tăng giá trong nước của X và, với mức trợ cấp trên У không thay đổi, khuyến khích việc sản xuất X, di chuyển các kết hợp đầu ra từ QF để Qt. Giá tiêu dùng sau đó sẽ bị bóp méo bởi các mức thuế suất X (p> p *), vì vậy tiêu thụ sẽ xảy ra tại một điểm như Ct-Phúc lợi là như vậy, cải thiện bằng thuế quan, mặc dù các ngành nghề quốc gia trên thế giới theo giá cố định. thuế quan này hoàn thành kết quả này bởi ảnh hưởng đến sản xuất trong một hướng đối diện ảnh hưởng của việc trợ cấp. Tác động của thuế quan là để thúc đẩy nền kinh tế trở lại theo hướng hiệu quả của mô hình chuyên môn. Tất nhiên, như phân tích trước đây của chúng tôi chỉ ra, việc áp đặt thuế quan cũng có thể thấp hơn phúc lợi nếu đã bao gồm thuế quan, tỷ lệ giá trong nước không tạo ra thay đổi nhiều trong sản xuất nhưng nặng hơn đáng kể những biến dạng tiêu thụ. Như một sự cân bằng sẽ xảy ra trên một đường bàng quan dưới một sự cân bằng cho việc lựa chọn tiêu thụ ban đầu.
15.4: QUYỀN LỰC DỊCH VỤ ĐỘC QUYỀN
Vậy, cho đến nay chúng tôi đã cho rằng quốc gia này là nhỏ và đối mặt với giá cố định thế giới ( ví dụ quốc gia cơ bản là một đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới). Giả sử bây giờ mà đất nước đủ lớn, giá thế giới sẽ bị ảnh hưởng bởi những gì quốc gia đó muốn mua và bán. Cụ thể hơn, giá xuất khẩu thế giới sẽ giảm khi chúng ta xuất khẩu nhiều hơn. Chúng tôi