Một trong những vấn đề đáng quan tâm trong tâm lý xã hội đó là khi hiệu
quả của truyền thông thuyết phục sẽ được tăng lên nếu nguồn gốc của nó đáng
tin cậy. Những nghiên cứu trước đây của Hovland, Weiss (1951) và Kelmen,
Hovland (1953) đã đưa ra bản chất của một kết luận gần đây và mở ra xu hướng
để chứng tỏ hiệu quả của các nhà truyền thông có uy tín, thậm chí ngay cả khi
mức độ thay đổi được tán thành là cực lớn.
Theo truyền thống, uy tín được định nghĩa là thuộc tính của nhà truyền
thông, đó chính là sự thừa nhận của công chúng có liên quan tới chủ đề đang
được truyền thông. Hai trong số các thành phần chính đã được vận dụng vào
thực nghiệm đó là khả năng của các nhà truyền thông tác động tới sự lĩnh hội
của cá nhân hay những yêú tố mà Hovland, Janis và Kelley (1953) đưa ra đó là
những thuật ngữ :“sự tinh thông” và “sự đáng tin cậy” được tách biệt ra. Tuy
nhiên, những đặc điểm tích cực và tiêu những cái không tạo ra những liên quan
mét c¸ch chủ quan tới chủ đề của sự truyền thông cũng có thể ảnh hưởng tới
động cơ thay đổi thái độ.
Hiệu quả lớn của những đặc tính không liên quan của những nhà truyền
thông đã được sử dụng nhiều trong những trường hợp thực tế bên ngoài phòng
thí nghiệm, bởi sự cảnh báo của các luật sư về tầm quan trọng của cách ăn mặc
và sử sự của thân chủ đối với thái độ của hội đồng xét xử, bằng cách quảng cáo
nhạy cảm về một số vấn đề hình thể, giới tính của các nhà truyền thông và các
vấn đề mà những chính trị gia gần đây quan tâm nhiều hơn trong việc tạo dựng
hình ảnh bằng cách tổng hợp những nhóm nét tiêu biểu không liên quan.
Những khía cạnh không liên quan đến uy tín của nhà truyền thông là
những nhân tố quan trọng liên quan tới sự thay đổi thái độ đã được chỉ ra trong
một nghiên cứu. Trong đó cuộc thay đổi nhanh“đua” của nhà truyền thông có
ảnh hưởng tới những ý kiến phát biểu nhằm ủng hộ và đồng tình với những ưu
điểm của số học học sinh lớp 6.
Một cách chủ quan, những đặc tính không liên quan là vô cùng quan
trọng trong việc truyền thông giữa các cá nhân. Trong đó sự thay đổi thái độ
thường xuyên của các cá nhân diễn ra gián tiếp bởi một chủ thể tâm lý, vật lý và
xã hội của những đại diện có ảnh hưởng. Ví dụ: nhiều người biết rằng thái độ và
hành động của những người đi bầu cử bị ràng buộc, bị ảnh hưởng nhiều bởi các
tác động của cá nhân, như là bạn bè và các mối quan hệ xung quanh, hơn là các
phương tiên truyền thông thông thường. Một trong những lý do khiến các mối
quan hệ cá nhân này có thể hiệu quả ( theo Lazàeld, Bezrslson, Gaudet ,1944), là
do họ thường xuyên hoàn thành các nguyên tắc ứng xử mà không có sự vi phạm
thái quá lần đầu. Do vậy, một sự phản hồi trong báo cáo nghiên cứu của họ:
“Người đàn bà nơi tôi làm việc muốn tôi đi bầu cử, bà ta dẫn tôi tới phòng bỏ
phiếu và tất cả họ đã bầu cho Nguời cộng hoà. Tôi cũng làm vậy”. Như một
người nếu được hỏi thì dường như anh ta sẽ bảo vệ quyết định bầu cử của anh ta
về những tính chất của sự ảnh hưởng, cái mà không liên quan đến vấn đề chính
trị, do đó nó xuất hiện cả hai khía cạnh liên quan và không liên quan, thích đáng
và không thích đáng của của uy tín nhà truyền thông. Có thể phải thực hiện
nhiều lần trong cùng một phương pháp để gia tăng tỷ lệ chấp nhận một sự truyền
thông thuyết phục.
Chúng tôi xem xét liệu kết luận này có thể được khái quát hoá trong một
tình huống hay không? ở đó sự đáp lại là không bị ràng buộc nhưng sẽ phải có
một vị trí xác định và nhà truyền thông phải cố gắng thay đổi hành vi hay là chỉ
đơn thuần thay đổi quan điểm. Nếu áp lực được đặt lên một người, điều đó sẽ có
ảnh hưởng đến hành vi ứng xử với giá trị và thái độ có liên quan của cá nhân thì
hiển nhiên áp lực này tuân theo là một yếu tố đang xác định, trong đó cá nhân sẽ
làm gì. nếu nó là quá yếu, anh ta sẽ không tuân theo và thái độ của anh ta sẽ
không thay đổi. Trong khi nếu nó quá mạnh mẽ anh ta sẽ tuân theo số đông
nhưng cũng tương tự như vậy, thái độ cá nhân của anh ta sẽ ổn định. Nếu tuân
theo một cách công khai có thể bị điều chỉnh một cách hoàn toàn tự nhiên bởi sự
khen thưởng và trừng phạt được kiểm soát bởi nhà truyền thông, không có sự
tăng lên theo nhu cầu điều chỉnh thái độ của họ tới hành vi trái ngược
này.Nhưng xác suất của sự tuân theo sẽ tiến đến giá trị trong một nhóm dân số
đã cho. Dường như đặc điểm của nhà truyền thông cái mà không liên quan tới
nội dung của hành vi. Ví dụ: “Tôi làm viêc đó bởi vì anh ta là một chàng trai
tốt”.
Nói cách khác sự tuân theo của một nhà truyền thông tiêu cực,. Một ai đó
sẽ không thích, vài người không thích, rõ ràng không thể nhận ra sự ứng xử trái
ngược nhau bằng cách lôi kéo đặc tính cá nhân của nhà truyền thông như sự
công bằng.
Zimbardo (1960) đã đưa ra gợi ý rằng một người truyền tin phải thay đổi
những thái độ của anh ta để chúng song hành với hành vi của anh ấy.Một dự
đoán như vậy được rút ra từ thuyết bất đồng nhận thức (Festinger, 1957), cho
rằng sự bất đồng được tạo nên từ những hành vi công khai không theo thái độ
đúng đắn của một người thì đi ngược lai với sự bào chữa, được đưa ra cho sự
thực hiện những hành động trái ngược.
Từ sự phủ nhận những hành động công khai một cách miễn cưỡng do
thực tế xã hội là một cách để giảm sự bất đồng giảm thái độ riêng của cá nhân để
cho nó phù hợp hơn với hành vi của công chúng. Hai khuynh hướng thái độ có
thể thay đổi theo kiểu thái độ hướng tới nhà truyền thông và thái độ hướng tới
những chủ đề hay đề tài về cách cư xử.
Bettelheim (1943) nói với chúng ta rằng nhiều đảng viên Đảng quốc xã
đối xử với tù nhân cực kỳ tiêu cực như là xui khiến họ tham gia vào những hoạt
động trái ngược với gía trị của họ, cuối cùng trở thành những người được
ngưỡng mộ. Các tù nhân nài nỉ những sỹ quan rằng “ giấu đàng sau vẻ bề ngoài
dữ dằn của họ là cảm giác về sự công bằng và đúng mực”. Tuy nhiên, kiểu thay
đổi thái độ của người truyền tin này hay sự nhận dạng với kẻ gây hấn cần trong
điều kiện sợ hãi và phụ thuộc cao.
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2194 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Ảnh hưởng của nhà truyền thông tới sự tuân theo của công chúng và sự thay đổi thái độ của cá nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Ãnh hưởng của nhà truyền thông tới sự tuân theo
của công chúng và sự thay đổi thái độ của cá nhân
Một trong những vấn đề đáng quan tâm trong tâm lý xã hội đó là khi hiệu
quả của truyền thông thuyết phục sẽ được tăng lên nếu nguồn gốc của nó đáng
tin cậy. Những nghiên cứu trước đây của Hovland, Weiss (1951) và Kelmen,
Hovland (1953) đã đưa ra bản chất của một kết luận gần đây và mở ra xu hướng
để chứng tỏ hiệu quả của các nhà truyền thông có uy tín, thậm chí ngay cả khi
mức độ thay đổi được tán thành là cực lớn.
Theo truyền thống, uy tín được định nghĩa là thuộc tính của nhà truyền
thông, đó chính là sự thừa nhận của công chúng có liên quan tới chủ đề đang
được truyền thông. Hai trong số các thành phần chính đã được vận dụng vào
thực nghiệm đó là khả năng của các nhà truyền thông tác động tới sự lĩnh hội
của cá nhân hay những yêú tố mà Hovland, Janis và Kelley (1953) đưa ra đó là
những thuật ngữ :“sự tinh thông” và “sự đáng tin cậy” được tách biệt ra. Tuy
nhiên, những đặc điểm tích cực và tiêu những cái không tạo ra những liên quan
mét c¸ch chủ quan tới chủ đề của sự truyền thông cũng có thể ảnh hưởng tới
động cơ thay đổi thái độ.
Hiệu quả lớn của những đặc tính không liên quan của những nhà truyền
thông đã được sử dụng nhiều trong những trường hợp thực tế bên ngoài phòng
thí nghiệm, bởi sự cảnh báo của các luật sư về tầm quan trọng của cách ăn mặc
và sử sự của thân chủ đối với thái độ của hội đồng xét xử, bằng cách quảng cáo
nhạy cảm về một số vấn đề hình thể, giới tính của các nhà truyền thông và các
vấn đề mà những chính trị gia gần đây quan tâm nhiều hơn trong việc tạo dựng
hình ảnh bằng cách tổng hợp những nhóm nét tiêu biểu không liên quan.
Những khía cạnh không liên quan đến uy tín của nhà truyền thông là
những nhân tố quan trọng liên quan tới sự thay đổi thái độ đã được chỉ ra trong
một nghiên cứu. Trong đó cuộc thay đổi nhanh“đua” của nhà truyền thông có
ảnh hưởng tới những ý kiến phát biểu nhằm ủng hộ và đồng tình với những ưu
điểm của số học học sinh lớp 6.
Một cách chủ quan, những đặc tính không liên quan là vô cùng quan
trọng trong việc truyền thông giữa các cá nhân. Trong đó sự thay đổi thái độ
thường xuyên của các cá nhân diễn ra gián tiếp bởi một chủ thể tâm lý, vật lý và
xã hội của những đại diện có ảnh hưởng. Ví dụ: nhiều người biết rằng thái độ và
hành động của những người đi bầu cử bị ràng buộc, bị ảnh hưởng nhiều bởi các
tác động của cá nhân, như là bạn bè và các mối quan hệ xung quanh, hơn là các
phương tiên truyền thông thông thường. Một trong những lý do khiến các mối
quan hệ cá nhân này có thể hiệu quả ( theo Lazàeld, Bezrslson, Gaudet ,1944), là
do họ thường xuyên hoàn thành các nguyên tắc ứng xử mà không có sự vi phạm
thái quá lần đầu. Do vậy, một sự phản hồi trong báo cáo nghiên cứu của họ:
“Người đàn bà nơi tôi làm việc muốn tôi đi bầu cử, bà ta dẫn tôi tới phòng bỏ
phiếu và tất cả họ đã bầu cho Nguời cộng hoà. Tôi cũng làm vậy”. Như một
người nếu được hỏi thì dường như anh ta sẽ bảo vệ quyết định bầu cử của anh ta
về những tính chất của sự ảnh hưởng, cái mà không liên quan đến vấn đề chính
trị, do đó nó xuất hiện cả hai khía cạnh liên quan và không liên quan, thích đáng
và không thích đáng của của uy tín nhà truyền thông. Có thể phải thực hiện
nhiều lần trong cùng một phương pháp để gia tăng tỷ lệ chấp nhận một sự truyền
thông thuyết phục.
Chúng tôi xem xét liệu kết luận này có thể được khái quát hoá trong một
tình huống hay không? ở đó sự đáp lại là không bị ràng buộc nhưng sẽ phải có
một vị trí xác định và nhà truyền thông phải cố gắng thay đổi hành vi hay là chỉ
đơn thuần thay đổi quan điểm. Nếu áp lực được đặt lên một người, điều đó sẽ có
ảnh hưởng đến hành vi ứng xử với giá trị và thái độ có liên quan của cá nhân thì
hiển nhiên áp lực này tuân theo là một yếu tố đang xác định, trong đó cá nhân sẽ
làm gì. nếu nó là quá yếu, anh ta sẽ không tuân theo và thái độ của anh ta sẽ
không thay đổi. Trong khi nếu nó quá mạnh mẽ anh ta sẽ tuân theo số đông
nhưng cũng tương tự như vậy, thái độ cá nhân của anh ta sẽ ổn định. Nếu tuân
theo một cách công khai có thể bị điều chỉnh một cách hoàn toàn tự nhiên bởi sự
khen thưởng và trừng phạt được kiểm soát bởi nhà truyền thông, không có sự
tăng lên theo nhu cầu điều chỉnh thái độ của họ tới hành vi trái ngược
này.Nhưng xác suất của sự tuân theo sẽ tiến đến giá trị trong một nhóm dân số
đã cho. Dường như đặc điểm của nhà truyền thông cái mà không liên quan tới
nội dung của hành vi. Ví dụ: “Tôi làm viêc đó bởi vì anh ta là một chàng trai
tốt”.
Nói cách khác sự tuân theo của một nhà truyền thông tiêu cực,.. Một ai đó
sẽ không thích, vài người không thích, rõ ràng không thể nhận ra sự ứng xử trái
ngược nhau bằng cách lôi kéo đặc tính cá nhân của nhà truyền thông như sự
công bằng.
Zimbardo (1960) đã đưa ra gợi ý rằng một người truyền tin phải thay đổi
những thái độ của anh ta để chúng song hành với hành vi của anh ấy.Một dự
đoán như vậy được rút ra từ thuyết bất đồng nhận thức (Festinger, 1957), cho
rằng sự bất đồng được tạo nên từ những hành vi công khai không theo thái độ
đúng đắn của một người thì đi ngược lai với sự bào chữa, được đưa ra cho sự
thực hiện những hành động trái ngược.
Từ sự phủ nhận những hành động công khai một cách miễn cưỡng do
thực tế xã hội là một cách để giảm sự bất đồng giảm thái độ riêng của cá nhân để
cho nó phù hợp hơn với hành vi của công chúng. Hai khuynh hướng thái độ có
thể thay đổi theo kiểu thái độ hướng tới nhà truyền thông và thái độ hướng tới
những chủ đề hay đề tài về cách cư xử.
Bettelheim (1943) nói với chúng ta rằng nhiều đảng viên Đảng quốc xã
đối xử với tù nhân cực kỳ tiêu cực như là xui khiến họ tham gia vào những hoạt
động trái ngược với gía trị của họ, cuối cùng trở thành những người được
ngưỡng mộ. Các tù nhân nài nỉ những sỹ quan rằng “ giấu đàng sau vẻ bề ngoài
dữ dằn của họ là cảm giác về sự công bằng và đúng mực”. Tuy nhiên, kiểu thay
đổi thái độ của người truyền tin này hay sự nhận dạng với kẻ gây hấn cần trong
điều kiện sợ hãi và phụ thuộc cao.
Khi không có những điều kiện này nhưng người truyền tin vẫn có ảnh
hưởng lớn và nổi bật, sự tuân theo của công chúng đối với người truyền tin tiêu
cức sẽ tạo nên sự bất đồng lớn hơn với người truyền thông tích cực. Nếu thay
đổi thái độ thì có thể tạo sự bằng lòng và giảm bất đồng chủ yếu, sau đó giả
thuyết chung có thể được thực nghiệm về sự tuân theo của công chúng với người
truyền thông tiêu cực (so sánh với người truyền thông tích cực) sẽ là kết quả của
sự thay đổi thái độ nhiều hơn theo hướng đưa ra những hành vi công khai.
Gần đây điều này được Smith thử nghiệm trong một thí nghiệm thú vị, trong đó
những người lính dự bị của quân đội được xui khiến ăn thứ thức ăn họ không
thích chút nào – châu chấu rán - trong những điều kiện người truyền tin khác
nhau. Kết quả của ông ấy khá ấn tượng, người truyền tin tích cực tạo nên sự
tuân theo của công chúng trong việc ăn nhưng họ không thay đổi thái độ. Mặt
khác,người truyền thông tiêu cực có thể xui khiến một nửa số đàn ông làm theo
và ăn châu chấu, nhưng những người đã ăn châu chấu thì thay đổi thái độ của họ
rất nhiều – thực tế, cuối cùng là họ thích châu chấu.
Thật không may mắn, những kết luận trong bản tóm tắt của Smith đã xuất
bản (1961b), không được ủng hộ từ báo cáo kỹ thuật hoàn thành của ông ấy
(1961a). Số luợng lớn những kỹ sảo thiết kế, sự thực hiện và phân tích tạo nên
những câu hỏi quan trọng cho giá trị pháp lý trong kết quả của ông ấy. Cần phải
đề cập đến một vài đặc điểm để làm sáng tỏ phần thiết kế của nghiên cứu và
phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu hiện tại.
Vấn đề quan trọng nhất là đơn vị mẫu và điều kiện thử nghiệm được
Smith tiến hành. Mặc dù 20 mẫu (Ss) đều ở trong một điều kiện truyền thông, họ
được chia thành hai nhóm, mỗi nhóm 10 người. Hơn thế nữa, các mẫu đều biết
nhau, ngồi xung quanh một cái bàn lớn và có thể tương tác một cách tự do trước,
trong và sau yêu cầu mới của một người lạ là ăn châu chấu. Trong một tình
huống như vậy rõ ràng hiệu ứng tuân theo xã hội và áp lực nhóm đóng vai trò
chủ đạo trong việc quyết định có những hành động tuân theo. Từ nguồn áp lưc
xa lạ và không thể kiểm soát có thể đem lại kết quả duy nhất trong mỗi mẫu, ảnh
hưởng tới việc ăn và thái độ của mỗi người, những dự đoán được đánh giá cao
của người truyền tin không thể tạo ra được hiệu quả uy tín cho họ. Thực nghiệm
hiện nay về nguồn gốc bất đồng cho thấy sự thay đổi thái độ là một kết qủa duy
nhất của thái độ đầu tiên, quyết định cá nhân và tính cách của nhà truyền thông.
Vấn đề thứ hai là tất cả các mẫu đều nhận được lời thuyết phục về yêu cầu
của một quân đội linh động, yêu cầu cần phải ăn những thức ăn không bình
thường để sống sót, nhu cầu làm quen với những thái độ và phản ứng hướng tới
việc ăn châu chấu. Họ nhận được lời phát biểu này sau khi nhà thí nghiệm bắt
đầu đóng vai trò của ông ấy như là một nhà truyền thông tích cực hoặc tiêu cực
nhưng trước khi ông ấy đo được thái độ ban đầu hướng tới con châu chấu của
họ. Như đã được mong đợi, thái độ ban đầu của những người đàn ông trong điều
kiện người truyền tin tích cực đã ủng hộ nhiều hơn trong điều kiện những người
truyền tin tiêu cực. Định kiến ban đầu xa rời với kết quả, mở ra sự giải thích cho
khoảng cách thang đo tương đối có thể thay đổi, cũng như nhượng bộ những ảnh
hưởng , từ khi có nhóm kiểm soát không “thật”. Vì vậy, cần phải tách biệt giai
đoạn đo và tác động của cuộc nghiên cứu này.
Cuối cùng, sự vận động của người truyền tin theo thống kê tạo nên sự
tích cực tuyệt đối trong một số trường hợp, một số trường hợp khác là mức độ
thấp hơn. Đây chỉ là một phần vì những hành vi của người truyền tin tiêu cực là
chuẩn để thực hiện những thủ tục cho các sỹ quan trong quân đội hay là nhà
cầm quyền. Trong bất cứ trường hợp nào những khác biệt trong sự tác động có
thể tạo nên sự không kiên quyết, từ khi chúng được đánh giá bởi loại Likert đơn
tỉ lệ với sự chuyển tải lời phát biểu “Người làm thí nghiệm rất thân thiện và lịch
sự” – tính hữu danh được tạo nên bởi sự có mặt của chính người thí nghiệm. Vì
thế, phân tích việc tiến hành một cách cẩn thận sự thực hiện hành vi của người
truyền tin và đánh giá uy tín của anh ta là điều chủ yếu.
Những mục đích của cuộc nghiên cứu hiện tại là để nghiên cứu ảnh hưởng
của những nhân tố không thích đáng đến hành vi tuân theo và thay đổi thái độ
bằng cách làm thử nghiệm một dựa trên thuyết bất đồng cho sự chấp nhận hay từ
chối sự tuân theo công chúng, kèm theo là sự thay đổi thái độ. Cuối cùng, sự bắt
chước trong điều kiện tương tác nhóm được bao hàm trong mục đích so sánh và
để cho phép sự khen ngợi ảnh hưởng tới sự tuân theo xã hội trên sự tuân theo
công chúng và cá nhân.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô tả chung
Những thái độ hướng tới việc ăn một loại thức ăn rất không được ưa thích - đó
là món châu chấu rán- đã được khảo sát trước và ngay sau khi có sự thuyết phục
về việc ăn châu chấu được thực hiện bởi một nhà truyền thông – một người khá
thân thiện, có vai trò tích cực với một nửa số khách thể nghiên cứu; một nhà
truyền thông không thân thiện đóng vai trò tiêu cực với một nửa số khách thể
còn lại. Một vài khách thể được thực nghiệm trong điều kiện tương tác nhóm
một cách tự do; một số khách thể được thực nghiệm trong điều kiện chịu ảnh
hưởng của áp lực nhóm . Và một số còn lại được thực nghiệm thuyết phục nếu
ăn châu chấu sẽ được cho tiền.
Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành trên 243 khách thể trong đó có 175 người thực nghiệm và
68 người để đối chiếu. Trong số đó, có 50 người là đến từ lớp tâm lý học của
trường Đại học NewYork. ở nhóm thực nghiệm trong điều kiện có sự tương tác
thì có 72 nghiệm thể là lính dự bị - đến từ lớp dự bị đại học của trường ĐH
NewYork . ở nhóm nghiên cứu thứ 3 thì tiến hành trên 121 lính dự bị, họ cũng
đén từ cơ quan trên. Tất cả các nghiệm thể đều là binh nhì, hạ sỹ, họ chỉ hơn
nhóm nghiệm thể sinh viên một vài tuổi nhưng tất cả có trình độ nhận thức
tương đương nhau.
Cách thức tiến hành
Nhà truyền thông
Người được lựa chọn làm nhà truyền thông là Brigade Commander. đến từ trung
tâm ROTC của trường ĐH NewYork, những đặc điểm tích cực và tiêu cực “ thật
sự” của anh ta đã được xây dựng lên thông qua một cuộc điều tra ý kiến của các
nhân viên có chuyên môn, 53 thành viên của trường ROTC đã đánh giá anh ta,
bên cạnh đó còn có một số chuyên viên khác cũng tiến hành kiểm tra anh ta.
Bảng đặc điểm này được xây dựng trên cơ sở thiết lập những vai trò hành vi tích
cực và tiêu cực. Để có được những đặc điểm tích cực, tiêu cực những nhà
nghiên cứu phải tiến hành quan sát những nét tính cách mà mỗi người đó sẽ sở
hữu, và những hành vi sẽ được bộc lộ dưới sự thể hiện của những nhà truyền
thông tích cực, tiêu cực.
Trong cả điều kiện tích cực và tiêu cực nhà truyền thông phải được nhận thức
như một người có một số những đặc điểm tích cực cần thiết cho việc tạo ra
những ảnh hưởng trong thí nghiệm . Đó là, chúng tôI muốn tất cả các khách thể
sẽ có được một cái nhìn như nhau về “ cái sai một cách khoa học” trong thí
nghiệm, từ đó sẽ tham gia một cách nhiệt tình vào các hướng của thí nghiệm và
từ đó sẽ thực hiện nghiên cứu một cách nghiêm túc. Chính vì vậy nhà truyền
thông phải được nhìn thấy là một người tận tâm, cần cù siêng năng, chu đáo, có
năng lực, có khả năng tổ chức tốt, nhà truyền thông phả có những đặc điểm này
vì chúng có liên quan đến việc tổ chức tương tác cho các nghiệm thể . Thêm vào
đó, việc gợi lên được thái độ thù địch giữa các nghiệm thể cũng rất quan trọng.
Tuy nhiên trong điều kiện tiêu cực, nhà truyền thông phải thể hiện vai trò để các
nghiệm thể nhận thức anh ta như là một người không thoải mái , một người
không muốn biết, không muốn làm việc cho ai hoặc không muốn làm việc với
ai. Những điều này được thể hiện thông qua những hành động những cái khiến
anh ta hợm hĩnh, đòi hỏi, không lịch thiệp, hống hách, lạnh lùng và thù địch với
người khác.
Nhà truyền thông tương tác với “ trợ lý” của anh ta theo một kịch bản sắp sẵn.
Trong điều kiện tích cực, nhà truyền thông đưa ra yêu cầu cho người quản lý
một cách lịch sự, gọi anh ta bằng họ của anh ta, chịu trách nhiệm cho “lỗi sai”
của người trợ lý với một sự bình thản và nói chung là rất thoải mái . Nhưng
trong tất cả các lần, rõ ràng anh ta là người E ( the E) và ở trong sự kiểm soát.
Tuy nhiên, trong nhận thức về nhà truyền thông tiêu cực, anh ta cư xử hoàn toàn
khác với cách cư xử trang trọng lịch sự với người trợ giúp trong điều kiện kia. ở
điều kiện tiêu cực anh ta gọi đích danh tên của người trợ lý, ra lệnh, yêu cầu
người trợ lý phải chính xác và có cái gì đó như là anh ta đang bực mình và tức
tối cáu kỉnh. Khi người trợ lý mang “ sai” thức ăn thí nghiệm- một khay lươn- ,
nghiệm viên, người đang trong quá trình nói với các nghiệm thể đột nhiên hỉ
mũi và nói “ Trời ơi thật là ngu xuẩn, anh không nhớ được bản danh mục à?
Thức ăn dó là để dành cho nhóm kế tiếp chứ. Mang nó ra ngoài nhanh lên!”. Khi
người trợ lý rời đI, nghiệm viên lại tỏ vẻ như có gì đó bị xấu hổ, nghiệm viên
nhún vai của mình, tiếp tục nói về vai trò của mình trước nghiệm thể, xin lỗi về
sự gián đoạn và lại tiếp tục trong giọng điệu cũ.
Những ảnh hưởng về sự biến đổi vai trò để tạo ra những nhận thức khác nhau về
nhà truyền thông đã được chúng tôI tiến hành nghiên cứu lần đầu trong phòng
thí nghiệm với mẫu là sinh viên đại học. Sau này mẫu quân nhân dự bị được tiến
hành nghiên cứu trong điều kiện tương tự như nghiên cứu của Smith, tối đa hoá
những ảnh hưởng của nhóm cùng với việc biến đổi nhà truyền thông như một
biến độc lập.
Cuối cùng, một nhóm quân nhân dự bị khác được tiến hành nghiên cứu trong
điều kiện tác động của một nhóm nhỏ, cùng với nhà truyền thông làn bài kiểm
tra về sự tác động của kinh nghiệm cá nhân.
Nhóm khách thể là sinh viên
Cách thức tiến hành với khách thể là sinh viên đại học nói chung cũng tương tự
như cách thức tiếna hành với nhóm khách thể là quân nhân, cùng dưới sự chấp
nhận rằng : Lý do căn bản của mỗi nhóm nghiên cứu là mối quan hệ tương tác
giữa sinh lý và trí óc tới sự lấy đI thức ăn và hành vi ăn. Chúng tôI thì đã cố
gắng lôi kéo mọi người tham gia nghiên cứu ở trong tình trạng bị đói, nhưng sự
lôI kéo này không ảnh hưởng tới sự đo lường được tiến hành bởi những thang
đo cá nhân hay bởi bất kỳ một sự đo lường tính toán nào được sử dụng trong
nhiên cứu.Vì vậy biến đổi duy nhất được xem xét ở đây chính là những biến đổi
vai trò của nhà truyền thông trước những khách thể bị đói.
Nhóm khách thể là quân nhân
Để tối giản hoá khả năngnhóm khách thể có thể nhận ra được cách thức và sự
đánh lừa của chúng tôI, thực nghiệm đã được tiến hành trong 3 buổi tối, trong
suốt thời gian này các nhóm quân nhân dự bị được gặp gỡ nhau.
Nhóm nghiên cứu về tương tác nhóm được tiến hành trong buổi tối đầu tiên,
trong khi đó một nửa số khách thể còn lại được tiến hành trong 2 buổi tối
khác.Khách thể được phân chia ra một cách bừa bãi trong mọi điều kiện ( tích
cực hoặc tiêu cực) và ở mỗi điều kiện được tính toán một cách xẫp xỉ cân bằng
nhau giữa mỗi buổi tối.
Có xẫp xỉ khoảng 100 khách thể được dẫn tới một hội trường lớn, ở đó một
trong chúng tôi ( P G Z) được giới thiệu là một người đến từ Quatermaster
Corps, có hứng thú về một vài khía cạnh liên quan đến thức ăn. Sau đó các
khách thể được yêu cầu làm một bài đánh giá về 9 điểm thái độ, đo mức độ thích
một số loại thức ăn trong đó có châu chấu rán ( được đặt ở giữa danh sách).
Trong khi nhóm thực nghiệm được đưa tới một phòng ở gần kề, thì nhóm đối
chứng cũng ngay lập tức được đưa tới hoặc ngay sau giờ nghỉ ở phòng thứ 3, ở
đó họ hoàn thành một thang đo vị trí tháI độ mà không có bất kỳ sự lôi kéo thúc
đẩy nào. ở đó cũng không có sự liên lạc nào giữa các khách thể người đã hoàm
thành thực nghiệm và những người đang chờ đợi để chuẩn bị làm thực nghiêm.
Nhà truyền thông ( trước khi được mô tả trước các khách thể nghiên cứu như là
“một nghiệm viên trưởng” và trợ lý của anh ta được mặc những cái áo khoác
trong phòng thí nghiệm, trong khi những đánh giá vvề cấp độ, vị trí tháI độ là rất
khác với khi nghiệm viên mặc comple.
ở nhóm nghiên cứu có sự tương tác nhóm thì 10 khách thể ngồi xung quanh một
cái bàn tròn, to, mọi người có thể nhìn rõ được nhau và nghiệm viên.
Trong nhóm đề cao cá nhân, cũng có 10 nghiệm thể cũng được tiến hành đồng
thời với nhóm kia nhưng sự tương tác nhóm được tối giản hơn bằng bức vách
ngăn giữa các nghiệm thể.
Sự khác nhau trong hành vi vai trò được thể hiện ngay khi nghiệm thể bước vào
phòng thí nghiệm. Ngay sau khi nghiệm thể hoàn thành bảng câu hỏi về tình
trạng đói và thói quen ăn uống, họ được nghe một bài diễn văn về những yêu
cầu của một quan đội năng động, và chứng kiến lỗi lầm của người trợ lý , thì
một đĩa thức ăn có 5 con châu chấu rán được đưa ra trước mặt mỗi nghiệm thể,
khi đó nghiệm viên ( người E) nói : “ Trước khi yêu cầu các bạn ăn thức ăn
trong thí nghiệm này, tôi muốn cho các bạn biết rõ rằng, một phần của thí
nghiệm này là màn tính chất tự nghiệp, và không ai phải ăn những con châu
chấu dấn nếu anh ta không muốn. Tuy nhien với mục đích nghiên cứu tôi rất
mong các bạn sẽ cố gắng ăn ít nhất là một con và sẽ thật tuyệt vời nếu bạn ăn
được hết cả đĩa.
Để khuyến khích các bạn , ngay bây giờ tôi sẽ trả 50cent cho một người nếu
người đó ăn đươc một con. Các bạn hãy đưa ra những quyết định ngay lúc này,
tôi sẽ tăng tiền cho đĩa ăn tiếp theo.
Những ai trong số các bạn đã sẵn sàng ăn châu chấu, làm ơn hãy thể hiện bằng
cách kéo đĩa thức ăn và tiền về phía bạn. Còn những ai chưa sẵn sàng, thì hãy
thử cố gắng một lần, còn nếu không thì để nguyên đĩa thức ăn ở vị trí của nó và
giơ tay lên đẻ biểu hiện là