Trong bài nghiên cứu này, chúng ta sẽ xem xét về tự do hoá dòng vốn và chế độ tỷ giá
hối đoái linh hoạt của 11 nền kinh tế Châu Á (Asia – 11). Châu Á đã làm chậm tiến
trình hội nhập tài chính về mặt pháp lý, tuy nhiên, trên thực tế thì quá trình này xảy ra
nhanh hơn. Trong khi đó, hầu hết các nước Châu Á đều sử dụng chế độ tỷ giá cố định,
thì trên thực tế lại có một sự gia tăng một cách chậm rãi về tính linh hoạt của tỷ giá.
Trên thực tế, sự kết hợp của quá trình này, hội nhập tài chính mà không có sự linh
hoạt lớn trong chế độ tỷ giá đã dẫn đến một chính sách tiền tệ thuận chu kỳ
(procyclical), khi dòng vốn thuận chu kỳ. Bài nghiên cứu này nhấn mạnh về sự cần
thiết của khuôn khổ chính sách tiền tệ phù hợp
25 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1604 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Asia Confronts the Impossible Trinity, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:
Asia Confronts the Impossible Trinity
Ila Patnaik and Ajay Shah
GVHD: TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO
LỚP: CHNH ĐÊM 2
DANH SÁCH NHÓM
1. Lê Ngọc Thanh Thảo
2. Trần Công Danh
3. Nguyễn Lâm Phú
4. Trần Thị Tuyết Nga
Tp Hồ Chí Minh, tháng 6/2013
Trang 2
Tóm tắt
Trong bài nghiên cứu này, chúng ta sẽ xem xét về tự do hoá dòng vốn và chế độ tỷ giá
hối đoái linh hoạt của 11 nền kinh tế Châu Á (Asia – 11). Châu Á đã làm chậm tiến
trình hội nhập tài chính về mặt pháp lý, tuy nhiên, trên thực tế thì quá trình này xảy ra
nhanh hơn. Trong khi đó, hầu hết các nước Châu Á đều sử dụng chế độ tỷ giá cố định,
thì trên thực tế lại có một sự gia tăng một cách chậm rãi về tính linh hoạt của tỷ giá.
Trên thực tế, sự kết hợp của quá trình này, hội nhập tài chính mà không có sự linh
hoạt lớn trong chế độ tỷ giá đã dẫn đến một chính sách tiền tệ thuận chu kỳ
(procyclical), khi dòng vốn thuận chu kỳ. Bài nghiên cứu này nhấn mạnh về sự cần
thiết của khuôn khổ chính sách tiền tệ phù hợp.
1. Giới thiệu
Toàn cầu hóa một mặt mang lại nhiều cơ hội cho các nước đang phát triển, nhưng
mặt khác cũng đặt các quốc gia vào những thử thách lớn trong việc thực thi chính
sách vĩ mô. Một trong số ấy là “Bộ ba bất khả thi”. Trên quan điểm của Bộ ba bất khả
thi, một quốc gia chỉ có thể đạt được hai điều sau tại bất kỳ thời gian nhất định: dòng
vốn di chuyển tự do, tỷ giá hối đoái cố định, và một chính sách tiền tệ độc lập. Đây
thật sự là một thách thức với các nền kinh tế mới nổi ở Châu Á, khi việc hội nhập sâu
ngày càng mạnh mẽ, các nước này dường như buộc phải để luồng vốn chu chuyển tự
do nhằm phục vụ nhu cầu thu hút vốn để phát triển, tuy nhiên các nước này cũng
muốn thực thi chính sách tỷ giá cố định nhằm đảm bảo chính sách ngoại thương. Hai
điều trên chắc chắn sẽ khiến quốc gia gặp khó khăn trong việc thực thi chính sách tiền
tệ độc lập.
Ngoại trừ các nước Châu Âu, các nước phát triển nhất có một dòng vốn di
chuyển tự do, tỷ giá hối đoái thả nổi, và một chính sách tiền tệ độc lập. Ở châu Á, ví
dụ như Hồng Kông, Trung Quốc có một tỷ giá hối đoái cố định, một dòng vốn di
chuyển tự do, và chính sách tiền tệ không độc lập. Tuy nhiên, nhìn chung các nền
kinh tế châu Á không có khung chính sách tiền tệ xác định , với hầu hết là sự kết hợp
giữ kiểm soát vốn và tỷ giá hối đoái thiếu linh hoạt. Điều này đặt ra câu hỏi thú vị về
Trang 3
sự điều hành của Nhà nước hiện tại về một chính sách tiền tệ khả thi ở Châu Á, và
nhấn mạnh sự cần thiết của một khung chính sách tiền tệ phù hợp.
Bài báo này tập trung vào 11 nền kinh tế lớn ở châu Á: Ấn Độ, Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa (PRC), Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Singapore,
Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines, Việt Nam và Hàn Quốc. Đây là một nhóm
rất không đồng nhất, từ thành phố-quốc gia như Singapore đến gã khổng lồ như Trung
Quốc và các nền kinh tế nghèo như Ấn Độ đến các nền kinh tế giàu có như Đài Bắc-
Trung Quốc hay Hàn Quốc. Gọi chung là các nền kinh tế như khu vực châu Á-11.
Phạm vi nghiên cứu: Tiến hành điều tra tại khu vực Asia - 11 đứng trên góc d độ
của bộ ba bất khả thi: kiểm soát vốn, chế độ tỷ giá hối đoái, và chính sách tiền tệ độc
lập. Chúng ta có được số liệu thống kê tóm tắt cho mười một nền kinh tế, và cũng tập
trung vào ba nền kinh tế lớn nhất: Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Kể từ khi các quốc gia thất bại vì không làm được những gì mình nói, bài viết
này tập trung vào thực tế hơn là kiểm soát vốn, chế độ tỷ giá có kiểm soát, và các
khuôn khổ chính sách tiền tệ. Cụ thể hơn, tác giả tập trung vào thực tế điều kiện cho
tự do hoá dòng vốn và tỷ giá hối đoái linh hoạt, và những ảnh hưởng của chúng đối
với chính sách tiền tệ được đo lường bằng lãi suất thực ngắn hạn.
2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây
Trong bài nghiên cứu 2008 thành tựu mà Aizenman, Chinn và Ito đạt được về
bộ ba bất khả thi. Menzie D. Chinn và Hiro Ito đã phát triển 3 thước đo để đánh giá
mức độ độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính. Và dựa trên 3 thước đo đó
để tìm hiểu về sự phát triển theo thời gian của từng chỉ số, cũng như cấu trúc mẫu
hình bộ ba bất khả thi sẽ thay đổi như thế nào sau mỗi sự kiện liên quan đến nền kinh
tế tài chính toàn cầu. Một điểm nổi bật khác của bài nghiên cứu đó là lần đầu tiên mối
quan hệ tuyến tính giữa các chính sách vĩ mô được Aizenman, Chinn và Ito xem xét
một cách nghiêm túc, từ đó đưa ra kết luận một cách chắc chắn về sự đánh đổi là bắt
buộc. Tiếp theo đó, từ các bằng chứng thực nghiệm, Aizenman, Chinn và Ito đã vạch
ra một con đường mới cho chính phủ các nước đang phát triển trong việc lựa chọn
mẫu hình bộ ba bất khả thi. Họ thấy rằng các nước đang phát triển, đặc biệt nước mới
Trang 4
nổi đã thể hiện một xu hướng mới khi đạt tới trạng thái trung gian giữa ba chính sách
mục tiêu: hội nhập tài chính nhưng không quên kiểm soát vốn, độc lập tiền tệ vừa
phải, và cơ chế tỷ giá biến động trong một biên độ mục tiêu cho phép bằng cách tăng
cường kho dự trữ ngoại hối như một công cụ để quản lý tỷ giá. Cuối cùng, bài nghiên
cứu này cũng cho thấy một sự tiến bộ hơn khi Aizen man, Chinn và Ito xem xét đến
những nguyên nhân tại sao một quốc gia lại lựa chọn con đường này mà không phải
con đường phát triển nào khác, tức động cơ dẫn đến quyết định mẫu hình bộ ba bất
khả thi ở mỗi quốc gia. Bằng cách kiểm định sự tác động của chính sách bộ ba bất khả
thi đến các biến hiệu suất vĩ mô của nền kinh tế, cụ thể là biến động sản lượng, biến
động lạm phát và tỷ lệ lạm phát trung hạn.
Đồng thời, dựa trên các lập luận của tác giả về việc đưa thêm nhân tố dự trữ
ngoại hối và xem xét nhiều tài liệu liên quan chúng tôi đưa ra phân tích về 3 vấn đề:
một là, tính lịch sử của việc gia tăng dự trữ ngoại hối và mẫu hình trung gian của bộ
ba bất khả thi ở các quốc gia đang phát triển; hai là, vai trò của dự trữ ngoại hối trong
việc lựa chọn bộ ba bất khả thi đối với nền kinh tế mở; cuối cùng, là phân tích chi phí
và lợi ích của việc nắm giữ dự trữ ngoại hối nhằm đánh giá sơ bộ độ bền của mẫu
hình kim cương.
Trong thời kì mà lạm phát đang trở thành vấn đề nhức nhối, nhất là ở các nước
đang phát triển thì chính sách lạm phát mục tiêu có thể là một lựa chọn tốt.
3. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
3.1 Mô hình quản lý kiểm soát vốn : Cơ sở dữ liệu Chinn-Ito
Sử dụng phân tích thành phần chính, Chinn và Ito (2008) đã xây dựng một cơ
sở dữ liệu kiểm soát vốn dựa trên thông tin được cung cấp bởi các nền kinh tế đến cơ
sở dữ liệu AREAR Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Cơ sở dữ liệu xác định một điểm hàng
năm cho mỗi nền kinh tế, với các giá trị khác nhau, từ -1.81 với các tài khoản vốn
hoàn toàn đóng cửa, đến 2,53 cho những nền kinh tế tự do hóa hoàn toàn.
Mặc dù cơ sở dữ liệu thường được sử dụng để phân tích viêc kiểm soát vốn hợp pháp,
nó có những hạn chế nhất định. Đầu tiên, nó không phản ánh được hết việc nới lỏng
dần kiểm soát vốn, vì nó tiếp tục sẽ cung cấp những chỉ số tương tự nếu các điều kiện
Trang 5
không được loại bỏ. Thứ hai, chỉ số tăng đáng kể ở hầu hết các nước công nghiệp lớn
trong những năm gần đây, khi họ giới thiệu các biện pháp liên quan đến phòng chống
rửa tiền, tài trợ chống khủng bố.....
Hình 1: Tỷ trọng của đo lường theo chỉ số Chinn-Ito trên tất cả các nền kinh tế:
Năm 1970 và 2007
Biểu đồ này cho thấy mật độ phân bố các chỉ số theo phươg pháp đo lường
Chinn-Ito trong việc hợp pháp độ mở của tài khoản vốn trong tất cả các nền kinh tế.
Các line màu xanh và màu đỏ cho thấy các điều kiện trong năm 1970 và 2007. Cả hai
phân phối là hai đỉnh, với nhóm các nền kinh tế mở và một nhóm các nền kinh tế
đóng cửa. Hiện đã có một sự thay đổi đáng kể trong xác suất từ bên trái (chủ yếu là
đóng cửa) đến phần bên phải (chủ yếu là mở). Biểu đồ này cho chúng ta một khung
tham khảo để giải thích thông tin từ cơ sở dữ liệu Chinn-Ito.
Cơ sở dữ liệu Chinn-Ito cho thấy rằng trong những năm qua, hầu hết các quốc
gia trên thê giới đã nới lỏng việc kiểm soát tài khoản vốn. Hình 1 cho thấy mật độ các
điểm của phương pháp Chinn-Ito của các nền kinh tế cho năm 1970 và năm 2007.
Trong cả hai năm, mật độ là hai đỉnh, gồm một nhóm các nền kinh tế với các tài
khoản vốn mở và một nhóm các nền kinh tế với tài khoản vốn đóng . Điều này thể
hiện một sự thay đổi chung từ chủ yếu là đóng cửa sang mở cửa
Trang 6
3.2 Cơ sở dữ liệu Lane và Milesi-Ferretti
Phương pháp thứ hai để đo trên thực tế hội nhập vào nền kinh tế thế giới sử
dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu Lane và Milesi-Ferretti (Lane và Milesi-Ferretti 2007).
Phương pháp đo lường cổ phiếu của tài sản và nợ trong nước nước ngoài, bằng cách
tổng hợp các dòng trên cán cân thanh toán. Đây là một cơ sở dữ liệu có giá trị ở chỗ
nó đo lường kết quả của kiểm soát vốn như được phản ánh trong cán cân thanh toán.
Tuy nhiên, nó không đo dòng vốn diễn ra thông qua các cơ chế như thương mại
không chính thức.
Hình 2: Tỷ trọng của Lane và Milesi-Ferreti Đo trên tất cả các nền kinh tế:
1970 so với 2007
Biểu đồ này cho thấy mật độ tập trung của các chỉ số Lane và Milesi-Ferreti
trên thực tế của tài khoản vốn mở cho tất cả các nền kinh tế. Các đường màu xanh và
màu đỏ cho thấy các điều kiện trong năm 1970 và 2007. Không giống như các kết quả
báo cáo trong hình 1 của phương pháp Chinn-Ito của độ mở tài khoản vốn, hầu hết
các nền kinh tế chủ yếu đóng cửa vào năm 1970, nhưng đến năm 2007, xu hướng này
đã đảo chiều. Biểu đồ này cho chúng ta một khuông khổ để giải thích thông tin về
Châu Á-11 từ Lane và cơ sở dữ liệu Milesi-Ferreti.
Cơ sở dữ liệu này cho thấy rằng trong những năm qua, trên thực tế đã bải bỏ đáng kể
kiểm soát vốn trên toàn thế giới. Hình 2 cho thấy thấy mật độ tập trung của các chỉ số
Trang 7
Lane và phương pháp Milesi-Ferreti cho tất cả các nền kinh tế. Trái với kết quả báo
cáo trong hình 1, tất cả các nền kinh tế đã chuyển từ tài khoản vốn đóng sang tài
khoản vốn mở với các mức độ khác nhau. Hơn nữa, không có giáo đoàn kinh tế ở bất
kì cấp độ mở nào, không có sự đồng thuận rộng rãi về mức độ "thích hợp" của sự mở
cửa. Nền kinh tế tiếp tục tự do hóa nhanh chóng.
3.3 Mô hình Dorrucci, Meyer-Circel, và Santabarbara (2009)
Mức độ kiểm soát vốn có hiệu quả giúp phát triển khu vực tài chính trong
nước. Tăng sự phức tạp trong hệ thống tài chính có xu hướng làm xói mòn hiệu quả
của kiểm soát vốn theo thời gian. Khi suy nghĩ về hiệu quả của hợp pháp kiểm soát
vốn, điều quan trọng là phải nhìn vào khả năng của hệ thống tài chính trong nước.
Để làm điều này, chúng ta nhắc đến Dorrucci, Meyer-Circel, và Santabarbara (2009),
người đã phát triển một cơ sở dữ liệu vào sự phát triển lĩnh vực tài chính trong 26 nền
kinh tế mới nổi. Điều này bao gồm tất cả các nền kinh tế Châu Á-11, bao gồm Việt
Nam. Các giá trị của chỉ số này từ 0 (không phát triển hệ thống tài chính trong nước)
đến 1 (hệ thống tài chính trong nước rất có khả năng).
3.4 Mô hình Frankel-Wei
Trong thập kỷ qua, các tài liệu đã cho thấy rằng trong nhiều nền kinh tế, trên
văn bản chế độ tỷ giá hối đoái mà ngân hàng trung ương công bố thì khác nhau đáng
kể so với thực tế thị trường. Điều này đã thúc đẩy một nghiên cứu nhỏ về phương
pháp hướng dữ liệu để phân loại chế độ tỷ giá hối đoái (Reinhart và Rogoff 2004;
Levy-Yeyati và Sturzenegger 2003; Calvo và Reinhart 2002).
Một công cụ có giá trị cho sự hiểu biết trên thực tế chế độ tỷ giá hối đoái là một mô
hình hồi quy tuyến tính dựa trên tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền. Sử dụng từ
Haldane và Hall (1991), mô hình này đã được phổ biến bởi Frankel và Wei (và do đó
cũng được gọi là mô hình Frankel-Wei). Các ứng dụng gần đây của chiến lược này
bao gồm dự toán Bénassy-Quéré, Coeuré, và Mignon (2006), Shah, Zeileis, và
Patnaik (2005) và Frankel và Wei (2007). Trong phương pháp này, một loại tiền tệ
độc lập như đồng Franc Thụy Sĩ (CHF) được chọn là một tùy ý “numeraire”. Nếu ước
tính bằng cách sử dụng đồng rupee Ấn Độ (INR), mô hình ước tính là:
Trang 8
Hồi quy này chọn mức độ mà tỷ lệ INR / CHF dao động để đáp ứng với sự
biến động của USD / CHF tỷ lệ. Nếu nó được neo giữ tỷ giá với Đô la Mỹ (USD), thì
biến động của đồng Yên Nhật (JPY) và Đức Deutsche Mark (DEM) sẽ bằng không.
Nếu không có neo giữ tỷ giá, thì cả ba bản thử nghiệm sẽ khác 0. Các R2 của hồi quy
này cũng được quan tâm, giá trị gần 1 sẽ giảm tính linh hoạt tỷ giá hối đoái.
Để hiểu được thực tế chế độ tỷ giá hối đoái trong một quốc gia nhất định tại
một khoảng thời gian nhất định, các nhà nghiên cứu và các học viên có thể dễ dàng
kết hợp các số liệu có được với mô hình hồi quy phù hợp, hoặc sử dụng kỹ thuật lọc
dữ liệu. Tuy nhiên, một chiến lược như vậy thiếu một khuôn khổ suy luận chính thức
để xác định những thay đổi trong chế độ. Điều này đã thúc đẩy sự mở rộng của kinh tế
trong sự thay đổi cấu trúc, với mục đích phân tích sự thay đổi cấu trúc trong mô hình
Frankel-Wei (Zeileis, Shah và Patnaik 2008). Điều này liên quan đến việc mở rộng
phương pháp Perron-Bai (Bai và Perron 2003) để xác định ngày thay đổi cấu trúc
trong một hồi quy OLS. Thông qua dó, ngày của sự thay đổi cấu trúc trong chế độ tỷ
giá hối đoái được xác đ ịnh. Chúng tôi tập trung vào giai đoạn sau năm 1976, và sử
dụng thay đổi hàng tuần trong tỷ giá hối đoái đối với các ước tính. Giá trị trong ngoặc
là thống kê t.
Đối với mỗi quốc gia, một tập hợp các khoản thời gian được xác định. Trong
mỗi phân kỳ, R2 của hồi quy phục vụ như là một thống kê tóm tắt các tính linh hoạt tỷ
giá hối đoái. Giá trị gần 1 là tỷ giá cố định. Tỷ giá thả nổi có giá trị từ 0,4-0,5.
Sử dụng hệ thống phân loại này, chúng ta có thể làm như sau:
• Đo lường và định lượng các cấu trúc của cơ chế trung gian sử dụng một phương
pháp giá trị thực về tỷ giá kém linh hoat (R2 hồi quy), để nhận thấy giá trị của tỷ giá
linh hoạt
• Xác định ngày mà chế độ tỷ giá hối đoái thay đổi. Chúng tôi thực hiện những
phương pháp sử dụng phần trăm thay đổi hàng tuần trong tỷ giá hối đoái, mà giải
quyết trong tuần.
Trang 9
• Xác định số lượng các vi phạm và các vị trí của phạm dựa trên các thủ tục suy luận
âm thanh.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1 Kiểm soát dòng vốn
Trong các chỉ số đo lường bộ ba bất khả thi, khó nhất là đo lường mức độ hội
nhập tài chính, tức là đo lường mức độ mà một quốc gia tiến hành kiểm soát vốn. Chỉ
số độ đo lường kiểm soát vốn được nhắc tới nhiều nhất hiện nay chính là KAOPEN
do Chin và Ito đề xuất. KAOPEN dựa trên thông tin trong báo cáo hàng năm về cơ
chế tỷ giá và những hạn chế ngoại hối do IMF phát hành (Annual Report on Exchange
Arrangements and Exchange Restrictions - AREAER). Do đó, KAOPEN chỉ cho thấy
một quốc gia về mặt pháp lý (de jure) có tiến hành các chính sách kiểm soát vốn hay
không. Ngoài cách đo lường các mục tiêu của bộ ba theo Chinn và Ito, một còn có
một số thước đo khác như Lane và Milesi-Ferretti (2006) đề xuất đo lường hội nhập
tài chính trên thực tế bằng tỷ lệ tổng nợ và tài sản nước ngoài trong cán cân thanh
toán.
Hình 3: Giá trị trung bình cho khu vực Asia 11 trừ Việt Nam từ 1998 - 2008
Nguồn: cơ sở dữ liệu Chinn – Ito
Trang 10
Hình 4: Giá trị trung bình cho khu vực Asia 11 từ 1994 - 2004
Nguồn : Cơ sở dữ liệu : Lane and Milesi-Ferretti
Trong khi giá trị của trung bình thì tăng mạnh, còn trung bình cộng lại không
tăng mạnh như vậy, điều này cho thấy một nhóm nhỏ của nền kinh tế đã chủ động hội
nhập vào nền kinh tế thế giới (Hong Kong, Singapore), trong khi những nhóm khác
lại chậm hơn (Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, …)
Bảng 1
Nguồn: cơ sở dữ liệu Chinn – Ito và tính toán của tác giả
Trang 11
Bảng 2
Nguồn : Cơ sở dữ liệu : Lane and Milesi-Ferretti 2007 và tính toán của tác giả
Theo bảng cở sở dữ liệu của Chinn Ito thì mức độ hội nhập tăng trưởng trung
bình của Ấn Độ tăng 56% của GDP, từ năm 2000 đến năm 2008, Trung Quốc, Hàn
Quốc và giá trị trung bình của khu vực Châu Á cũng có xu hướng tăng tương tự là
30%, 69% và 45%.
Theo bảng cở dữ liệu của Lane và Milesi – Ferrentii thì mức độ hội nhập trung
bình của Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc tăng từ 2000 – 2004 lần lượt là 16%, 18% và
26%. Riêng giá trị trung bình của khu vực Asia 11 lại đạt một giá trị rất lớn vào năm
2004 là 356% GDP, tăng 55% từ 2000 – 2004.
Như vậy, dù tính theo phương pháp của Chinn Ito hay Lane và Milesi – Ferrentii, tuy
kết quả về giá trị có phần khác nhau, nhưng nhìn chung lại đều thấy được sự tăng
trưởng trong mức độ hội nhập của khu vực Asia 11, một phần trong sự tăng trưởng
này là nhờ các nền kinh tế nhỏ và mở cửa như Hong Kong và Singapore.
Cả cơ sở dữ liệu của Chinn Ito và cơ sơ dữ liệu của Lane và Milesi Ferrenti
đều cho thấy rằng trên thực tế đã có 1 sự bỏ qua việc kiếm soát vốn một cách đáng kể
trên toàn thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế đã có một sự tiến bộ đáng kể trong việc hội
nhập của các nước trong khu vực Asia 11 từ năm 2000. Như vậy, nếu như có một sự
Trang 12
kiểm soát về mặt pháp lý thì khu vực Asia – 11 sẽ hội nhập một cách nhanh chóng
vào nền kinh tế thế giới.
Không chỉ đo lường mức độ hội nhập trên thế giới, mà mức độ kiểm soát vốn
cũng có ảnh hưởng đến hiệu quả của việc phát triển khu vực tài chính trong nước.
Dorrucci, Meyer-Circel, và Santabarbara (2009) đã đánh giá mức độ hội nhập tài
chính bằng việc phát triển một cơ sở dữ liệu với bảng dữ liệu dựa vào các số liệu
trong lĩnh vực tài chính của 26 nền kinh tế mới nổi (bao gồm cả Asia – 11)
Hình 5: Giá trị trung bình của Dorrucci, Meyer-Circel, và Santabarbara (2009)
đo lường sự phát triển của khu vực tài chính trong nước cho Asia – 11
Trong cả 2 phương pháp (the mean and the median) chúng ta thấy được một sự
tăng trưởng của hệ thống tài chính trước thời kỳ khủng hoảng tài chính Châu Á, sau
đó là một chu kỳ suy thoái. Từ năm 2000 trở đi, cả hai pháp mới cho thấy được xu
hướng tăng trưởng trở lại.
Bảng 3 cho thấy giá trị bằng số trong việc đo lường giá trị trung bình của nền
kinh tế của Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc và khu vực Asia – 11. Giá trị trung bình
của Asia – 11 đạt đỉnh điểm là 0.55 vào năm 1995. Nhưng do hậu quả của cuộc khủng
hoảng, con số này đã rớt mạnh còn 0.45 vào năm 2000. Tuy nhiên. đến năm 2001, nền
kinh tế đã bắt đầu phục hồi lại, và đạt được giá trị trung bình là 0.51 vào năm 2006.
Điều này cho thấy, việc kiểm soát vốn về mặt pháp lý đã có ảnh hưởng hơn vào
Trang 13
khoảng giữa năm 1998 – 2004, khi mà chỉ số trung bình đo khả năng của hệ thống tài
chính đang ở mức thấp. Mặc dù, từ năm 2000 trở đi, Ấn Độ và Trung Quốc đã có sự
tăng trưởng, tăng 5%, nhưng vẫn còn tụt hậu so với trung bình của khu vực Asia – 11.
Thậm chí, Hàn Quốc là nước có sự phát triển tương đối khá trong khu vực, đạt 0.6
vào năm 2006 , nhưng vẫn còn tụt hậu so với các nền kinh tế phát triển OECD như
Anh Quốc.
Bảng 3: Chỉ số đo khả năng của hệ thống tài chính
OECD là tên viết tắt của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Cooperation and
Development), thành lập năm 1961 trên cơ sở Tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu Âu (OEEC) với 20 thành viên sáng lập gồm
các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới như Mỹ, Canada và các nước Tây Âu. Hiện nay, số thành viên của OECD là
30 quốc gia, gồm Mỹ, Canada, Áo, Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hy Lạp, Iceland, Ireland, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy,
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Nhật Bản, Phần Lan, Úc, New Zealand, Hàn Quốc,
Mexico, Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan, Cộng hòa Slovakia.
Mục tiêu ban đầu của OECD là xây dựng các nền kinh tế mạnh ở các nước thành viên, thúc đẩy và nâng cao hiệu
quả kinh tế thị trường, mở rộng thương mại tự do và góp phần phát triển kinh tế ở các nước công nghiệp. Những năm gần
đây, OECD đã mở rộng phạm vi hoạt động, chia sẻ kết quả nghiên cứu và kin