Tiểu luận Biến đổi khí hậu và du lịch sinh thái biển Vũng Tàu

Hiểm họa biến đổi khí hậu toàn cầu đã được Liên hiệp quốc quan tâm, thể hiện ở việc đưa ra Nghị định thư Kyoto (1997) nhằm giảm khí thải gây ra hiệu ứng nhà kính, đẩy nhanh tốc độ nóng lên của khí hậu, mà nguyên thủ 165 nước, trong đó có Việt Nam, đã phê chuẩn. Hiện tượng lạnh đi và nóng lên của khí hậu Trái đất dẫn đến sự hình thành các thời kỳ băng hà và gian băng trong lịch sử Trái đất kỷ Đệ tứ, đã được các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam ghi nhận với nhiều bằng chứng cụ thể. Nếu con người không hạn chế các tác động xấu đến môi trường, không quan tâm nghiên cứu nhằm đề ra các biện pháp phòng tránh hữu hiệu cho dân tộc mình, thì hệ lụy có thể nói là khó lường. Trong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã và đang trải qua các biến động bất thường của khí hậu toàn cầu. Trên bề mặt Trái đất, khí quyển và thủy quyển không ngừng nóng lên làm xáo động môi trường sinh thái, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy với đời sống loài người.

doc34 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2459 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Biến đổi khí hậu và du lịch sinh thái biển Vũng Tàu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG Tiểu luận: Sinh viên: Nguyễn Thị Xuân Linh MSSV: 0770302 GVHD: GSTSKH Lê Huy Bá LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến ban Giám hiệu trường đã tạo điều kiện, cơ sở vật chất hiện đại, thư viện trường đầy đủ tài liệu, phương tiện hữu ích nhất để chúng em có thể tìm thấy tài liệu dễ dàng. Thầy Lê Huy Bá cùng đồng hành với chúng em rất vất vả trong thời gian vừa qua và cũng chính là người đã cho chúng em cơ hội để làm bài tiểu luận này để hiểu rõ hơn về vấn đề ô nhiễm môi trường đang đe dọa nhân lọai chúng ta. Cụ thể là vấn đề biến đổi khí hậu và du lịch sinh thái biển Vũng Tàu. Cuốn tiểu luận này còn rất nhiều thiếu sót mong thầy chỉ sửa cho em. Em chân thành cảm ơn! LỜI MỞ ĐẦU. Hiểm họa biến đổi khí hậu toàn cầu đã được Liên hiệp quốc quan tâm, thể hiện ở việc đưa ra Nghị định thư Kyoto (1997) nhằm giảm khí thải gây ra hiệu ứng nhà kính, đẩy nhanh tốc độ nóng lên của khí hậu, mà nguyên thủ 165 nước, trong đó có Việt Nam, đã phê chuẩn. Hiện tượng lạnh đi và nóng lên của khí hậu Trái đất dẫn đến sự hình thành các thời kỳ băng hà và gian băng trong lịch sử Trái đất kỷ Đệ tứ, đã được các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam ghi nhận với nhiều bằng chứng cụ thể. Nếu con người không hạn chế các tác động xấu đến môi trường, không quan tâm nghiên cứu nhằm đề ra các biện pháp phòng tránh hữu hiệu cho dân tộc mình, thì hệ lụy có thể nói là khó lường. Trong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã và đang trải qua các biến động bất thường của khí hậu toàn cầu. Trên bề mặt Trái đất, khí quyển và thủy quyển không ngừng nóng lên làm xáo động môi trường sinh thái, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy với đời sống loài người. Các công trình nghiên cứu quy mô toàn cầu về hiện tượng này đã được các nhà khoa học ở những trung tâm nổi tiếng trên thế giới tiến hành từ đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX. Hội nghị quốc tế do Liên hiệp quốc triệu tập tại Rio de Janeiro năm 1992 đã thông qua Hiệp định khung và Chương trình hành động quốc tế nhằm cứu vãn tình trạng “xấu đi” nhanh chóng của bầu khí quyển Trái đất, vốn được coi là nguyên nhân chủ yếu của sự gia tăng hiểm họa. Tổ chức nghiên cứu liên chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc (IPCC) đã được thành lập, thu hút sự tham gia của hàng ngàn nhà khoa học quốc tế. Tại Hội nghị Kyoto năm 1997, Nghị định thư Kyoto đã được thông qua và đầu tháng 2/2005 đã được nguyên thủ 165 quốc gia phê chuẩn. Nghị định thư này bắt đầu có hiệu lực từ 10/2/2005. Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto ngày 25/9/2005. Mới đây, hội nghị lần thứ 12 của 159 nước tham gia hiệp định khung về khí hậu, phiên họp thứ 2 của các bên tham gia Nghị định thư Kyoto đã được Liên hiệp quốc tổ chức tại Nairobi, thủ đô Kenya. Trong khung cảnh thế giới và Việt Nam, em thực hiện cuốn tiểu luận này nhằm hiểu rõ hơn về vấn đề biến đổi khí hậu và tác động của nó. Cuốn tiểu luận này không thể tránh khỏi thiếu xót mong thầy chỉ dẫn cho em. PHẦN MỞ ĐẦU. Thực vật và động vật rất nhạy cảm với thời tiết. Khi thời tiết biến đổi, các loài không thể sống sót được ở một số vùng và sẽ di cư đến các vùng mới . Nếu không có vị trí nào thích hợp, loài sẽ bị tuyệt chủng khi không thể thích nghi kịp. Khí hậu trong quá khứ đã có những thay đổi rất đột ngột. Những phản ứng của các quần xã sinh vật trước những biến đổi này đã được tìm hiểu qua việc phân tích các vòng tuổi cây, lõi băng, các trầm tích của phấn hoa, than chì, động vật không xương sống và các nguyên tố hoá học. Một số các biến đổi thời tiết bất ngờ, xảy ra trong một vài thập kỷ hoặc thế kỷ, một số trong đó có liên quan đến những thời kỳ có sự tuyệt chủng hàng loạt. Những sự chuyển dịch quan trọng về ranh giới giữa các rừng lãnh nguyên và rừng phương bắc, giữa vùng rừng và vùng đồng cỏ, giữa vùng Hồ Lớn - rừng St. Lawrence và vùng rừng phương bắc đã xảy ra từ thời kỳ băng hà trước đây . Những sự chuyển dịch này tương ứng với những biến đổi khí hậu và có thể được coi là sự biểu hiện của các trường hợp biến đổi khí hậu toàn cầu . Lửa là một sự xáo trộn có liên quan đến khí hậu, gây ra những biến đổi chính đối với các khu rừng ở phía bắc. Những trận cháy là công cụ để tạo nên hình dạng của thảm thực vật của vùng Quebec ở phía bắc, và những trận cháy này cũng có phần lớn nguyên nhân do khí hậu . Khí hậu hiện nay, cùng sự thất thường và khắc nghiệt của nó, hiển nhiên có những ảnh hưởng đối với các hệ sinh thái . Ví dụ, mùa hè năm 1988, được chứng minh là một trong những trận hạn hán tồi tệ nhất trong lịch sử, đặc biệt ở các thảo nguyên của Canada, và số lượng chim nước đã giảm rất nhiều trong suốt thời kỳ khô hạn của những năm 1980. Gần đây, sự phóng xạ của các tia tử ngoại tăng lên do những biến đổi của tầng ô zôn trong tầng bình lưu đã được phát hiện, và đã có những chứng cứ ban đầu về gây tổn hại đối với mùa màng nông nghiệp, đối với thực vật, động vật ở các vùng đất ngập nước, các ao nông và các môi trường biển gần bờ. Các nhà khoa học đã có những thống nhất chung về việc khí hậu toàn cầu sẽ ấm lên bởi sự tăng lên về nồng độ của các khí "nhà kính", như cacbon dioxit, metan, là kết quả các hoạt động của con người . Xu hướng ấm lên của khí hậu trong tương lai này làm gia tăng sự nghi ngờ về tính ổn định của nhiều quần xã sinh vật ở Canada và các hoạt động quản lý được tiến hành trong phạm vi tính biến thiên khí hậu hiện nay. Các nghiên cứu trước mắt về các ảnh hưởng có thể của sự biến đổi khí hậu đối với các hệ sinh thái Canada đã đưa đến 2 kết luận chính. Thứ nhất, tốc độ dự đoán của quá trình ấm lên toàn cầu là tương đối nhanh, có thể so sánh với thời kỳ địa chất trước đây, kết quả gây thiệt hại trong phạm vi lớn đối các quần xã thực vật sinh trưởng chậm, không thể thích nghi trong cùng một khoảng thời gian. Ví dụ, vùng rừng phương bắc có thể mất đi một triệu cây số vuông. Thứ hai, cùng với sự ấm lên toàn cầu sẽ đưa đến sự thay đổi, thường là tăng, về tần số xuất hiện của những xáo trộn do khí hậu khắc nghiệt chẳng hạn như cháy, côn trùng, bệnh tật, hạn hán và sương giá. Các trường hợp này được cho rằng quan trọng hơn những biến đổi nhiệt độ trung bình toàn cầu trong những ảnh hưởng kết hợp đối với đa dạng sinh học. Thay đổi khí hậu còn là phương tiện của sự phát tán các chất gây ô nhiễm. Sự ô nhiễm không khí một mình hoặc kết hợp với sự biến đổi khí hậu có khả năng gây ra những ảnh hưởng bất lợi cho đa dạng sinh học ở mọi cấp độ. Các ảnh hưởng này, không giống sự phá huỷ nơi cư trú, khó phát hiện, có mối tương quan với nhau và khó đánh giá. Axit lắng đọng là chất ô nhiễm không khí gây ra những biến đổi lớn nhất ở phạm vi rộng đối với đa dạng sinh học ở Canada . Những ảnh hưởng đối với đa dạng sinh học của những chất ô nhiễm không khí khác như ôzôn, nitrogen oxit, hợp chất hữu cơ dễ bay hơi, các hoá chất độc hại thường ít được biết đến. NỘI DUNG Tai họa khí hậu đang lăm le ở chân trời sẽ ảnh hưởng đến tòan bộ hành tinh của chúng ta. Thiệt hại về môi trường không còn giới hạn đến một vùng hay một địa phương đặc biệt nào mà sẽ đe dọa đến tất cả nhân loại. Mỗi nước riêng rẽ trên trái đất ít nhiều cũng dính dáng đến viêc phá hủy tài nguyên chung – điều kiện tiên quyết đối với cuộc sống của chúng ta. Cùng lúc đó, mỗi nước sẽ bị tai họa khí hậu đang đe dọa tác động. I. SƠ LƯỢC. 1. Những dấu hiệu đầu tiên của sự thay đổi khí hậu Những quan sát được thực hiện từ 30 – 50 năm qua cho thấy rõ rằng khí hậu tòan cầu đang bắt đầu thay đổi. Điều này được chứng minh bằng những quan sát sau đây: Nhiệt độ bề mặt đại dương vùng nhiệt đới tăng lên 0,50C. Có sự tăng lên về sự tích tụ hơi nước trên tầng đối lưu ở bầu khí quyển vùng nhiệt đới. Ở lớp giữa của tầng đối lưu, sức nóng giới hạn đang tăng lên. Gradien độ nhiệt giữa xích đạo và vùng cực tăng lên. Vận tốc gío trung bình tăng lên. Những vùng áp suất thấp hầu như đứng yên. Nhiệt độ trung bình của trái đất hiện nay cao hơn khỏang 0,70C so với năm 1960. Trong cùng thời gian đó, khối nước của các sông băng trong đất liền ở vùng Alps đã giảm xuống 50%. 2. Kiến thức và các bằng chứng tìm được về “hiệu ứng nhà kính” ngày càng tăng. Trong những năm qua, sự hiểu biết về hiệu ứng nhà kính tăng lên một cách đều đặn. Việc tập trung ngày càng tăng các loại gây hiệu ứng nhà kính trong thời gian dài chẳng hạn như: cacbon dioxid, metan, oxit nitric và clo florua cacbon vẫn tiếp diễn không giảm sút. Chất khí quan trọng nhất gây hiệu ứng nhà kính là cacbon dioxid có tỷ lệ pha trộn trong tầng đối lưu là 355 ppmv, cao hơn bất cứ thời gian nào trong suốt 160.000 năm qua. Cacbon dioxid đóng vai trò 50% hiệu ứng nhà kính, trong đó metan là 13%, ozon tầng đối lưu 7%, nitơ 5%, tất cả CFC 22%, hơi nước tầng bình lưu 3%. Trong vòng 100 – 200 năm sau, sự tăng lên về quá trình tập trung trong khí quyển các loại khí gây hiệu ứng nhà kính sẽ có tác động rất lớn đối với khí hậu hơn bất kì nhân tố nào khác kể cả núi lửa hay sự thay đổi bức xạ mặt trời, ngòai trừ vài vấn đề liên quan đến sự góp phần ảnh hưởng của các đám mây. Bây giờ người ta đã hiểu được các cơ chế phản hồi chủ yếu xảy ra bên trong hệ thống khí hậu, quá trình tập trung CO2 có khả năng sẽ tăng lên gấp đôi vào khỏang giữa đầu thế kỉ sau. Điều này sẽ đẩy mạnh hơn nữa sự tăng lên của nhiệt độ trung bình của trái đất ( tới mức 0,30C mỗi thập kỉ ) sẽ gây ra sự thay đổi sâu sắc trong việc phân bố, lương mưa theo không gian và thời gian, các trận mưa bất thường và lụt lớn sẽ xảy ra ở khắp nơi trên thế giới. II. HIỆN TƯỢNG VÀ BẢN CHẤT TĂNG NHIỆT ĐỘ BỀ MẶT TRÁI ĐẤT Các báo cáo của IPCC và nhiều trung tâm nghiên cứu có uy tín hàng đầu trên thế giới công bố trong thời gian gần đây cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin và dự báo quan trọng. Theo đó, nhiệt độ trung bình trên bề mặt địa cầu ấm lên gần 1°C trong vòng 80 năm (từ 1920 đến 2005) và tăng rất nhanh trong khoảng 25 năm nay (từ 1980 đến 2005). Mới đây, ông Mark Lowcok, quan chức của Bộ Phát triển Quốc tế Anh đã đến thăm Việt Nam và có buổi thuyết trình về “Báo cáo Stern” do các nhà khoa học Anh xây dựng, được chính phủ Anh công bố về vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu. Báo cáo cho rằng nếu không thực hiện được chương trình hành động giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính theo Nghị định thư Kyoto, đến năm 2035 nhiệt độ bề mặt địa cầu sẽ tăng thêm 2°C. Về dài hạn, có hơn 50% khả năng nhiệt độ tăng thêm 5°C. Hiện tại, Trái đất đang từng ngày từng giờ nóng lên với tốc độ như vậy với chiều hướng có thể còn nhanh hơn nữa. Vậy, nguyên nhân nào đã gây ra hiện tượng vỏ Trái đất ấm lên ? Dưới đây tổng hợp những kiến giải chính rút ra từ các công trình nghiên cứu và kết quả thảo luận ở các hội nghị quốc tế. Loại ý kiến thứ nhất được đại đa số các nhà khoa học nhất trí, đó là việc tăng hàm lượng khí CO2 và các loại khí thải tạo hiệu ứng nhà kính do hoạt động con người gây ra trong bầu khí quyển Trái đất. Nguyên nhân này chiếm 90, thậm chí 99% mức gia tăng của nhiệt độ bề mặt Trái đất hiện đang được báo động. Rõ ràng mối liên quan giữa quá trình gia tăng hàm lượng CO2 và các khí thải gây hiệu ứng nhà kính do con người gây ra với sự gia tăng nhiệt độ bề mặt Trái đất đã được minh chứng qua các số liệu mấy thế kỷ và nhất là trong vài thập kỷ gần đây. Nhiệt độ bề mặt Trái đất có được là nhờ hấp thụ nhiệt từ Mặt trời và nhận dòng nhiệt của chính mình tỏa ra từ bên trong lòng đất. Sự có mặt của một hàm lượng khí CO2 cần thiết trong bầu khí quyển vốn là tấm áo giáp ngăn chặn bức xạ nhiệt (bức xạ hồng ngoại) từ Trái đất thoát vào vũ trụ mênh mông lạnh lẽo. Thiếu nó thì mặt đất sẽ không có được một nhiệt độ điều hòa cho sự sinh sôi phát triển sự sống. Các công trình nghiên cứu áp dụng công nghệ hiện đại cho chúng ta biết suốt thiên niên kỷ trước khi có cuộc cách mạng công nghiệp, hàm lượng khí CO2 trong khí quyển dao động ở mức 280 phần triệu (ppm). Tuy nhiên, tính từ đầu thế kỷ XIX đến nay hàm lượng đó đã tăng liên tục đến 360 ppm. Số liệu quan trắc trong 4 thập kỷ gần đây cho thấy, cứ mỗi thập kỷ hàm lượng CO2 trong khí quyển lại tăng 4%. Nói cách khác, hiệu ứng nhà kính do khí CO2 gây ra là quá mức cần thiết, gây tăng nhanh nhiệt độ bề mặt địa cầu kéo theo nhiều hệ lụy như đã nêu trên. Tôi cho rằng những cứ liệu và luận giải đã được nêu ra là đầy sức thuyết phục. Điều đáng tiếc là cho đến nay, Hoa Kỳ là nước xả khí thải gây hiệu ứng nhà kính nhiều nhất vào khí quyển (trên 30% tổng khí thải công nghiệp) vẫn chưa phê chuẩn Nghị định thư Kyoto. Loại ý kiến thứ hai tuy thừa nhận vấn đề gia tăng nhiệt độ do hiệu ứng nhà kính, song cho rằng cần nhấn mạnh hơn đến chu kỳ nóng lên của Trái đất do hoạt động nội tại. Hiện tượng nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên và lạnh đi vốn là hiện tượng tự nhiên xảy ra có tính chu kỳ trong lịch sử hình thành và phát triển của Trái đất. Không phải chỉ bây giờ, lịch sử Trái đất hàng triệu triệu năm đã trải qua nhiều lần nóng lên rồi lại lạnh đi kéo theo những biến động to lớn trong đời sống sinh vật trên Trái đất, làm thay đổi cả diện mạo địa hình lục địa và đại dương. Tính từ 1,6 triệu năm đến nay đã có 5-6 chu kỳ biến động lớn. Đó là các thời kỳ băng hà kéo theo mực nước biển hạ thấp (biển lùi) và các thời kỳ gian băng (băng tan) kéo theo mực nước biển dâng cao (biển tiến). Vào các thời kỳ băng hà, nhiệt độ bề mặt Trái đất khô lạnh. Vào thời kỳ gian băng nhiệt độ bề mặt Trái đất đan xen giữa nóng ẩm và khô hạn. Vào các thời kỳ đó, biên độ dao động của nước biển (dâng, hạ) lên đến hàng chục, hàng trăm mét. Mỗi chu kỳ kéo dài hàng vạn, chục vạn năm. Mỗi chu kỳ như vậy còn được chia ra các chu kỳ ngắn hơn với thời gian kéo dài nhiều trăm năm đến nghìn năm với biên độ dao động mực nước biển 2-3 m hoặc hơn. Khí thải CO2 làm tăng hiệu ứng nhà kính là hiện tượng do con người gây ra trong mấy trăm năm gần đây. Vì vậy, có lẽ cả hai nguyên nhân trên đều có cơ sở thực tế và chúng cùng tác động gây ra tình trạng Trái đất nóng lên một cách bất thường như hiện nay. Do đó, cần phải nhìn nhận hiện tượng nóng lên của Trái đất hiện nay bằng quan điểm biện chứng: chu kỳ nóng ấm của Trái đất mang tính nội sinh và ngoại sinh tự nhiên được đẩy nhanh và trở nên nghiêm trọng hơn do những tác động của khí thải công nghiệp và hiệu ứng nhà kính. III. HIỆN TƯỢNG VÀ BẢN CHẤT DÂNG CAO MỰC NƯỚC ĐẠI DƯƠNG Hệ quả đồng hành với việc bề mặt Trái đất nóng lên luôn luôn là sự tan những khối băng vĩnh cửu ở hai đầu địa cực và trên đỉnh những dãy núi cao. Nhưng có lẽ chưa bao giờ tốc độ tan băng lại diễn ra với tốc độ nhanh và quy mô lớn như ngày nay. Thử điểm một vài tin chính: ở Nam Cực, tháng 3/2002, các nhà khoa học tận mắt chứng kiến khối băng 500 tỷ tấn tan rã thành hàng nghìn mảnh; ở Bắc Cực, mùa hè 2002, lượng băng tan ở Greenland cao gấp đôi so với 1992, diện tích băng tan đã lên tới 655.000 m2. Hơn 110 sông băng và những cánh đồng băng vĩnh cửu ở bang Montana đã biến mất trong vòng 100 năm qua. Các sông băng sẽ hầu như biến mất khỏi dãy Alpes vào năm 2050 (nếu độ tan chảy duy trì như hiện nay). Mùa hè 2002, các nhà khoa học ghi nhận một khối băng 3,5 triệu tấn tách ra, gây ra lũ băng từ dãy núi Mali trên đỉnh Kavkaz thuộc Nga. Trong vòng 13 năm gần đây, số băng tan ở châu Âu tăng gấp đôi so với lượng băng tan của 30 năm trước (1961-1990). Băng tan và nhiệt độ tăng làm nở thể tích trung bình của nước được coi như hai nguyên nhân chính dẫn đến mực nước đại dương cao dần lên, làm tràn ngập các đồng bằng thấp ven biển. Các số liệu quan trắc mực nước biển thế giới cho thấy mức tăng trung bình trong vòng 50-100 năm qua là 1,8 mm/năm. Nhưng chỉ trong 12 năm gần đây, các số liệu đo đạc của vệ tinh NASA cho thấy xu thế biển dâng đang gia tăng rất nhanh, với tốc độ trung bình là 3 mm/năm. Báo cáo của IPCC, do hàng chục nhà khoa học soạn thảo và hơn 2000 nhà khoa học từ 130 quốc gia tham gia đóng góp ý kiến, đưa ra dự báo: đến cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ bề mặt Trái đất sẽ tăng thêm từ 1,4 đến 4°C, mực nước biển sẽ dâng thêm khoảng 28-43 cm. Nhiều nhà khoa học còn đưa ra những dự báo mực nước biển đang dâng nhanh hơn nhiều, nhất là do hiện tượng tan băng đang xảy ra với tốc độ đáng kinh ngạc trong thời gian gần đây. Nhà địa lý học Richard Alley ở Đại học Pennsylvania, Hoa Kỳ nói: Chỉ cần 15% lớp băng ở Greenland bị tan cũng tạo ra một khối nước mới trong các đại dương đủ để làm ngập tiểu bang Florida của Hoa Kỳ và nhiều vùng duyên hải khác trên thế giới. Nếu mực nước biển dâng lên khỏang 50cm, nó sẽ tạo nên một mối đe dọa cho hàng triệu người và sẽ có những tác động đáng kể về mặt sinh thái và kinh tế xã hội chẳng hạn như: Sự ngập lụt của các đồng bằng thấp và các vùng đất ẩm gần bờ biển. Xói mòn bờ biển. Sự gia tăng triều bão Sự mặn hóa các cửa sông, đồng bằng và nguồn nước dưới đất với nhiều tác động tiêu cực khác đối với chất lượng nước. Những biến động của sự tăng thủy triều Những biến động của sự trầm tích Sự suy yếu các lớp nước rễ tiếp cận dưới đất. Bên cạnh sự ngập lụt thường xuyên, mực nước biển dâng lên còn làm gia tăng tần số và mật độ của các vụ lũ lụt có quy mô lớn. Tuy vậy, những trận lụt như vậy, không chỉ có thể gây ra bởi mực nước biển quá cao mà còn bới sự hủy hoại những barie tự nhiên như đá ngầm san hô, các cồn cát ngầm ngoài khơi, các vũng nước mặn và bởi sự suy giảm hệ thống tiêu nước đất liền gây ra bởi các con sông và kênh đào. Điều này có nghĩa các con sông cũng sẽ xâm nhập phá vỡ bờ của chúng thường xuyên hơn, gây ra những trận lũ lụt lớn. Các tác động kinh tế xã hội chủ yếu bị gây ra bởi sự xâm nhập của nước mặn vào các cửa sông và các hệ thống thuộc hệ bờ biển. Các khu vực cửa sông, trong đó có rất nhiều vùng có mật độ dân cư dày đặc, sẽ bị tác động trong suốt thời kì khô hạn kéo dài. Một mối đe dọa khác đối với các nguồn nước trong lòng đất và trên bề mặt có nguyên nhân từ bãi chon lấp rác ở các khu vực bị ngập lụt trong tương lai và sự tích tụ các chất gây ô nhiễm trong các lớp trầm tích của các đồng bằng và cửa sông của những con sông bị ô nhiễm nặng. Các chất độc có thể sẽ bị huy động bởi những biến đổi về tình trạng đất bồi và sự xâm nhập của nước mặn. Một sự dâng cao của mực nước biển sẽ phá hủy nhiều hộ sinh thái khác nhau, trong đó co nhiều hệ thống chỉ có chất độc nhất. Điều này sẽ xảy đến với các vùng đất ẩm, vốn có những chức năng sau đây Nuôi dưỡng đất cho 1/3 lượng cá mà ta tiêu dung Cung cấp nơi cư trú thống nhất cho một lượng lớn các chủng loại thực vật và động vật Đóng vai trò một barie tự nhiên trong việc chống lụt. Sự đa dạng chủng loài của trái đất sẽ bị giảm sút do sự phá hoại đất ướt, đụn cát và sự trắng háo của các đá san hô ngầm. Những tác động của sự phát triển này hiện nay đã được qua tâm. Hơn nữa, còn tồn tại nguy cơ ngành ngư nghiệp sẽ bị tác động nặng nề. IV. NHỮNG HIỂM HỌA ĐÃ, ĐANG VÀ SẼ XẢY RA Ở VIỆT NAM Thời kỳ băng hà cuối cùng của địa cầu trong kỷ Đệ tứ (băng hà Wurm 2) lạnh nhất cách đây khoảng 18.000 năm. Thời đó, biển lùi xa về phía đông. Các tài liệu khoan thăm dò dầu khí đã ghi nhận dấu vết đường bờ biển thời đó nằm trên thềm lục địa ở độ sâu 100-120 m so với mực nước biển hiện tại. Thời đó, toàn bộ vùng Vịnh Bắc Bộ và thềm Sunda (nối liền Nam Bộ Việt Nam với Indonesia), vịnh Thái Lan còn là đất liền. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Việt Nam vào thời băng hà lạnh nhất đó dự đoán thấp hơn so với ngày nay khoảng 5-7°C. Băng bắt đầu tan và mực nước biển bắt đầu dâng lên từ khoảng 15.000 năm cách nay. Nhiệt độ Trái đất cũng như đường bờ biển đạt đến mức như bây giờ vào khoảng 10.000 năm cách nay. Tuy nhiên, Trái đất vẫn tiếp tục nóng lên và băng tiếp tục tan, biển vẫn tiến lấn sâu hơn vào so với đường bờ hiện tại. Nhiều bằng chứng thực vật ở Đông Nam Á cho thấy, nhiệt độ trung bình ấm hơn ngày nay chừng 2°C ở khoảng 8.000 năm cách nay, nhưng phải đến khoảng 6.000-5.000 năm cách nay, băng mới ngừng tan và nước biển mới dừng ở độ cao 4-6 m so với mực nước biển ngày nay (biển tiến Flanđri). Các nhà nghiên cứu khảo cổ Việt Nam đã phát hiện nhiều bằng chứng về con người trong lịch sử đã chịu ảnh hưởng của các đợt biển tiến do nhiệt độ Trái đất ấm lên đó. Do mực nước biển dâng cao hơn ngày nay 4-6 m, biển lấn sâu vào lục địa có chỗ tới hàng trăm km. Dấu tích đường bờ biển đương thời xuất lộ ngay ở sát rìa Hà Nội, đến tận sát chân các
Luận văn liên quan