Sau nhiều năm chuẩn bị, ngày 11/07/1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK, chính thức khai sinh TTCK Việt Nam. Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập TTGDCK đặt tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. TTGDCK TP.HCM được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998 và chính thức đi vào hoạt động, thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. TTGDCK Hà Nội đã chính thức chào đời vào ngày 08/03/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao dịch chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các DN vừa và nhỏ (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
Giai đoạn từ năm 2000 cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái “gà gật”, ngoại trừ cơn sốt vào năm 2001, chỉ số VN-index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ chưa đầy 4 tháng sau, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN-Index sụt từ 571.04 điểm vào ngày 25/04/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001. Trong 4 tháng “hoảng loạn” này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo chạy khỏi thị trường thì một số nhà đầu tư khác vẫn bình tĩnh bám trụ, âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi nhuận. Dường như thị trường trong giai đoạn này không thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
34 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 1967 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cam kết của Việt Nam với wto- Lĩnh vực dịch vụ chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
( (
BÀI TIỂU LUẬN
LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:
CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỚI WTO: LĨNH VỰC DỊCH VỤ CHỨNG KHOÁN
GVHD : Phạm Đức Huy
Lớp : ĐH24NH_T03
Nhóm 17:
Trần Thị Kim Liền
Nguyễn Hữu Tiến
Võ Ngọc Khánh Vân
Hứa Hoàng Vũ
Huỳnh Thị Phi Yến
TP.HCM – 2011
MỤC LỤC
1. Sự cấp thiết gia nhập WTO của thị trường chứng khoán Việt Nam 4
1.1. Thực trạng TTCK VN trước khi gia nhập WTO 4
1.2. Vai trò của thị trường chứng khoán Việt Nam đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội đất nước 5
2. Những cam kết trong lĩnh vực dịch vụ chứng khoán 6
2.1 Các cam kết với WTO về lĩnh vực chứng khoán 6
2.2 Lộ trình thực hiện cam kết 10
3. Tác động của những cam kết với WTO đến TTCK VN 13
4. Giải pháp nâng cao hoạt động dịch vụ chứng khoán của VN 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO 36
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
Họ tên
MSSV
Công việc
Trần Thị Kim Liền
030124080443
Phần 4: Giải pháp
Phần 3: Tác động
Nguyễn Hữu Tiến
030124080946
Phần 1: Sự cấp thiết gia nhập WTO của TTCK VN
Phần 2.1: Cam kết
Võ Ngọc Khánh Vân
030124081103
Phần 2.2: Lộ trình
Hứa Hoàng Vũ
030124081131
Kịch bản Gameshow
Powerpoint
Huỳnh Thị Phi Yến (nhóm trưởng)
030124081151
Phần 3: Tác động
Tổng hợp bài
Trình bày Word
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
TTCK
CTCK
TTGDCK
SGDCK
NĐT
Thị trường chứng khoán
Công ty chứng khoán
Trung tâm giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán
Nhà đầu tư
Sự cấp thiết gia nhập WTO của thị trường chứng khoán Việt Nam
Thực trạng TTCK VN trước khi gia nhập WTO
Sau nhiều năm chuẩn bị, ngày 11/07/1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK, chính thức khai sinh TTCK Việt Nam. Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập TTGDCK đặt tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. TTGDCK TP.HCM được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998 và chính thức đi vào hoạt động, thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. TTGDCK Hà Nội đã chính thức chào đời vào ngày 08/03/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao dịch chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các DN vừa và nhỏ (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
Giai đoạn từ năm 2000 cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái “gà gật”, ngoại trừ cơn sốt vào năm 2001, chỉ số VN-index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ chưa đầy 4 tháng sau, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN-Index sụt từ 571.04 điểm vào ngày 25/04/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001. Trong 4 tháng “hoảng loạn” này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo chạy khỏi thị trường thì một số nhà đầu tư khác vẫn bình tĩnh bám trụ, âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi nhuận. Dường như thị trường trong giai đoạn này không thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân. Ta có thể nhận định rõ được điều này thông qua bảng số liệu sau:
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Số công ty niêm yết
5
5
20
22
26
41
Mức vốn hóa thị trường (%GDP)
0.28
0.34
0.48
0.39
0.64
1.21
Số lượng công ty chứng khoán
3
8
9
11
13
14
Số tài khoản khách hàng
2908
8774
13520
15735
21616
31316
(Nguồn: Ủy ban chứng khoán Nhà nước)
Năm 2006 đánh dấu mốc phát triển “đột phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp. Hồ Chí Minh, TTGDCK Hà Nội và thị trường OTC. Mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 giúp thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ sau Zimbabwe. Chỉ số VN-Index cuối năm tăng 2.5 lần so với đầu năm. Tổng giá trị vốn hóa thị trường đạt 13.8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22.7% GDP), với giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD, chiếm 16.4% mức vốn hóa của toàn thị trường. Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn, gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước. Yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng “nóng” trong giai đoạn này phải kể đến sức cầu trên thị trường tăng một cách đột biến khiến giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên giao dịch lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Tuy nhiên, tình trạng đầu tư mang tâm lý “đám đông” của cả người có kiến thức, hiểu biết và những người mua - bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện tượng “bong bóng” là có thật.
Tiếp tục đà tăng trưởng đó sang đầu năm 2007 cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO, TTCK Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển “bùng nổ”. Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế, tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
Vai trò của TTCK Việt Nam đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội đất nước
Xây dựng và phát triển TTCK là một xu thế tất yếu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng không thể tách rời xu thế đó. TTCK hình thành và phát triển sẽ cùng với thị trường tiền tệ tạo ra một thị trường tài chính vận hành có hiệu quả hơn, góp phần đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Năm 2006 và quý I/2007, TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, giúp thu hút một nguồn vốn lớn cho nền kinh tế (mức vốn hóa của thị trường đến cuối tháng 4/2007 đạt 24.4 tỷ USD, chiếm 39.8% GDP). Vốn đầu tư nước ngoài thông qua kênh chứng khoán cũng tăng đáng kể. Số lượng hàng hóa trên thị trường không ngừng tăng lên với 193 loại cổ phiếu được giao dịch trên cả 2 “sàn” tính đến năm 2007. TTCK không chỉ là công cụ khuyến khích tiết kiệm mà còn tạo thói quen đầu tư mới cho công chúng. Hệ thống các tổ chức trung gian trên TTCK đã hình thành và phát triển nhanh chóng với 55 CTCK, 18 công ty quản lý quỹ, 35 quỹ đầu tư (23 quỹ đầu tư nước ngoài và 12 quỹ đầu tư trong nước), gần 50 tổ chức đầu tư theo hình thức ủy thác qua các CTCK, 41 tổ chức tham gia hoạt động lưu ký chứng khoán, 6 ngân hàng lưu ký, 8 công ty kiểm toán độc lập góp phần tạo sự hiệu quả cho thị trường, đánh giá được hoạt động của các doanh nghiệp.
Khung pháp lý cho hoạt động và phát triển TTCK bao gồm Luật Chứng khoán, những vấn đề liên quan đến TTCK, trong đó những quy định về đăng ký, lưu ký, công khai và minh bạch, giám sát và kiểm tra của các cơ quan chức năng quản lý hoạt động của TTCK từng bước được hoàn thiện, bảo vệ NĐT từ đó khuyến khích các NĐT mạnh dạn tham gia thị trường và giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô thông qua TTCK.
Hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thì TTCK Việt Nam chỉ mới phát triển và không thể tránh khỏi những hạn chế, chủ yếu bao gồm:
– Mức vốn hóa trên thị trường tăng nhanh, nhưng lượng vốn hóa đạt thấp, quy mô TTCK còn nhỏ. TTCK Việt Nam phát triển chưa ổn định, chưa phải là kênh huy động quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam, biến động trên TTCK chưa phản ánh đúng trạng thái của nền kinh tế.
– Lượng hàng hóa trên TTCK còn ít, dẫn đến mất cân đối cung cầu và những biến động bất lợi cho thị trường. Hậu quả là chỉ số P/E (giá trên thu nhập) quá cao với mức tăng bình quân 21 lần và khoảng 1/4 công ty đạt 30-70 lần. Chính vì vậy, khi thị trường sụt giảm thì giá cổ phiếu đồng loạt giảm mạnh, kể cả những cổ phiếu được coi là có chất lượng.
– Cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin và nguồn nhân lực của các TTGDCK và của các CTCK không theo kịp được sự phát triển quá nhanh của thị trường, nhiều CTCK bị quá tải, hệ thống pháp luật về chứng khoán và TTCK chưa đầy đủ.
– Tính dễ bị tổn thương của TTCK Việt Nam là khá cao do phụ thuộc nặng nề vào các NĐT nước ngoài, trong khi các công cụ quản lý và giám sát TTCK còn hạn chế.
– Diễn biến thất thường của TTCK Việt Nam thời gian qua là do nhiều nguyên nhân, bao gồm: sự thiếu hoàn chỉnh của hành lang pháp lý, sự mất cân đối cung cầu chứng khoán, tình trạng đầu cơ và đầu tư theo “bầy đàn”, tính công khai minh bạch của thị trường còn hạn chế, v.v…
Những cam kết trong lĩnh vực dịch vụ chứng khoán
2.1 Các cam kết với WTO về lĩnh vực dịch vụ chứng khoán
Cùng với việc mở cửa thị trường hàng hoá, khi đàm phán gia nhập WTO và tham gia các thỏa thuận Khu vực mậu dịch tự do (FTA), Việt Nam phải tiến hành mở cửa các thị trường dịch vụ cho các đối tác nước ngoài. Theo đó, thực hiện lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ với sự tham gia của các đối tác nước ngoài bao gồm các hình thức như sau: cho phép nhà cung cấp dịch vụ ở nước ngoài cung cấp dịch vụ cho các tổ chức, cá nhân ở Việt Nam (loại hình 1); cho phép các tổ chức, cá nhân ở Việt Nam sử dụng các dịch vụ ở nước ngoài (loại hình 2); cho phép bên nước ngoài thành lập đại diện thương mại ở Việt Nam (văn phòng đại diện, chi nhánh, liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài) để cung cấp dịch vụ (loại hình 3); cho phép cá nhân nước ngoài vào Việt Nam, độc lập cung cấp dịch vụ tại thị trường trong nước (loại hình 4).
Liên quan đến các dịch vụ chứng khoán
Việt Nam cam kết cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp các dịch vụ chứng khoán sau tại Việt Nam:
Giao dịch cho tài khoản của mình hoặc tài khoản của khách hàng tại SGDCK, thị trường giao dịch trực tiếp (OTC) hay các thị trường khác những sản phẩm sau:
- Các công cụ phái sinh, bao gồm cả hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền lựa chọn.
- Các chứng khoán có thể chuyển nhượng.
- Các công cụ có thể chuyển nhượng khác và các tài sản tài chính, trừ vàng khối.
(Các dịch vụ này bao gồm cả nghiệp vụ môi giới).
Tham gia vào các đợt phát hành mọi loại chứng khoán, bao gồm bảo lãnh phát hành, và làm đại lý bán (chào bán ra công chúng hoặc chào bán riêng), cung cấp các dịch vụ liên quan đến các đợt phát hành đó.
Quản lý tài sản như quản lý danh mục đầu tư, mọi hình thức quản lý đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ lưu ký và tín thác.
Các dịch vụ thanh toán và thanh toán bù trừ chứng khoán, các công cụ phái sinh và các sản phẩm liên quan đến chứng khoán khác.
Cung cấp và chuyển thông tin tài chính, các phần mềm liên quan của các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán.
Tư vấn, trung gian và các dịch vụ phụ trợ liên quan đến chứng khoán, ngoại trừ các hoạt động tại tiểu mục (a), bao gồm tư vấn và nghiên cứu đầu tư, danh mục đầu tư, tư vấn về mua lại công ty, lập chiến lược và cơ cấu lại công ty.
Liên quan đến phương thức cung cấp các dịch vụ tài chính qua biên giới
Việt Nam chưa cam kết các nghĩa vụ liên quan đến tiếp cận thị trường và đãi ngộ quốc gia đối với phương thức cung cấp qua biên giới trong dịch vụ tài chính, ngoại trừ:
- Cung cấp và chuyển thông tin tài chính, các phần mềm liên quan của các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán;
- Tư vấn, trung gian và các dịch vụ phụ trợ liên quan đến chứng khoán.
Liên quan đến hiện diện thương mại
Việt Nam cam kết cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động chứng khoán ở Việt Nam dưới các hình thức và điều kiện sau đây:
Văn phòng đại diện, với điều kiện các văn phòng đại diện không được thực hiện các hoạt động kinh doanh sinh lời trực tiếp (ngay khi gia nhập).
Liên doanh với đối tác Việt Nam, với điều kiện tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không vượt quá 49% (ngay khi gia nhập) (quy định tại khoản 1 Điều 3 Quyết định 55/2009/QĐ-TTg).
Doanh nghiệp chứng khoán 100% vốn nước ngoài (kể từ 11/01/2012, 5 năm kể từ ngày gia nhập ).
Chi nhánh của công ty chứng khoán nước ngoài (11/01/2012, 5 năm kể từ ngày gia nhập và kèm theo các điều kiện là hoạt động của chi nhánh chỉ giới hạn ở cung cấp các dịch vụ quản lý tài sản, ngân quỹ đầu tư, ký gửi, thanh toán và thanh toán bù trừ chứng khoán, cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính, tư vấn cũng như môi giới và các hoạt động phụ trợ khác liên quan đến chứng khoán, các phần mềm liên quan). Tuy nhiên, các chi nhánh không được phép tiếp cận thị trường giao dịch và phát hành chứng khoán.
Như vậy, Việt Nam không mở cửa cho chi nhánh của công ty chứng khoán nước ngoài đối với các loại hình dịch vụ kinh doanh chứng khoán và tham gia phát hành, cũng như không cam kết mở cửa đối với loại hình cung cấp dịch vụ thứ 1 ( trừ các dịch vụ trong tiểu mục (e), (f)) và 4 nêu trên.
Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg ngày 15/04/2009 hiệu lực từ ngày 01/06/2009 thay thế cho quyết định số 238/2005/QĐ-TTg ngày 29/09/2005 của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam có quy định ở Điều 2: NĐT nước ngoài mua, bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam được nắm giữ:
1. Đối với cổ phiếu: tối đa 49% tổng số cổ phiếu của công ty cổ phần đại chúng. Trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác thì áp dụng theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Trường hợp tỷ lệ sở hữu bên nước ngoài được phân loại theo danh mục các ngành nghề cụ thể thì áp dụng theo danh mục phân loại.
2. Đối với chứng chỉ quỹ đầu tư đại chúng: tối đa 49% tổng số chứng chỉ quỹ đầu tư của một quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng.
3. Đối với công ty đầu tư chứng khoán đại chúng: tối đa 49% vốn điều lệ của một công ty đầu tư chứng khoán đại chúng.
4. Đối với trái phiếu: tổ chức phát hành có thể quy định giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với trái phiếu lưu hành của tổ chức phát hành.
Như vậy ở quyết định này có thêm quy định đối với công ty đầu tư chứng khoán đại chúng cho phù hợp với Luật Chứng khoán 2006 và cam kết gia nhập WTO của Việt Nam.
Theo Điều 3 Quyết định 55/2009/QĐ-TTg, tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài được tham gia thành lập CTCK, công ty quản lý quỹ tại Việt Nam như sau:
1. Chỉ có tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài được góp vốn mua cổ phần thành lập CTCK. Tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài tối đa là 49% vốn điều lệ của CTCK.
2. Chỉ có tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài có nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức kinh doanh bảo hiểm nước ngoài được góp vốn, mua cổ phần thành lập công ty quản lý quỹ. Tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài tối đa là 49% vốn điều lệ của công ty quản lý quỹ.
Quyết định 121/2008/QĐ-BTC ngày 24/12/2008 ban hành Quy chế hướng dẫn hoạt động đầu tư của các tổ chức, cá nhân nước ngoài trên TTCK Việt Nam hiệu lực từ ngày 17/3/2009. Theo quy định tại Điều 3 thì Nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam dưới các hình thức sau:
a) Trực tiếp thực hiện đầu tư thông qua việc:
(i) Mua, bán cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán niêm yết khác trên Sở Giao dịch Chứng khoán, TTGDCK hoặc đăng ký giao dịch tại các CTCK;
(ii) Mua, bán cổ phần và các loại chứng khoán chưa niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán, TTGDCK hoặc chưa đăng ký giao dịch tại các CTCK;
(iii) Tham gia đấu giá mua chứng khoán, đấu giá mua cổ phần tại các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa;
(iv) Tham gia góp vốn thành lập quỹ đầu tư chứng khoán với tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài theo quy định của Thủ tướng Chính phủ;
(v) Tham gia góp vốn tại các doanh nghiệp Việt Nam với tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
b) Thực hiện đầu tư thông qua việc uỷ thác quản lý vốn đầu tư cho công ty quản lý quỹ trên cơ sở Hợp đồng quản lý đầu tư ký với công ty quản lý quỹ.
Quyết định 124/2008/QĐ-BTC ngày 26/12/2008 ban hành Quy chế thành lập và hoạt động văn phòng đại diện tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam hiệu lực từ ngày 19/3/2009. Theo quy định tại Điều 10 thì phạm vi hoạt động của văn phòng đại diện gồm một, một số hoặc toàn bộ các nội dung sau đây:
+ Thực hiện chức năng văn phòng liên lạc và nghiên cứu TTCK;
+ Xúc tiến xây dựng các dự án hợp tác trên lĩnh vực chứng khoán và TTCK tại Việt Nam;
+ Thúc đẩy, giám sát thực hiện các hợp đồng thoả thuận đã ký kết giữa Tổ chức kinh doanh chứng khóan nước ngoài với các tổ chức kinh tế của Việt Nam trong lĩnh vực chứng khoán;
+ Thúc đẩy, giám sát thực hiện các dự án do Tổ chức kinh doanh chứng khóan nước ngoài tài trợ tại Việt Nam trong lĩnh vực chứng khoán.
2.2 Lộ trình thực hiện cam kết
Năm 2006, TTCK VN được đánh giá là đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Đây cũng là thời điểm nở rộ các CTCK thành lập mới trong nước. Nhiều CTCK nước ngoài cũng đã bắt đầu đến Việt Nam bằng việc thành lập các văn phòng đại diện, xây dựng vốn kinh nghiệm và nắm bắt thị trường để sẵn sàng nhập cuộc ngay một khi rào cản được xóa bỏ. Theo số liệu nghiên cứu của Tập đoàn HSBC Holdings Plc, tại Việt Nam, tổng giá trị thị trường của công ty niêm yết trên sàn mới chỉ đạt chừng 3,2 tỷ USD, tổng giá trị các công ty giao dịch trên thị trường OTC cũng không vượt quá 6 tỷ USD. Trong khi đó, giá trị các công ty niêm yết của nước láng giềng Thái Lan lên tới 138 tỷ USD.
Năm 2006 thực sự là một năm “bản lề” đối với nhà đầu tư nước ngoài. Riêng trong năm này, tỷ lệ sở hữu của các NĐT nước ngoài tại TTCK Việt Nam đã tăng vọt gấp gần ba lần, từ 6% lên 17%. Đến đầu tháng 3/2007, tỷ lệ này lên đến 19% và cho đến tháng 5/2007, có tính toán cho biết tỷ lệ này đã lên đến 20-25%. Như vậy, so sánh hai mốc thời điểm đầu năm 2006 với những tháng đầu năm 2007, tỷ lệ sở hữu giá trị cổ phiếu của NĐT nước ngoài đã tăng gấp gần 4 lần. Tình hình đó cũng có tính tương ứng với thông tin của Ngân hàng thế giới ước tính các NĐT nước ngoài đã đầu tư khoảng 4 tỷ USD vào TTCK Việt Nam.
Gía trị đầu tư nước ngoài tính đến tháng 4/2007
Tại thị trường niêm yết, NĐT nước ngoài đã nhanh chóng sở hữu đến 49% hoặc đang có xu hướng đạt đến 49% (tỷ lệ cao nhất cho phép đối với NĐT nước ngoài) đối với một số mã cổ phiếu như AGF, CII, BT6, GIL, GMD, IFS, SAM, TDH, TMS, TYA, VNM, chứng chỉ quỹ VFMVF1.
Lúc này, có những quỹ đầu tư nước ngoài được đánh giá là hoạt động thành công trên thị trường Việt Nam là Vina Capital, Indochina Capital, Dragon Capital, IDG Vietnam, PXP Vietnam, City Group, HSBC, JP Morgan, Deutsch AG… Trong số các NĐT nước ngoài, các quỹ đầu tư có người quản lý quỹ tại Việt Nam chiếm tỷ trọng 70% trên tổng quy mô vốn đầu tư của các NĐT nước ngoài. Tuy nhiên, trong số các quỹ đầu tư nước ngoài chưa có mặt các quỹ Mutual Fund và Pension Fund – là các quỹ có mục tiêu đầu tư rất dài hạn. Đến cuối năm 2007, tại Việt Nam, NĐT nước ngoài mới chỉ có 8.140 tài khoản cá nhân và 477 tài khoản tổ chức, giao dịch của khối này chiếm khoảng 25% tổng giá trị vốn hóa trên sàn TP.HCM (khoảng 5,3 tỷ USD). Bên cạnh đó là khoảng 44 quỹ đầu tư cả trong và ngoài nước, hơn 70 quỹ nước ngoài khác được kỳ vọng sẽ vào Việt Nam trong tương lai gần, mang theo số vốn khoảng 4-5 tỷ USD.
Trong tháng 1/2008, đã có 35 tổ chức và 399 cá nhân nước ngoài được cấp mã giao dịch tại TTCK Việt Nam. Tính đến ngày 3/3/2008, đã có 600 tổ chức và 9.220 cá nhân là NĐT nước ngoài được cấp mã giao dịch, tăng thêm 30 tổ chức và 223 cá nhân nước ngoài so với thời điểm tháng 2/2008. Trong quý 2/2008, theo số liệu công bố mới nhất từ Trung tâm Lưu ký Chứng khoán, đã có thêm 1.239 NĐT nước ngoài được cấp mã số giao dịch, trong đó bao gồm: 112 tổ chức và 1127 cá nân người nước ngoài. Cụ thể, tính đến ngày 2/6/2008 đã có 712 tổ chức và 10.347 cá nhân người nước ngoài được cấp mã số giao dịch tại TTCK Việt Nam. Trong đó, riêng tháng 6/2008 có thêm 28 tổ chức và 383 cá nhân nước ngoài, tháng 5/2008 có thêm 38 tổ chức và 358 cá nhân nước ngoài, tháng 4/2008 có 46 tổ chức và 386 cá nhân nước ngoài. Tính đến 31/12/2008 đã có 12.720 tài khoản giao dịch thuộc khối đầu tư nước ngoài, trong đó 887 tài khoản là của tổ chức còn lại là của NĐT cá nhân nước ngoài. Tại thời điểm này, khối đầu tư nước ngoài đã giao dịch 2.263.341.354 chứng khoán với giá trị 202.534,873 tỷ đồng tại sàn Hà Nội và tương ứng là 1.119.037.618 chứng khoán với giá trị 68