MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, khi nước ta bắt đầu hội nhập kinh tế quốc tế, diện mạo đất nước không ngừng đổi mới, đời sống kinh tế của người dân ngày càng được cải thiện, nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển. Tất nhiên cùng với sự phát triển và nâng cao không ngừng của các ngành nghề kinh tế, các lĩnh vực khác của đời sống, bộ mặt của đất nước ngày càng thay đổi. Đó là sự mọc lên của các công trình công nghiệp và dân dụng nhằm đáp ứng các yêu cầu của cuộc sống công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tất nhiên, với cùng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển không ngừng đó là sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong lĩnh vực xây dựng, nó không chỉ là quy mô, tính chất công trình mà còn là chất lượng công trình xây dựng. Đây là một nhân tố quan trọng, quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng.
21 trang |
Chia sẻ: thanhlinh222 | Lượt xem: 10936 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chất lượng của dự án đầu tư xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HÀ NỘI THÁNG 10 - 2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
------oOo------
TIỂU LUẬN
MÔN HỌC :
QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
Đề tài : Chất lượng của dự án đầu tư xây dựng
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
:
PGS.TS: LÊ HỒNG THÁI
LỚP
:
QLDA 1612-7
HỌC VIÊN THỰC HIỆN
:
HOÀNG VĂN VŨ
MÃ HỌC VIÊN
:
1612.123
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, khi nước ta bắt đầu hội nhập kinh tế quốc tế, diện mạo đất nước không ngừng đổi mới, đời sống kinh tế của người dân ngày càng được cải thiện, nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển. Tất nhiên cùng với sự phát triển và nâng cao không ngừng của các ngành nghề kinh tế, các lĩnh vực khác của đời sống, bộ mặt của đất nước ngày càng thay đổi. Đó là sự mọc lên của các công trình công nghiệp và dân dụng nhằm đáp ứng các yêu cầu của cuộc sống công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tất nhiên, với cùng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển không ngừng đó là sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong lĩnh vực xây dựng, nó không chỉ là quy mô, tính chất công trình mà còn là chất lượng công trình xây dựng. Đây là một nhân tố quan trọng, quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Bởi lẽ công trình xây dựng có đặc điểm là nguyên chiếc, đơn nhất, cố định không thể di rời cùng với sốvốn có hạn, do đó tầm quan trọng của công tác quản lý chất lượng là vô cùng quan trọng. Quản lý dự án là ngành khoa học nghiên cứu về việc lập kế hoạch, tổ chức và quản lý, giám sát quá trình phát triển của dự án nhằm đảm bảo cho dự án hoàn thành đúng thời gian, trong phạm vi ngân sách đã được duyệt, đảm bảo chất lượng, đạt được mục tiêu cụ thể của dự án và các mục đích đề ra. Mục tiêu cơ bản của việc quản lý dự án thể hiện ở chỗ các công việc phải được hoàn thành theo yêu cầu và bảo đảm chất lượng, trong phạm vi chi phí được duyệt, đúng thời gian và giữ cho phạm vi dự án không thay đổi.
Đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) là lĩnh vực quan trọng, giữ vai trò chủ yếu trong việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hàng năm, ngân sách nhà nước dành một tỷ lệ lớn chi cho đầu tư xây dựng cơ bản. Tuy nhiên chất lượng hoạt động đầu tư xây dựng còn hạn chế. Các dự án đầu tư còn tồn tại một số hạn chế. Để tìm ra những nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng, do đó nghiên cứu đề tài “Chất lượng của dự án đầu tư xây dựng” là hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Mỗi nghành mỗi đơn vị thực hiện luôn luôn phải chú trọng đặt việc quản lý chất lượng lên hàng đầu vì nó là điều kiện tiên quyết cũng như thể hiện đầy đủ năng lực, phẩm chất của người thực hiện.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CỦA DỰ ÁN
ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
1.1. Chất lượng công trình xây dựng
1.1.1. Khái niệm và các tính chất của chất lượng
Có nhiều định nghĩa về chất lượng, trong đó, trước hết phải kể đến các định nghĩa do những người đi trước của khoa học chất lượng đưa ra như Juran, Feigenbaun và Demig:
Ju ran năm 1992 ông đưa ra định nghĩa chất lượng là đặc tính của sản phẩm đáp ứng được các mong muốn của khách hàng và không khiếm khuyết.
Các tính chất của sản phẩm hoặc dịch vụ có vai trò rất quan trọng đối với sự thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng. Sản phẩm có tính chất vượt trội, có thể yêu cầu các vật liệu đắt đỏ hơn và hao phí lao động cao hơn. Sản phẩm không khiếm khuyết sẽ ít phải làm lại, ít phế liệu và ít yêu cầu về báo hành do đó yêu cầu chi phí thấp hơn. Đối với nhiều sản phẩm, khâu kiểm tra thiêt kế được thực hiện tốt thường có được các tinh chất tốt hơn và kiểm soát quá trình sản xuất cũng sẽ đưa lại ít khiếm khuyết hơn.
Feigebbaun (1991) cho rằng chat lượng là tập hợp các tính chất về marketing, thiết kế, chế tạo và duy tu sản phẩm và dịch vụ, qua đó sản phẩm và dịch vụ được sử dụng sẽ đạt được mong muốn của khách hàng. Tập hợp các tính chất của sản phẩm và dịch vụ là độ tin cậy lớn, độ an toàn cao, độ tiện lợi và bảo dưỡng dễ dàng, sự thu hút và nhiều tính chất khác của sản phẩm. Ông cho rằng những tập hợp đặc tính mà đáp ứng được các chức năng mong đợi và có tiết kiệm lớn chính là chất lượng.
Edwards Deming (1986) đưa ra nhiều quan điểm là 14 điểm về chất lượng mà với ý nghĩa rộng thì chất lượng có thể hiểu là khả năng đáp ứng một cách nhất quán các yêu cầu của khách hàng.
Các ý tưởng này được phát triển theo những cách khác nhau và do đó, ở những vùng miền, quốc gia khác nhau cơ chế tổ chức và phương pháp quản lý chất lượng có khác nhau.
Theo Hiệp hội Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO) thì chất lượng sản phẩm là sự không hỏng và những đặc tính của sản phẩm thoản mãn mong muốn của khách hàng.
Tiêu chuẩn GB/T 10300-1998 của Trung Quốc cho rằng chất lượng là tổng hòa các đặc trưng, đặc tính sản phẩm, hoặc dịch vụ thỏa mãn quy định hoặc đáp ứng được nhu cầu khách hàng.
Theo Hiệp hội mỹ về Kiểm soát chất lượng thì chất lượng là tập hợp các đặc tính của sản phẩm hay dịch vụ có khả năng thỏa mãn cac nhu cầu đã định sẵn hoặc có tiềm ẩn”.
Theo Tiêu chuẩn Quốc gia của Liên Xô GOCT15467-70 thì chất lượng sản phẩm là tập hợp các tính chất đảm bảo cho sản phẩm có khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng phù hợp với công năng của chúng.
Tại Việt Nam coi chất lượng là tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật hay sự việc làm cho sự vật và sự việc này phân biệt với sự vật hay sự việc khác.
* Khái niệm tính chất Tường và Ẩn của chất lượng sản phẩm:
Các ý kiến trên suy cho cùng chỉ là sự chi tiết hóa tư tưởng coi chất lượng là tổng hòa các đặc trưng và đặc tính phản ánh khả năng của sản phẩm hay dịch vụ đáp ứng nhu cầu “Tường” và nhu cầu “ẩn”. Tùy thuộc vào từng đối tượng từng thời điểm để tường và ẩn thể hiện ra khác nhau và mức độ tác động.
Tường là sự hiện hữu, sự cảm nhận thấy ngay từ các cảm nhận của con người thực tế về tư duy hiện thực tại một thời điểm 1 không gian 1 thời gian nhất định.
Tính chất tường là những kỳ vọng về các tính chất của SP có thể đánh giá được một cách trực quan những thế liên quan đến hình dạng, màu sắc, độ bền, độ vững chắc, an toàn.
Ẩn là những gì mà để có thể nhận biết thì con người phải trải qua quá trình tư duy hiện thực qua thời gian phát triển và vận động. Tính chất Ẩn là mong muốn của những người sử dụng: họ muốn phù hợp điều kiện sống và làm việc, điều kiện sinh thái, phù hợp sự phát triển xã hội, có mỹ thuật lại vừa đảm bảo chi phí (chi phí vừa đủ nhưng có giá trị nổi trội). Đây là những tính chất phản ánh tư tưởng sáng tạo ra sản phẩm (thiết kế).
Định nghĩa trên đây có phân biệt các khía cạnh một cách rõ ràng là các đặc trưng và tính chất của sản phầm, hơn nữa đặc trưng và đặc tính ấy có thể đã tường minh hoặc tiềm ẩn.
1.1.2. Đặc trưng và đặc tính:
Xét trên bình diện quản trị kinh doanh, có thể có coi đặc trưng và đặc tính là một đó là những tính chất riêng có của sự vật , là dấu hiệu đặc trưng cho sự vật. Nếu lấy thí dụ về một sản phẩm nào đó, chẳng hạn như loại gạch lát nền của mọi nhà sản xuất tung ra thị trường, trước hết bất cứ nhà sản xuất nào thì gạch lát nền cũng cần đảm bảo đúng thông số về kích thước, trọng lượng, độ bền, chống bám bẩn, có khả năng chịu tác động của môi trường như va đập, có độbột bả matit mà các nhà sản xuất đã tung ra thị trường. Đặc tính đầu thì phụ thuộc nhiều vào bí quyết của nhà sản xuất. Mức độ cao thấp về độ bền của loại gạch lát nền của một nhà sản xuất nhất định sẽ là đặc trưng chất lượng của sản phẩm của nhà sản xuất đó. Như vậy tính chất thể hiện chất lượng để đánh giá gạch lát nền là độ phẳng, nhẵn bóng đều màu, bền đẹp chống chịu mài mòn. Nếu có được những điểm nêu trên thì đánh giá gạch lát nền đạt chất lượng. Tùy thuộc vào các tiêu chí để đánh giá từng loại và chất lượng từng trường hợp đó. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng có nhiều ý kiến đã phân biệt đặc trưng và đặc tính, cho rằng đặc trưng là sự biểu hiện bên ngoài (hình thức) trong khi đó đặc tính thể hiện bản chất bên trong của sản phẩm hay dịch vụ.
1.2 Chất lượng công trình xây dựng.
Các công trình xây dựng là sản phẩm của quá trình sản xuất của ngành công nghiệp đặc thù, đó là ngành xây dựng, vì thế chất lượng của công trình xây dựng không khác gì hơn là tổng hợp các tính chất tiêu dùng được xác định trong sự tương quan giữa công trình xây dựng với các điều kiện sử dụng chúng được ấn định trước.
Sản phẩm xây dựng được hình thành qua nhiều gia đoạn, trong đó có hai giai đoạn quyết định ý tưởng và hiện thực hóa ý tưởng về công trình là giai đoạn thiết kế và giai đoạn thi công công trình. Các tính chất nói trên chỉ có thể đạt được nhờ việc thực thi đúng và đủ hàng loạt yêu cầu trên từng giai đoạn tạo nên công trình:
Các yêu cầu cụ thể là:
- Yêu cầu về công năng: thường là các yêu cầu hướng tới gia đoạn sử dụng công trình bao gồm các thông số kiến trúc quy hoạch của từng bộ phận công trình nói riêng và tổng hợp các bộ phận nói chung, giải pháp về hệ thống kỹ thuật công trình ( điện nước vệ sinh, điện thoại, mạng internet, phòng cháy) Các tính chất trên phải phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hôi, sự phát triển của cộng đồng.
- Yêu cầu về kết cấu như độ bền chắc, độ tin cậy của kết cấu trong công trình đảm bảo đáp ứng được các đòi hỏi cũng như phát triển khoa học kỹ thuật – công nghệ xây dựng.
- Yêu cầu về vận hành bao gồm tính hiện đại, sự tiện lợi, tính dễ sửa chữa, bảo trì
- Yêu cầu về môi trường – cảnh quan thể hiện ở giải pháp bố cục mặt bằng hình khối công trình, phù hợp với khung cảnh không gian nơi công tình tọa lạc cũng như mức độ phát triển ở nơi đó.
Việc phân công quản lý cũng được các quốc gia luật hóa với nguyên tắc: Những nội dung “phù hợp” (tức là vì lợi ích của xã hội, lợi ích cộng đồng) do Nhà nước kiểm soát và các nội dung “đảm bảo” do các chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình đầu tư xây dựng (chủ đầu tư và các nhà thầu) phải có nghĩa vụ kiểm soát.
Những tiêu chí ẩn mà chất lượng sản phẩm xây dựng phải đáp ứng được đó là mong muốn của những người sử dụng công trình: họ muốn điều kiện sinh hoạt phù hợp điều kiện sinh thái phù hợp với sự phát triển xã hội, có mỹ thuật lại đảm bảo chi phí hiện có hoặc chi phí vừa đủ nhưng có giá trị nổi trội.
Các tiêu chuẩn này được xác định cơ bản từ giai đoạn thiết kế. Vì vậy nhiều nhà nghiên cứu các chuyên gia chất lượng đã phân biệt chất lượng thiết kế và chất lượng sản xuất. Theo họ thiết kế đặt ra các tiêu chuẩn và dung sai, thiết kế yêu cầu độ chính xác cao tức là dung sai bé), thiết kế có thể cho giá đầu vào rẻ để phù hợp với mong đợi của khách hàng, còn chất lượng thực hiện các công tác xây lắp lại chính là mức độ phù hợp của kết quả với công việc đó so với tiêu chí đã được xác định theo chất lượng thiết kế.
Đối với các sản phẩm xây dựng yêu cầu khách hàng được đảm bảo lớn ở giai đoạn thiết kế, ở đó mọi tiêu chí như mẫu mã, kích thước, bố cục màu sắc được thiết kế xuất phát từ yêu cầu phù hợp với công năng sử dụng – hay chính là khách hàng. Các tiêu chí này được coi như là chất lượng của công trình (khi thiết kế), như vậy giai đoạn thi công – là giai đoạn chuyển công trình từ trên giấy thành hiện thực – sẽ là giai đoạn thực hiện chất lượng tổng hợp. Chất lượng của giai đoạn thực hiện chất lượng tổng hợp chính là mức độ đấp ứng của sản phẩm đối với từng yêu cầu đã nêu ra trong thiết kế.
Các yêu cầu tường
Các yêu cầu ẩn
Ý nghĩa chung
Đảm bảo cái chỉ ra trước đó
Phù hợp mong muốn của khách hàng
Đối với thiết kế
Đúng tiêu chuẩn, quy phạm
Thiết kế phù hợp kỹ - mỹ thuật, môi trường, giá, văn hóa (có kỹ năng)
Đối với thi công
Đúng thiết kế, hợp đồng
Thi công đẹp, đường nét hoàn hảo
Tóm lại, chất lượng của công trình xây dựng, một mặt là tính chất phù hợp với công năng sử dụng độ bền công trình, an toàn kết cấu cảnh quan môi trường kỹ thuật, công nghệ thi công và phù hợp với mức chi phí chấp nhận được, mặt khác là những nét đặc trưng cho công trình ở mức độ hoàn hảo các tính chất nói trên. Các tính chất và đặc trưng này đạt được dần trong các giai đoạn thiết kế và thi công xây lắp. Giải pháp thiết kế tốt có được nhờ đầu óc tư duy, sáng tạo, sự lao động, cống hiến của các kỹ sư thiết kế. Trong giai đoạn thi công, chúng đạt được nhờ quá trình thi công được tổ chức một cách khoa học, có kỹ thuật, có quán triệt được các yêu cầu về kỹ thuật, mỹ thuật đối với quá trình sản xuất và sản phẩm xây dựng, nhờ lao động hiệu quả với kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp của mọi người lao động trên công trường.
1.3 Các tiêu chí và chỉ tiêu chất lượng
Xuất phát từ tư tưởng cho rằng chất lượng là sự đáp ứng các yêu cầu của mọi phía và đưa lại lợi ích cho mọi bên như nhà sản xuất, khách hàng và xã hội, nhiều tác giả đã đề cập đến các đại lượng đặc trưng cho chất lượng của sản phẩm. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng chất lượng có thể được đánh giá qua nhiều đặc tính khác nhau, đó là sự vận hành suôn sẻ của sản phẩm, độ tin cậy và độ bền; sự phù hợp với những đặc tính nêu sẵn; sự thuận tiện trong sử dụng, sửa chữa và bảo hành; kiểu dáng, âm thanh và mùi vị; và cuối cùng là sự nhìn nhận chất lượng nhờ uy tín của nhà sản xuất, phương pháp quảng cáo Xét trong diện hẹp của sản phẩm lấy sản phẩm xây dựng làm thí dụ chất lượng của các sản phẩm xây dựng - các công trình xây dựng – có thể được nhìn nhận qua một số tiêu chí như: công năng độ tin cậy , tính phù hợp, tính an toàn, tính kinh tế và thời gian. Cũng có cách tập hợp khác, đó là tính không hỏng (tức là tính chất của kết cấu, bộ phận công trình hay toàn bộ công trình duy trì được khả năng làm việc trong suốt thời gian nhất định tại những điều kiện vận hành nhất định); tính bảo toàn (là sản phẩm xây dựng giữ được các chỉ tiêu vận hành trong và sau thời gian bảo quản, vận chuyển); sự cố là sự mất khả năng làm việc của công trình hay bộ phận của nó mà không thể sửa chữa lại được. Dù tiếp cận cách nào thì tiêu chí chất lượng của sản phẩm xây dựng đều được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau trên nhiều giai đoạn hình thành (thực hiện) chất lượng. Tiêu chí chất lượng bao quát các giải pháp được quyết định trong thiết kế (như cấu tạo, vật liệu, công nghệ thi công) cũng như các biện pháp kỹ thuật – công nghệ và tổ chức sản xuất được thực hiện trong quá trình thi công.
Tiêu chí đặc trưng cho từng giai đoạn hình thành chất lượng sản phẩm.
Phản ánh chất lượng của giai đoạn thiết kế có các tiêu chí chất lượng thiết kế, đó là các giải pháp kiến trúc, kết cấu phù hợp với mục đích sử dụng, với môi trường cảnh quan ở khu vực xây dựng. Vật liệu xây dựng được lựa chọn để xây lắp công trình có thể là tiêu chí chất lượng: vật liệu bền, đẹp, sang trọng mà thông dụng dễ kiếm. Về giải pháp công nghệ thi công (trong nhiều trường hợp là để quyết định giải pháp kết cấu) – cái được coi như tiêu chí của chất lượng – đó là tính tiên tiến, tính phổ biến, tính hiện đại nhưng khả thi về kỹ thuật, phương pháp và nguồn lực.
Ở giai đoạn thi công thì do thi công là thực hiện chất lượng của thiết kế nên các tiêu chí chất lượng, trước hết xét về lượng, phải phản ánh được sự thực thi đúng và đủ các quy định mà thiết kế chỉ ra, và xét về mặt định tính thì phải kể đến quá trình thực hiện các quy định đúng theo yêu cầu (quy trình, quy phạm kỹ thuật), sản phẩm đẹp đến mức nào về đường nét, kích cỡ, bề mặt
Yếu tố vô cùng quan trọng có tính chất quyết định đối với chất lượng của các tiêu chí chất lượng trên đây là người lao động. Tiêu chí lao động có thể dùng nhiều trong kế hoạch đánh giá hoạt động của đơn vị thi công
Tiêu chí chất lượng cho thấy những khía cạnh mà chất lượng của sản phẩm xây dựng phản ánh. Mỗi tiêu chí được định dạng nhiều chỉ tiêu:
Bảng tiêu chí và chỉ tiêu chất lượng sản phẩm xây dựng:
Tiêu chỉ chất lượng
(Cái cần phản ánh)
Chỉ tiêu chất lượng
(Cái có khả năng phản ánh)
Chất lượng thiết kế:
- Giải pháp thiết kiến trúc, kết cấu;
- Vật liệu;
- Công nghệ thi công;
- Kinh tế.
- Kết cấu định hình;
- Vật liệu sang trọng nhưng dễ tìm;
- Hiện đại nhưng khả thi;
- Chi phí phù hợp.
Chất lượng thi công:
- Đúng quy định, đúng quy phạm;
- Đúng thiết kế;
- Đúng thời hạn;
- Đẹp, rẻ.
- Mức độ sai lệch về kích thước, độ cứng so với thiết kế (bền);
- Mức độ sai lệch với định mức, quy phạm;
- Mức độ đẹp (phẳng, sắc nét);
- Số sản phẩm hỏng, phải làm lại.
Chất lượng lao động:
- Mức độ làm đúng yêu cầu (không lỗi) nhờ kỹ năng.
- Chất lượng được hoàn thiện nhờ đạo đức nghề nghiệp
- Số người làm sai, làm hỏng sản phẩm;
- Số lượng sản phẩm làm hỏng do tay nghề;
- Số lượng sản phẩm hỏng do kỹ thuật lao động.
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm xây dựng.
Lý thuyết về chất lượng đã chỉ rõ các yếu tố quy định chất lượng của sản phẩm. Qua trình thi công trong xây dựng thường dài, trải qua nhiều giai đoạn và có nhiều thành phần tham gia. Trên mỗi giai đoạn, từng thành phần sản xuất (tham gia vào quá trình) đóng vai trò nhất định và có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng của sản phẩm.
- Cách tiếp cận hệ thống thể hiện ở thuyết 5M, lấy từ các chữ viết tắt bằng tiếng Anh:
+ Con người (Men);
+ Vật liệu (Materials) gồm tính năng, thành phần , hình thức;
+ Máy móc (Machines) gồm chủng loại, mức độ tiên tiến;
+ Phương pháp sản xuất (Methods) là quy trình thao tác, công nghệ, phương pháp kiểm tra;
+ Môi trường (Medium) như nhiệt độ, độ ẩm, độ sạch, biện pháp an toàn.
Trong các yếu tố trên, con người là yếu tố đầu tiên và số một được thể hiện qua các mặt như năng lực lãnh đạo, trình độ kỹ thuật và ý thức lao động của con người.
- Theo cách tiếp cận quản lý, các yếu tố chất lượng công trình xây dựng có thể phân thành 2 nhóm chính là chất lượng của khâu chuẩn bị, chất lượng của vật liệu và chất lượng của hoạt động xây lắp.
+ Chất lượng của công tác chuẩn bị thi công, phản ánh chất lượng của quá trình chuẩn bị thi công như lựa chọn và huy động lao động (tay nghề, kỹ năng), chất lượng của bản vẽ thi công (đúng, khoa học), chất lượng của máy móc, thiết bị thi công được lựa chọn (làm việc tốt, lựa chọn máy hợp lý)
+ Chất lượng của vật liệu thể hiện ở chỗ là tính chất của vật liệu đảm bảo được các yêu cầu trong hoạt động cung ứng, tuân thủ đúng theo tiêu chuẩn vật liệu như quy phạm đặt ra.
+ Chất lượng của quá trình tác nghiệp xây lắp – đó là trình độ tổ chức sản xuất, tổ chức công trường và khả năng kỹ thuật của nhà thầu. - Cách tiếp cận duy vật là nhóm gộp lại những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thành 2 nhóm là các yếu tố khách quan – phát sinh từ môi trường kinh doanh và các yếu tố chủ quan do chính doanh nghiệp gây ra.
+ Nhóm yếu tố khách quan: Trong nhóm yếu tố khách quan có thể kể đến các yếu tố thiên nhiên như điều kiện thời tiết, khí hậu, các yếu tố kỹ thuật như độ chính xác trong khảo sát nền đất, mức điều hòa trong cung cấp điện nước cho quá trình thi công trong công tác cung ứng nói chung các loại vật tư, thiết bị cho xây dựng. Cũng nên lưu ý là trong các yếu tố kỹ thuật nói trên cũng có vai trò của con người.
+ Nhóm yếu tố chủ quan của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố kỹ thuật như phương pháp tổ chức sản xuất, phương pháp cung ứng, cách thức triển khai các khâu chuẩn bị, sản xuất chính,và các yếu tố liên quan đến con người từ lãnh đạo đến công nhân sản xuất trực tiếp.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHẤT LƯỢNG CỦA DỰ ÁN
ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
Chất lượng công trình xây dựng không những có liên quan trực tiếp đến an toàn sinh mạng, an toàn cộng đồng, hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng công trình mà còn là yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Do có vai trò quan trọng như vậy nên luật pháp về xây dựng của các nước trên thế giới đều coi đó là mục đích hướng tới. Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, trong đó chất lượng công trình xây dựng cũng là nội dung trọng tâm, xuyên suốt.
2.1 - Đối với Chủ đầu tư:
Chưa có tính chịu trách nhiệm toàn bộ về chất lượng của công trình xây dựng thuộc dự án đầu tư do mình quản lý. Thực trạng trên do việc thành lập Ban quản lý dự án, lãnh đạo Ban Quản lý dự án chưa có đầy đủ điều kiện năng lực theo quy định. Khi được ký hợp đồng giao nhận thầu đối với những tổ chức tư vấn doanh nghiệp xây dựng còn thiếu và chưa đủ điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, theo quy định hiện hành. Quyền yêu cầu những đơ