Tiểu luận Chiếc nón lá trong đời sống người Việt

Có lẽ từ ngàn xưa, do đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, với thời tiết nắng lắm mưa nhiều, người Việt xưa đã biết lấy lá kết vào nhau để làm vật dụng đội lên đầu để che nắng che mưa, qua năm tháng dần dần nó được cải tiến thành những chiếc nón có hình dạng khác nhau và hình ảnh chiếc nón đã hiện diện trong đời sống thường ngày của người Việt Nam, trong cuộc chiến đấu giữ nước, qua nhiều câu chuyện kể và tiểu thuyết. Hoạ sĩ Đặng Mậu Tựu – Phó chủ tịch Hội Văn hóa nghệ thuật Thừa Thiên Huế cho biết: “Lịch sử nón Việt Nam qua nhiều giai đoạn, có những biến thiên, từ nón hình tròn (nón miền Bắc xưa), nón tròn dẹt (nón quai thao) đến nón hình chóp (nón Huế). Về mặt tạo hình, hình chóp tạo khối vững vàng trong không gian, nâng hiệu quả thẩm mỹ lên cao, nón có chiều sâu nên vừa che được nắng nhiều hơn, lại vừa tạo sự gọn gàng, duyên dáng”. Về thời điểm ra đời, nhiều tài liệu cho rằng Chiếc nón lá xuất hiện ở Việt nam vào thế kỉ thứ 13, đời nhà Trần. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 - 3000 năm về trước. Như vậy, có thể thấy chiếc nón đã xuất hiện ở Việt nam từ xa xưa dưới nhiều hình thức khác nhau.

pdf16 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11620 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chiếc nón lá trong đời sống người Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 TIỂU LUẬN MÔN: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM Đề tài: CHIẾC NÓN LÁ TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT Hà nội – 2010 2 MỤC LỤC 1. Vài nét về chiếc nón lá ..........................................................................................3 1.1. Lịch sử chiếc nón lá ở Việt nam ......................................................................3 1.2. Cấu tạo chiếc nón lá ........................................................................................3 1.3. Phân loại .........................................................................................................5 2. Chiếc nón lá của 3 miền ........................................................................................5 3. Giá trị của chiếc nón lá trong đời sống người Việt ............................................... 10 3.1 Ứng dụng với môi trường tự nhiên ................................................................. 10 3.2 Các công dụng thực tiễn khác ........................................................................ 11 3.3 Dùng làm trang trí .......................................................................................... 11 3.4 Thể hiện tước vị, giai tầng xã hội ................................................................... 11 3.5 Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt nam ................................................................ 12 3.6 Biểu hiện nét đặc trưng sắc Việt..................................................................... 13 4. Kết luận ............................................................................................................... 15 3 1. Vài nét về chiếc nón lá Nón lá là một loại nón đội đầu truyền thống của các dân tộc Đông Á và Đông Nam Á như Nhật Bản, Lào, Trung Quốc, Thái Lan... trong đó có Việt nam Cùng với áo dài, áo cánh, váy lĩnh, yếm đào, thắt lưng bao... chiếc nón được coi là một thứ phục trang phục, vì thế chiếc nón được xem là một trong những biểu tượng truyền thống của người Việt Nam, gắn bó với người Việt, không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị... 1.1. Lịch sử chiếc nón lá ở Việt nam Có lẽ từ ngàn xưa, do đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, với thời tiết nắng lắm mưa nhiều, người Việt xưa đã biết lấy lá kết vào nhau để làm vật dụng đội lên đầu để che nắng che mưa, qua năm tháng dần dần nó được cải tiến thành những chiếc nón có hình dạng khác nhau và hình ảnh chiếc nón đã hiện diện trong đời sống thường ngày của người Việt Nam, trong cuộc chiến đấu giữ nước, qua nhiều câu chuyện kể và tiểu thuyết. Hoạ sĩ Đặng Mậu Tựu – Phó chủ tịch Hội Văn hóa nghệ thuật Thừa Thiên Huế cho biết: “Lịch sử nón Việt Nam qua nhiều giai đoạn, có những biến thiên, từ nón hình tròn (nón miền Bắc xưa), nón tròn dẹt (nón quai thao) đến nón hình chóp (nón Huế). Về mặt tạo hình, hình chóp tạo khối vững vàng trong không gian, nâng hiệu quả thẩm mỹ lên cao, nón có chiều sâu nên vừa che được nắng nhiều hơn, lại vừa tạo sự gọn gàng, duyên dáng”. Về thời điểm ra đời, nhiều tài liệu cho rằng Chiếc nón lá xuất hiện ở Việt nam vào thế kỉ thứ 13, đời nhà Trần. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 - 3000 năm về trước. Như vậy, có thể thấy chiếc nón đã xuất hiện ở Việt nam từ xa xưa dưới nhiều hình thức khác nhau. 1.2. Cấu tạo chiếc nón lá 4 Theo sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, nón lá ở Việt Nam có nhiều biến đổi về kiểu dáng và chất liệu. Ban đầu khi chưa có dụng cụ để khâu thắt, nón được tết đan, sau đó từ khi có sự ra đời của chiếc kim, vào thời kỳ con người chế luyện được sắt (khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên), chiếc nón khâu như ngày nay ra đời. Trước kia, chiếc nón được phân thành 3 loại với tên gọi nón mười (hay nón ba tầm), nón nhỡ và nón đầu. Nhìn chung nón cổ vành rộng, tròn, phẳng như cái mâm. Ở vành ngoài cùng có đường viền quanh làm cho nón có hình dáng giống như cái chiêng. Giữa lòng có đính một vòng nhỏ đan bằng giang vừa đủ ôm khít đầu người đội. Nón ba tầm có vành rộng nhất. Phụ nữ thời xưa thường đội nón này đi chơi hội hay lên chùa. Nón đấu là loại nhỏ nhất và đường viền thành vòng quanh cũng thấp nhất. Trước kia người ta còn phân loại nón theo đẳng cấp của người chủ sở hữu nón. Các loại nón dành cho ông già, có loại cho nhà giàu và hàng nhà quan, nón cho trẻ em, nón cho lính tráng, nón nhà sư... Vật dụng làm nón gồm: lá, chỉ và khung nón. Lá thì có vùng lấy từ hai loại cây giống như cây lá kè, có sứa nhỏ, mọc ở những vùng đồi núi. Một loại có tên là lá tơi (tên chữ là du quy diệp), mềm và mỏng hơn. Ngoài ra, nón có thể được đan bằng các loại lá khác nhau như lá cọ, rơm, tre, lá cối, lá hồ chuyên làm nón v.v. Sợi chỉ khâu lá ngày xưa người dân dùng sợi nón – một loại sợi rất dai lấy từ bẹ cây móc, ngày nay người ta thường là sợi cước (người Huế thì lại dùng sợi chỉ đoác). Mỗi chiếc nón có hoặc không có dây đeo làm bằng vải mềm hoặc nhung, lụa để giữ trên cổ. Tàu lá nón khi đem về vẫn còn xanh răn reo, được đem là bằng cách dùng một miếng sắt được đốt nóng, đặt lá lên dùng nắm giẻ vuốt cho phẳng. Lửa phải vừa độ, nếu nóng quá thì bị ròn, vàng cháy, nguội quá lá chỉ phẳng lúc đầu, sau lại răn như cũ. Người ta đốt diêm sinh hơ cho lá trắng ra, đồng thời tránh cho lá khỏi mốc. Với loại lá non còn búp, chưa xòe ra hẳn, người ta phơi khô, nhưng không để cho khô quá, rồi đem ủi cẩn thận. Người ta “ủi” bằng cách lấy giẻ nhúng nước, đem hơ trên lửa cho nóng trước khi chà nhẹ lên lá, để “ủi” cho lá thẳng và những đường gân lá cũng bằng với mặt lá, đoạn đem treo lên từng chùm để giữ lá cho thẳng. 5 Nón thường có hình chóp nhọn hay hơi tù, tuy vẫn có một số loại nón rộng bản và làm phẳng đỉnh. Lá nón được xếp trên một cái khung gồm các nan tre nhỏ uốn thành hình vòng cung. Thường thì có 16 vòng xếp thành 16 tầng mỗi tầng có bán kính khác nhau. 16 vòng tạo cho chiếc nón dáng thanh tú, không quá cũn cỡn, không xùm xụp. Khung nón thường là do những người thợ có tay nghề chuyên môn làm sẵn. Ở Huế chiếc nón lá được thi vị hoá thêm bằng những bài thơ bên trong lớp lá. Muốn đọc ta đưa chiếc nón lá lên cao, nhìn xuyên qua ánh nắng mặt trời. Thơ sẽ hiện ra bên trong nón... 1.3. Phân loại Nón lá có nhiều loại như nón ngựa hay nón Gò Găng (sản xuất ở Bình Định, làm bằng lá dứa, thường dùng khi đội đầu cưỡi ngựa), nón quai thao (người miền Bắc Việt Nam thường dùng khi lễ hội), nón bài thơ (ở Huế, là thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hoặc một vài câu thơ), nón dấu (nón có chóp nhọn của lính thú thời phong kiến); nón rơm (nón làm bằng cọng rơm ép cứng); nón cời (loại nón xé te tua ở viền); nón gõ (nón làm bằng tre, ghép cho lính thời phong kiến); nón lá sen (còn gọi là nón liên diệp); nón thúng (nón là tròn bầu giống cái thúng, thành ngữ "nón thúng quai thao"); nón khua (nón của người hầu các quan lại thời phong kiến); nón chảo (nón mo tròn trên đầu như cái chảo úp, nay ở Thái Lan còn dùng), v.v.... 2. Chiếc nón lá của 3 miền Ở Việt Nam, cả ba miền Bắc, Trung, Nam đều có những vùng làm nón nổi tiếng và mỗi loại nón ở từng địa phương đều mang sắc thái riêng. Nón Lai Châu của đồng bào Thái; nón Cao Bằng của đồng bào Tày sơn đỏ; nón Thanh Hoá có 16-20 vành; nón Ba Ðồn (Quảng Bình) mỏng nhẹ và giáng thanh thoát; nón Gò Găng (Bình Ðịnh); nón Huế nhẹ nhàng, thanh mỏng nhờ lót bằng lá mỏng; nón làng Chuông (Thanh Oai, Hà Tây) là loại nón bền đẹp vào loại nhất ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Một số đặc trưng của chiếc nón lá ở một số tỉnh/thành phố: 6 Huế Nón lá có ở 3 miền nhưng với Huế thì chiếc nón đã trở thành biểu trưng cho vẻ đẹp, sự dịu dàng, thanh mảnh, duyên dáng của người phụ nữ Huế. Nghề nón ở Huế xuất hiện từ bao giờ, ai là tổ của nghề này... những câu hỏi ấy ngay cả các bậc cao tuổi nhất trong nghề ở Huế hiện nay cũng đều không biết. Nhưng có một điều có thể khẳng định là nghề nón ở Huế có từ rất lâu và đã đi vào ca dao, tục ngữ của xứ này. Nhiều người dân Huế đã thuộc nằm lòng những câu thơ phổ biến: “Ai ra xứ Huế mộng mơ Mua về chiếc nón bài thơ làm quà” Hay: “Mát mặt anh hùng khi nắng hạ Che đầu thôn nữ lúc mưa sa” Nghề nón ở Huế có ở khắp nơi với những làng nghề nổi tiếng như: làng Đồng Di – Tây Hồ - La Ỷ - Nam Phổ (huyện Phú Vang) - Phủ Cam - Đốc Sơ (thành phố Huế). Mỗi làng chuyên về một loại nón: làm nón 3 lớp thì có La Ỷ, Nam Phổ, Đốc Sơ; làm nón bài thơ nổi tiếng có Đồng Di - Tây Hồ - Phủ Cam. Trong cấu tạo hình dáng và độ thanh mảnh thì nón Huế có những điểm khác biệt so với nón ở các vùng miền khác. Cho nên, dẫu đều là nón lá nhưng với những đặc điểm riêng của mình: “Áo trắng hỡi thuở tìm em chẳng thấy Nắng mênh mang mấy nhịp Trường Tiền Nón rất Huế nhưng đời không phải thế Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng” Nói về Làng Đồng Di (Thôn Di Đông – xã Phú Hồ - huyện Phú Vang), đây là làng làm nón bài thơ nổi tiếng từ xưa đến nay của Huế. Nón bài thơ Đồng Di nổi tiếng đẹp nhờ màu lá xanh, mũi kim chằm dày mà đều tăm tắp, chiếc nón nhẹ thênh, sáng trong, thấy rõ những vần thơ, những hoạ tiết ẩn chìm trong nón. Vào mùa thì người lớn ra đồng làm lúa, trẻ em ở nhà làm nón, hết vụ mùa thì cả gia đình cùng lao vào 7 nghề. Vào năm học, trẻ em một buổi đi học, một buổi về nhà chằm nón, tuy thu nhập thấp nhưng cũng góp phần giúp bố mẹ lo khoản sách vở cho năm học mới. Một tuần, mười ngày, nón Đồng Di được người làng đem bán tại chợ Dạ Lê. Những ngày chợ quê vẫn còn là dịp trẻ em háo hức với những món quà mẹ mua, người phụ nữ sắm vật dụng cần thiết cho gia đình. Nón Huế ngày nay không chỉ có nón bài thơ, nón 3 lớp, nón quai găng như ngày xưa mà theo thị hiếu của người tiêu dùng, nón Huế bây giờ còn có thêm nón thêu, nón lá kè. Và cũng do cuộc sống phát triển, phương tiện giao thông bằng xe gắn máy không thích hợp cho việc đội nón nên bây giờ nhiều phụ nữ trẻ Huế đã không còn cơ hội “nghiêng nón làm duyên”. Quảng Nam Đối với người dân Quảng Nam, nếu nón không làm bằng lá thì hai chữ nón và mũ lại được dùng như nhau, chẳng hạn: nón rơm - mũ rơm, hay nón nỉ - mũ nỉ. Người dân quê Quảng Nam ngày trước thường dùng hai loại lá tơi và lá nón trên đây, tùy theo chất lá: lá non mềm và mỏng thì dùng làm nón; còn lá già, dày và có gân cứng thì dùng làm tơi, gọi là áo tơi, tức là cái áo đi mưa ngày trước. Sau khi nan tre mềm và nhỏ được vót tròn và ghép uốn thành vành để bắt vành và đặt ở trong khung (ở vùng quê Quảng Nam thường gọi là khuôn), người làm nón xếp hai, ba lớp lá đã được ủi sẵn lên khung. Lá mỏng lợp ra ngoài, lá dày lợp bên trong. Muốn nón đội chắc và bền, thì lợp toàn lá dày. Những chiếc nón lá người đi cày ở quê ngày trước thường đội là loại nón lợp lá dày này. Vành nón cũng phải chuốt mỏng hơn, để nón đội được nhẹ nhàng, trang nhã. Giai đoạn chót là chằm nón: dùng chỉ cước khâu lại các lớp lá vô vành. Đến vành cuối cùng là vành lớn nhất thì người chằm nón dùng một vành tre to, kèm theo vành tre nhỏ, để kẹp lá vào giữa cho chắc, cho lá khỏi tụt ra và xơ rách. Việc may hay viền vành nón cuối cùng này, người làm nón gọi là nút vành. Phải may cẩn thận một mũi dài, hai mũi ngắn, thật đều, mà người trong nghề gọi là kiểu may một mẹ hai con; một cách gọi khá lạ tai, nhất là với các bạn trẻ ngày nay. 8 Nón chuông - Hà Tây Nằm ở huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, làng Chuông là một làng nghề được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến, với sản phẩm chính là nón. Ngôi làng nghề này luôn tấp nập khách ra vào không chỉ để đặt hàng, mà còn để tham quan, tận mắt chứng kiến công việc làm nón. Nguyên liệu chính để làm nón đó là lá cọ, những chiếc nón được chọn là búp trắng của cây cọ mua từ Phú Thọ, hay lá nội mua từ Hà Tĩnh, vòng nón bằng mây tre cũng phải mua từ những nơi khác... Chiếc nón quai thao với vẻ đẹp độc đáo, quai nón màu hồng, được gắn thêm 2 chùm dây tua chỉ sợi tơ, nhuộm màu vàng đỏ, dành riêng cho thiếu nữ làng quê đi Hội xuân, Hội làng, hát chèo và hát quan họ... Nhiều người làng Chuông rất giỏi làm nón quai thao, chiếc nón độc đáo đặc trưng văn hóa vùng đồng bằng Bắc Bộ. Người làm nón quai thao phải tỷ mỉ, khéo tay và có nhiều kinh nghiệm vì phải thực hiện nhiều khâu như: chọn, xếp, khâu lá vào vòng nón, khâu mũ nón trong vòng nón, thêu chỉ màu trang trí vành nón. Để có một chiếc nón quai thao đẹp có khi người thợ phải làm đến cả ngày. Nón quai thao không chỉ được nhiều đoàn nghệ thuật đặt mua, mà còn là một vật lưu niệm được du khách nước ngoài rất ưa thích. Nhiều du khách đến từ Đức, Pháp, Anh... thường mua nón Chuông về để làm món quà lưu niệm. Xa xưa nón làng Chuông là cống vật tiến hoàng hậu, công chúa bởi vẻ đẹp rất riêng được làm nên bởi những bàn tay tài hoa khéo léo của các nghệ nhân lành nghề. Ngày nay, nón làng Chuông có mặt khắp nơi, cả trên thị trường trong nước lẫn ngoài nước. Công đoạn làm nón buộc những người thợ đã phải bỏ ra khá nhiều công sức và thời gian. Đầu tiên là chọn lá. Lá lụi được đem về vò trong cát rồi phơi nắng cho đến khi màu xanh của lá chuyển sang màu trắng bạc. Sau đó lá được lót dưới nắm giẻ, dùng lưỡi cày miết nhanh sao cho lá phẳng mà không ròn, không rách. Vòng nón làm bằng cật nứa vót nhỏ và đều khi nối bắt buộc phải tròn và không chắp, không gợn. 9 Nón làng Chuông có 16 lớp vòng giúp nón có độ bền chắc nhưng vẫn mềm mại. Tiếp theo người thợ xếp từng lá vào vòng nón, một lớp mo tre và một lớp lá nữa rồi khâu. Khâu là một công đoạn rất khó bởi phải đảm bảo lá không bị rách nhưng từng mũi khâu phải thẳng đều từ vòng trong ra vòng ngoài. Khi chiếc nón được khâu xong, người thợ hơ bằng hơi diêm làm cho màu nón trở nên trắng muốt và giúp nón không mốc. Làm nón cũng là một cách làm kinh tế. Người dân làng Chuông từ người già đến em nhỏ đều biết làm nón. Nghề này đã giúp cho người dân tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống và góp phần xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp và gìn giữ một nghề truyền thống có giá trị. Chiếc nón xuất hiện từ khi nào không ai biết. Từ thời xưa đã có câu: "Nón chuông, khua lụa, quai thao làng Đơ". Chiếc nón quai thao đã được các bà, các cô (tầng lớp trung lưu trở lên) ưa chuộng, chiếm vị trí quan trọng trong trang phục lễ hội của phụ nữ mà thời Nguyễn được sử dụng phổ biến nhất. ở Hà Nội xưa, các "cô ả" mười lăm, mười sáu - cái tuổi bắt đầu làm duyên, thường đi sắm chiếc nón Nghệ. Về cái nón Nghệ, nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy mô tả: "nón rộng đến 80 cm, sâu 10 cm, lần lót đan bằng sợi tre rất nhỏ, đằng sau cài những mảnh gương vào. Nón Nghệ nặng lắm vì thế, cái "khua" phải cứng, sơn quang dầu. Lên Hàng Bạc sắm một bộ "chiên, thẻ". Chiên là miếng bạc vuông, trong đó có vòng tròn, chạm hai rồng chầu mặt nguyệt. Hai chiếc thẻ cũng bằng bạc, to như quân bài tam cúc, chạm hoa lá, ở giữa có cái vòng để buộc quai thao. Cắm hai cái thẻ vào bên trong nón, đặt cái chiên vào đáy khua, rồi chờ phiên chợ hàng tơ, các bà làng Triều Khúc ra bán quai thao. Một bộ quai thao gồm tám sợi bằng tơ, mỗi sợi gồm nhiều sợi tơ, ngoài bọc tơ dệt liên tục, như bấc đèn con. Quai thao dài độ 1,5m. Hai đầu mỗi sợi thao là một quả găng, từ đó rủ xuống những chỉ tơ, dài độ 20 cm. Phải đưa thao mộc đi nhuộm thâm, nhuộm kỹ". Chỉ như thế cũng đủ biết chiếc nón được làm công phu đến mức nào. Về cái quai thao của nón, có hẳn một làng giữ nghề làm thao, đó là làng Triều Khúc (Thanh Trì - Hà Nội) nổi tiếng dệt quai thao nón dẹt nên còn có tên là Làng Đơ Thao. Làng này còn có đền thờ, tượng, và sự tích tổ sư nghề Thao là Vũ úy, thời Lê - Trịnh (thế kỷ 17-18) được cử sang sứ Trung Hoa và học được nghề dệt Thao, khi về 10 vua phong làm "Cục trưởng cục Thao" và tổ chức dạy nghề này cho dân làng Triều Khúc - Đơ Thao. Bây giờ người làng vẫn còn truyền tụng câu ca như một niềm tự hào: Làng tôi công nghệ đâu bằng Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân Quai thao dệt khéo vô ngần Là nghề của Vũ sứ thần dạy cho... 3. Giá trị của chiếc nón lá trong đời sống người Việt Chiếc nón lá Việt Nam là một phần cuộc sống của người Việt Nam. Nó là người bạn thủy chung của những con người lao động một nắng hai sương. Chiếc nón Việt Nam không chỉ được làm ra để che mưa, che nắng, nó còn được dùng thay quạt trong những trưa hè nóng bức, làm cơi đựng trầu khi gặp bạn, làm quà tặng, vật kỷ niệm cho nhau. Nhưng công dụng của nó không dừng lại ở đấy, nó đã trở thành một phần cuộc sống của người Việt Nam. Trên đường xa nắng gắt hay những phút nghỉ ngơi khi làm đồng, ngồi bên rặng tre người ta có thể dùng nón quạt cho ráo mồ hôi. Bên giếng nước trong, giữa cơn khát cháy cổ, nón có thể trở thành chiếc cốc vại khổng lồ bất đắc dĩ, hay có thể thay chiếc chậu vục nước mà áp mặt vào đó cho giải bớt nhiệt. 3.1 Ứng dụng với môi trường tự nhiên Trước hết, nón là một đồ dùng rất "thực dụng". Có thể thấy rằng, Việt nam có khí hậu nhiệt đới, nắng mưa quanh năm, chính vì vậy chiếc nón được làm phương tiện đội đầu, dùng để che mưa nắng. Nón chóp nhọn đầu, nón thúng rộng vành, nón ba tầm như nón thúng nhưng mảnh dẻ hơn... tất cả đều để che chắn cho những con người sống trên một dải đất nắng lắm mưa nhiều. Dù nón có nhiều loại, song nét đặc thù chung của nó là rộng vành (để chống nóng) và có mái dốc (để thoát nước nhanh, che mưa). 11 3.2 Các công dụng thực tiễn khác Ngoài chức năng ứng phó với môi trường tự nhiên, trong khi dùng người Việt còn "sáng tạo" ra bao nhiêu là công dụng khác. Chiếc nón được sử dụng để quạt mát mồ hôi mỗi khi nóng, dùng làm những chiếc “cốc” bất đắc dĩ để thõa mãn cơn khát. Mỗi khi có gió, thì chiếc nón có thể được che diêm mà hút thuốc lào, mỏi thì lót xuống ngồi,... mà túng nữa thì làm cái rổ đựng đồ mua chợ cho mẹ... Bên một cánh đồng, em bé chăn trâu nằm dưới gốc cây, cả bác thợ cày cũng vậy, dùng nón che mặt, để vừa tránh nắng, vừa ngăn ruồi muỗi khỏi quấy rầy giấc ngủ trưa hiền hòa... 3.3 Dùng làm trang trí Hình ảnh chiếc nón cũng được sử dụng nhiều trong cuộc sống. Nón lá xuất hiện như là vật trang trí duyên dáng trong các khách sạn, nhà hàng, trong các dịp lễ hội. Không chỉ ở các cửa hàng phục vụ chủ yếu cho người Việt, những cửa hàng thường có khách hàng nước ngoài, chiếc nón cũng được trang trí ở những vị trí trang trọng nhất, nó không chỉ có vai trò trang trí, tô điểm thêm vẻ đẹp của cửa hàng mà còn thay lời giới thiệu về một đất nước Việt nam với nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều nét truyền thống với những con người thân thiện, mến khách. 3.4 Thể hiện tước vị, giai tầng xã hội Bước chân vào một cửa hàng ở phố Hàng Nón - Hà Nội xưa, người ta có thể nhìn qua chiếc nón mà thấy đủ thứ "tước vị", "giai tầng" trong xã hội. Có nón "mũ chảo", nón "nông dân xứ Đoài". Các anh chạy xe ba gác thì có một cái "nón cu li" ba xu. Các cậu lính lệ, phục dịch cửa quan thì có "nón lính" làm bằng thanh tre ken lại, giống như cái đĩa úp lên đầu, trên có chỏm đồng, sau có lưỡi vải che gáy. Trong "nón lính" thì gồm nhiều loại, có nón lính ma tà, rồi khố đỏ, khố xanh. Các bà ngồi chợ bao giờ vào hàng cũng tìm nón Nghệ, nón "nhị thôn", nón "ba tầng" treo đung đưa trên mái nhà... Đấy là các loại nón dành cho "dân đen" còn các "quan phụ mẫu" dùng kiểu khác: tổng lý ưa nón lông quạ, bông bèo đồng, các quan nhỏ chuộng nón chóp 12 và bông bèo bạc, các cụ lớn thì dùng nón lông trắng, bông bèo vàng. Các tao nhân nữ sĩ thì lùng cho kỳ được nón dứa Huế, Gò Găng, những chiếc lá nhẹ và thanh. 3.5 Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt nam Chiếc nón lá ngày trước, ngoài để che nắng che mưa, còn là vật trang sức rất có duyên, mang nét trữ tình thầm kín của người con gái Việt Nam, người phụ nữ Việt nam đẹp một cách tế nhị, kín đáo. Dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, lúm đồng tiền, những sợi tóc mai, cái gáy trắng ngần của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên dáng, kín đáo mà không kém phần quyến rũ... Và có lẽ không ở nơi đâu có nhiều nữ sinh duyên dáng với mái tóc đen dài óng ả
Luận văn liên quan