Phải chăng bằng chứng phù hợp với những dự đoán của các mô hình tăng
trưởng nội tại cho rằng cấu trúc thuế và chi tiêu công có thể ảnh hưởng đến tốc độ
tăng trưởng ổn định? Nhiều nghiên cứu trước đây cần phải được đánh giá xem xét
lại vì đã bỏ qua độ lệch liên quan đến việc không nêu đầy đủ chi tiết của giới hạn
ngân sách chính phủ. Chúng tôi chỉ ra rằng những độ lệch này là trọng yếu và điều
chỉnh chúng, tìm kiếm cơ sở vững chắc cho mô hình Barro (1990,
Chi tiêu của chính phủ trong một mô hình tăng trưởng nội sinh. Tạp chí Chính trị
Nền kinh tế 98 (1), S103-117, cho một nhóm 22 quốc gia OECD, 1970-1995.
Đặc biệt chúng tôi tìm thấy (1)thuế gây bóp méo kìm hã m tăng trưởng, trong khi
thuế không gây bóp méo thì không, và (2)Chi tiêu chính phủ vào sản xuất đẩy mạnh
tăng trưởng, trong khi chi tiêu phi sản xuất không có tác dụng đối với tăng trưởng
24 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1753 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách tài khóa và tăng trưởng: bằng chứng từ các nước oced, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 1
Tiểu luận
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ TĂNG TRƯỞNG: BẰNG
CHỨNG TỪ CÁC NƯỚC OCED
FISCAL POLICY AND GROWTH: EVIDENCE FROM OECD COUNTRIES
(Richard Kneller , Michael F. Bleaney , Norman Gemmell)
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 2
MỤC LỤC
1. Giới thiệu: ....................................................................................................................... 3
2. Lý thuyết dự đoán:........................................................................................................ 5
3. Bằng chứng thực nghiệm hiện có : ............................................................................ 7
4. Phương pháp luận thực nghiệm và kết quả: ........................................................... 7
4.1. Dữ liệu và phương pháp luận:................................................................................. 9
4.2. Kết quả thực nghiệm:............................................................................................. 13
4.3 Kiểm định robustness:............................................................................................. 15
4.3.1 GDP ban đầu: .................................................................................................. 16
4.3.2 Thay đổi kỳ 5 năm: ........................................................................................... 16
4.3.3. Ước tính biến công cụ:.................................................................................... 19
4.3.4. Phân loại lại các biến tài chính ..................................................................... 20
5. Kết luận :....................................................................................................................... 22
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 3
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ TĂNG TRƯỞNG: BẰNG CHỨNG TỪ CÁC
NƯỚC OCED
FISCAL POLICY AND GROWTH: EVIDENCE FROM OECD COUNTRIES
(Richard Kneller , Michael F. Bleaney , Norman Gemmell)
Phải chăng bằng chứng phù hợp với những dự đoán của các mô hình tăng
trưởng nội tại cho rằng cấu trúc thuế và chi tiêu công có thể ảnh hưởng đến tốc độ
tăng trưởng ổn định? Nhiều nghiên cứu trước đây cần phải được đánh giá xem xét
lại vì đã bỏ qua độ lệch liên quan đến việc không nêu đầy đủ chi tiết của giới hạn
ngân sách chính phủ. Chúng tôi chỉ ra rằng những độ lệch này là trọng yếu và điều
chỉnh chúng, tìm kiếm cơ sở vững chắc cho mô hình Barro (1990,
Chi tiêu của chính phủ trong một mô hình tăng trưởng nội sinh. Tạp chí Chính trị
Nền kinh tế 98 (1), S103-117, cho một nhóm 22 quốc gia OECD, 1970-1995.
Đặc biệt chúng tôi tìm thấy (1)thuế gây bóp méo kìm hã m tăng trưởng, trong khi
thuế không gây bóp méo thì không, và (2)Chi tiêu chính phủ vào sản xuất đẩy mạnh
tăng trưởng, trong khi chi tiêu phi sản xuất không có tác dụng đối với tăng trưởng.
1. Giới thiệu:
Tỷ lệ phân chia các khoản chi tiêu chính phủ, hoặc các thành phần của chi
phí và doanh thu có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng trong dài hạn hay không?
Theo các mô hình tăng trưởng tân cổ điển của Solow (1956) và Swan (1956), câu trả
lời phần lớn là "không". Ngay cả khi chính phủ có thể tác động đến tốc độ tăng
trưởng dân số, ví dụ như giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh hoặc khuyến khích sinh đẻ,
những điều trên không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng dài hạn của thu nhập bình
quân trên đầu người. Trong các mô hình này, thuế và các biện pháp chi tiêu ảnh
hưởng đến tỷ lệ tiết kiệm hoặc khuyến khích đầu tư vốn vào vật chất hay con người
cuối cùng ảnh hưởng đến tỷ số cân bằng tài chính hơn là tốc độ tăng trưởng bền
vững.
Ngược lại, trong các mô hình tăng trưởng nội sinh, vốn đầu tư vào con người
và vật chất ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng bền vững, và do đó trong các mô hình
này, ít nhất một số yếu tố thuế và chi tiêu công đóng vai trò trong quá trình tăng
trưởng. Kể từ khi có sự đóng góp tiên phong của Barro (1990), King và Rebelo
(1990) và Lucas (1990), một số bài báo đã mở rộng việc phân tích thuế, chi tiêu
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 4
công và tăng trưởng, chứng minh trong một vài điều kiện khác nhau với các biến tài
khóa có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn (ví dụ, Jones và cộng sự, 1993;.
Stokey và Rebelo, 1995;. Mendoza và cộng sự, 1997).
Nếu lý thuyết là hợp lý hoàn toàn, tuy nhiên, trên thực tế không phải như vậy.
Như Stokey và Rebelo (1995, trang. 519) tuyên bố, '' Những ước tính gần đây của
tác động đến tăng trưởng tiềm năng của thuế biến động khá lớn, từ 0 đến 8%’'. Trên
thực tế, hầu như không có nghiên cứu đi sâu vào kiểm tra các dự đoán của mô hình
tăng trưởng nội sinh đối với các cấu trúc của cả thuế và chi tiêu trong với cách mà
chúng tôi làm ở đây ( Devarajan và cộng sự(1996). Chỉ làm như vậy cho vấn đề chi
tiêu).
Hơn nữa, vài nhà nghiên cứu đã công nhận rằng nghiên cứu một phần (ví dụ
như những người tập trung nghiên cứu có chọn lọc chỉ một mặt của ngân sách và bỏ
qua những mặt khác) thiên lệch về phương pháp liên kết các tham số ước lượng với
các giả định tài chính tiềm ẩn. Điểm này đã được chứng minh bởi Helms (1985),
Mofidi và Stone (1990) và Miller và Russek (1993) với các bộ dữ liệu khác nhau.
Chúng tôi khám phá ý nghĩa của lập luận này cho đặc điểm kỹ thuật hồi quy
và cho thấy rằng, nếu điều này bị bỏ qua, sự thiên lệch trong ước lượng về tác động
tăng trưởng của các biến tài khóa có thể là đáng kể.
Trong bài báo này, chúng tôi kiểm tra những dự đoán cụ thể về chính sách
công của mô hình tăng trưởng nội sinh gần đây như Barro (1990) và Mendoza et al.
(1997), chú ý cẩn thận để tránh nguồn gốc của thiên lệch vừa được đề cập đến. Sử
dụng các tiêu chuẩn đề xuất của các mô hình này để phân loại dữ liệu tài chính,
chúng ta xem xét các tác động tăng trưởng của tài chính chính sách đối với một
nhóm 22 quốc gia OECD trong giai đoạn 1970-1995. Chúng tôi đã thấy: (i) sự hỗ
trợ đáng kể cho các dự đoán của Barro (1990) đối với các tác động của cấu trúc thuế
và chi tiêu đối vớ tăng trưởng; (ii) việc không nêu chi tiết giới hạn ngân sách chính
phủ dẫn đến đánh giá các thông số rất khác nhau, như các nghiên cứu trước đó, đã
mắc lỗi cơ bản vì không có tính vững, và (iii)Kết quả của chúng tôi là vững trước
những thay đổi trong việc phân loại dữ liệu hoặc đặc điểm kỹ thuật hồi quy.
Phần còn lại của bài nghiên cứu được tổ chức như sau:
Phần 2: Tóm tắt các dự đoán chính sách công của mô hình tăng trưởng nội sinh gần
đây và thảo luận sự liên quan của giới hạn ngân sách chính phủ để kiểm tra thực
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 5
nghiệm.
Phần 3: Các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan
Phần 4: Thảo luận phương pháp thực nghiệm và kết quả cho các ví dụ từ OECD.
Phần 5: Kết luận.
2. Lý thuyết dự đoán:
Như chúng ta đã biết, chính sách công trong mô hình tăng trưởng tân cổ điển
(xem, cho ví dụ, Judd, 1985, Chamley, 1986) ủy thác vai trò của chính sách tài khóa
để đưa ra một quyết định mức sản lượng hơn là tỷ lệ tăng trưởng dài hạn. Trạng thái
tỷ lệ tăng trưởng ổn định được chi phối bởi các yếu tố ngoại s inh gồm tăng trưởng
dân số và tiến bộ kỹ thuật. Trong khi chính sách tài khóa có thể chỉ ảnh hưởng đến
hướng chuyển đổi tiến tới trạng thái ổn định này.
Ngược lại, chính sách công trong mô hình tăng trưởng nội sinh của Barro (1990),
Barro va Sala-i-Martin (1992), (1995) và Mendoza et al (1997) cung cấp cơ chế
bằng việc chính sách tài khóa có thể xác định được cả mức sản lượng và tỷ lệ tăng
trưởng ổn định.
Dự báo từ những mô hình tăng trưởng nội sinh này được xuất phát từ phân
loại các yếu tố của ngân sách chính phủ vào một trong bốn loại : thuế bóp méo hoặc
thuế không gây bóp méo và chi phí sản xuất hay chi phí phi sản xuất. Thuế bóp méo
trong bối cảnh này là những cái gây ảnh hưởng lên quyết định đầu tư của những tác
nhân (đối với khía cạnh vật chất, hoặc con người), tạo nên thuế gây chèn lấn và từ
đó bóp méo tỷ lệ tăng trưởng ổn định. Thuế không bóp méo không ảnh hưởng lên
quyết định tiết kiệm/đầu tư vì nó tạo ra chức năng thiên về tính tự nhiên, và vì vậy
nó không gây tác động lên tỷ lệ tăng trưởng.
Chi tiêu chính phủ được phân biệt theo mặc dù chúng bao gồm sự tranh luận
trong các chức năng sản xuất tư nhân hoặc không. Nếu có, thì chúng được phân loại
mang tính sản xuất và vì vậy có một ảnh hưởng trực tiếp lên tỷ lệ tăng trưởng. Nếu
chúng không có, thì chúng được phân loại như chi phí phi sản xuất và không ảnh
hưởng lên tỷ lệ tăng trưởng ổn định (xem trong Barro và Sala-i-Martin, 1995 để có
một lý thuyết trình bày rõ ràng).
Những kết quả này có thể được mở rộng theo nhiều cách khác nhau, ví dụ
như cho phép chính phủ được cung cấp hàng hóa mang tính sản xuất tồn kho hơn là
hình thức lưu lượng (Glomm và Ravikumar, 1994, 1997) hoặc cho các hình thức
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 6
khác nhau của thuế bóp méo (hoặc hình thức khác nhau của chi tiêu sản xuất) cho
các mức khác nhau (Devarajan et al., 1996., Mendoza et al., 1997). Những cái đó tất
nhiên có thể tranh luận qua việc phân loại các chi phí riêng biệt như sản xuất và phi
sản xuất hoặc của các loại thuế riêng biệt như thuế bóp méo và không bóp méo và
đây chính là điểm mà chúng tôi quay trở lại trong phần thực nghiệm.
Những mô hình này dự đoán rằng thay đổi quan điểm doanh thu từ hình thức
thuế bóp méo theo hướng không bóp méo có một tác động thúc đẩy tăng trưởng.
Trong khi chuyển đổi chi phí từ chi phí sản xuất theo hướng phi sản xuất làm hình
thức tăng trưởng chậm lại. Tài trợ của thuế không bóp méo làm tăng chi tiêu sản
xuất và được dự đoán tạo ra tác động tích cực lên tỷ lệ tăng trưởng. Trong khi tài trợ
thuế bóp méo được dự báo hiệu quả tăng trưởng không rõ ràng. Cuối cùng chi phí
phi sản xuất tài trợ bởi thuế bóp méo rõ ràng tạo ảnh hưởng tiêu cực lên tăng trưởng,
nhưng không ảnh hưởng được dự đoán nếu thuế không bóp méo tài chính được sử
dụng (xem Barro 1990).
Trong nghiên cứu thực nghiệm, một số vấn đề quan trọng thường bị bỏ qua -
là minh bạch hay không minh bạch tài chính của việc thay một đổi đơn vị trong
ngân sách chính phủ sẽ ảnh hưởng đến hệ số ước tính. Để đưa ra điểm chính thức,
giả sử rằng tốc độ tăng trưởng, git, trong đất nước i tại thời điểm t là một hàm của
các biến điều kiện (phi tài chính) , Yit , và một vector của biến số tài chính, Xjt.
git = α + iYit + jXjt + uit (1)
Giả định rằng tất cả các yếu tố của ngân sách (bao gồm cả thâm hụt / thặng dư) được
chứa trong đó, để
jt = 0,
một phần tử của X được bỏ qua trong ước tính của phương trình. (1) để tránh tuyến
tính hoàn toàn. Biến được bỏ qua cho rằng ảnh hưởng đến yếu tố cân bằng trong
ràng buộc ngân sách của chính phủ. Vì vậy, nếu chúng tôi viết lại phương trình. (1)
như sau:
git = α + iYit + jXjt + γmXmt + uit (2)
và sau đó bỏ qua Xmt để tránh đa tuyến tính, đồng nhất thức:
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 7
jt = 0
Áp dụng điều này ta có biểu thức của dự đoán là:
git = α + iYit + j- γm) Xjt + uit (3)
Các thử nghiệm giả thuyết tiêu chuẩn của hệ số tự do của Xjt trong thử
nghiệm thực tế với giả thuyết H0 là (γj – γm) = 0 hơn là γj = 0. Theo đó hiểu đúng hệ
số của mỗi loại tài chính là do ảnh hưởng của việc thay đổi một đơn vị trong biến có
liên quan được bù đắp bởi việc thay đổi một đơn vị trong loại được bỏ qua, đó là
yếu tố tài chính ẩn. Nếu loại được lựa chọn để bỏ qua được thay đổi, hệ số ước tính
của các loại này sẽ thay đổi. Điều này có nghĩa là người điều tra viên phải cẩn thận
để lựa chọn một loại bỏ qua "trung lập"(nơi mà lý thuyết đề xuất γm = 0).
Điều này có nghĩa là có thể chỉ kiểm tra sự khác nhau giữa hai giá trị γ, và
không cho từng giá trị γ, không loại trừ khả năng thử nghiệm có hai giá trị γ bằng
nhau. Điều này là phù hợp khi lý thuyết cho thấy rằng có nhiều hơn một loại trung
lập (trong trường hợp này, thuế không gây bóp méo và chi phí phi sản xuất), trong
trường hợp cả hai giá trị γ mong chờ sẽ là không. Nếu giả thuyết về bằng nhau
không thể bị loại bỏ, thì các thông số dự đoán sẽ được chính xác hơn bằng cách loại
bỏ cả hai. Nói cách khác, tiến trình thích hợp là kiểm tra xuống từ các minh bạch
đầy đủ nhất của ràng buộc ngân sách chính phủ đến minh bạch không đầy đủ, quan
tâm để bỏ qua những yếu tố lý thuyết này cho thấy sẽ có tác dụng tăng trưởng không
đáng kể. Nếu điều này không được thực hiện, và (ví dụ) biến chi phí này được bỏ
qua từ hồi quy và các biến số thuế cũng bao gồm (như trong Mendoza et al., 1997)2,
kết quả sẽ bị thiên lệch vì một phần tài chính tiềm ẩn bởi các yếu tố không trung lập
của ngân sách chính phủ. Trong ví dụ trường hợp, khi tăng một đơn vị thuế sẽ tài trợ
một phần cho chi phí sản xuất, tác động ước tính (tiêu cực) sẽ bị thiên lệch với
không (chúng tôi trình bày bằng chứng về điều này sau).
3. Bằng chứng thực nghiệm hiện có :
Phần lớn các nghiên cứu thực nghiệm nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế và biến tài chính trước khi mô hình tăng trưởng nội sinh chính sách
công liên quan ở trên, và thay đổi tập hợp dữ liệu, kỹ thật toán kinh tế và chất lượng.
Tính chất đặc biệt của các loại tài liệu trước năm 1990 hà m ý nó cung cấp, thời điểm
tốt nhất, chỉ kiểm tra thô có giá trị thực tiễn của mô hình tăng trưởng nội sinh (cũng
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 8
như đang chịu những định kiến được đề cập trước đó và kết quả thu được cũng rất
khác nhau).
Trong Kneller et al. (1998), chúng tôi lập bảng các nghiên cứu chính và kết
quả chủ yếu của nó, phân loại chúng dựa theo các biến tài chính bao gồm trong mô
hình hồi quy ( thuế, chi tiêu dùng của chính phủ, chi chuyển nhượng phúc lợi, đầu tư
của chính phủ). Có sự lan rộng nhưng không dừng của hệ số biểu hiện và ý nghĩa
thậm chí trong một số trường hợp các biến dường như giống nhau trong cách giống
nhau lý thuyết hồi quy. Một điểm nữa cũng được chứng minh bởi Levine va Renelt
(1992) Easterly và Robelo (1993) cung cấp những bằng chứng sâu xa về tính không
mạnh mẽ của các biến tài chính bằng việc chứng minh sự phụ thuộc của nó vào
nhóm biến điều kiện và điều kiện ban đầu.
Tính không mạnh mẽ một phần phản ánh khuynh hướng phổ biến thêm biến
tài chính để hồi quy trong một cách tương đối đặc biệt mà không chú ý đến hạn chế
tuyến tính ràng buộc ngân sách chính phủ. Chỉ có Helm (1985), Mofidy và Stone
(1990) Miller và Russek (1993) đã giải quyết được các vấn đề. Miller và Russek cho
ví dụ, tìm ( với bảng dữ liệu hàng năm của 39 quốc gia, 1975~1984 ) thấy rằng sự
tăng trưởng ảnh hưởng bởi sự thay đổi trong chi tiêu phụ thuộc chủ yếu theo cách
thức mà sự thay đổi trong chi tiêu được tài trợ. Nói chung kết quả của họ cho rằng
thay đổi trong chi tiêu được tài trợ bởi thuế sản xuất tác động tăng trưởng không
đáng kể, và rằng, nơi chúng xảy ra tác động tiêu cực có khuynh hướng liên quan đến
thâm hụt ngân sách thay đổi trong thuế hoặc chi tiêu. Ho không làm thế, tuy nhiên
không phân biệt sự khác nhau giữa loại chi tiêu và doanh thu trong các đề nghị của
mô hình tăng trưởng nội sinh.
Tầm quan trọng của sự định rõ các ràng buộc ngân sách chính phủ được đưa
ra bởi các thực nghiệm gần đây . Mendoza et al (1997) kết luận rằng kết hợp về thuế
không có tác động đáng kể lên tăng trưởng (mặc dù nó có tác động đáng kể lên đầu
tư tư nhân) . Nhưng kể từ khi hồi quy của họ không bao gồm những biến chi tiêu, dự
đoán của họ thiên về một phần tài chính tiềm ẩn của chi tiêu sản xuất. Điều này
được sinh ra bởi Kocherlakota và Yi (1997) tìm ra rằng các biện pháp về thuế ảnh
hưởng đáng kể đến tăng trưởng chỉ khi chi phí vốn công bao gồm trong hồi quy.
Đánh giá bằng chứng trong Kneller et al (1998) nêu bật những loạt dự toán tăng
trưởng ảnh hưởng đến chi tiêu chính phủ. Hầu hết các nghiên cứu này, tuy nhiên,
bao gồm không( hoặc một ít) biến về thuế. Có một số hỗ trợ cho quan điểm đầu tư
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 9
của chính phủ trong hình thức giao thông vận tải và thông tin liên lạc trải qua quá
trình sản xuất tạo tác động tích cực lên tăng trưởng, trong khi đó thu nhập từ thuế
cũng có xu hướng tạo ra hệ số tiêu cực đáng kể nhưng có rất ít sự nhất quán để tìm
ra các nghiên cứu.
4. Phương pháp luận thực nghiệm và kết quả:
4.1. Dữ liệu và phương pháp luận:
Như đã nói ở trên, trong khung của mô hình tăng trưởng nội sinh có liên quan
đến nghiên cứu này, kết quả được đưa ra nhờ vào sự phân loại của các biến tài chính
thành một trong bốn loại. Trong đó chúng ta thêm vào biến :thặng dư ngân sách nhà
nước và các khoản thu và chi tiêu mà chưa được phân loại rõ ràng (chúng ta gọi
những nguồn thu khác và "chi tiêu khác). Chúng tôi tổng hợp phân loại theo chức
năng dữ liệu tài chính của IMF thành bảy nhóm chính được mô tả trong Bảng 11 và
sau đó kiểm tra độ nhạy của kết quả này với việc phân loại dữ liệu trên.
Bảng 1
Tổng hợp lý thuyết về phân nhóm theo chức năng
Phân loại theo lý thuyết Phân loại theo chức năng
Thuế gây bóp méo Thuế Thu nhập và lợi nhuận
Đóng góp an sinh xã hội
Thuế trong sổ lương và nhân lực
Thuế trên tài sản
Thuế không gây bóp méo Thuế đối với hàng hóa và dịch vụ trong nước
Thu nhập khác Thuế đối với thương mại quốc tế
Thu nhập không thuế
Thu thuế khác
Chi tiêu sản suất Chi tiêu dịch vụ công cộng chung
Chi tiêu quốc phòng
Chi tiêu giáo dục
Chi tiêu y tế
Chi tiêu nhà ở
Chi tiêu vận tải và thông tin liên lạc
1 Các GFSY bao gồm nhóm 'cho vay trừ đi trả nợ ". Nhóm này, thường rất nhỏ (xem bảng 2) , được bỏ trong mô hình hồi quy như là một
biến r iêng biệt (elmr) nhưng sẽ không có nghiên cứu sâu hơn về nhóm này.
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 10
Chi tiêu phi sản xuất An sinh xã hội và phúc lợi xã hội chi tiêu
Chi tiêu cho giải trí
Chi sự nghiệp kinh tế
Chi tiêu khác chi tiêu khác (không phân loại)
Ghi chú: Phân loại theo chức năng sẽ được áp dụng cho nguồn dữ liệu nghiên cứu
Một vấn đề quan trọng là việc phân bổ các khoản thuế và chi tiêu , thành các
nhóm: gây bóp méo / không gây bóp méo và sản xuất / phi sản xuất. Trong khi tất
cả các loại thuế chính được sử dụng trong các nước OECD là bóp méo, thì trong thử
nghiệm mô hình tăng trưởng nội sinh thì sự bóp méo đó là để khuyến khích đầu tư
(trong cả tiềm lực tài chính và / hoặc nhân lực). Kế thừa từ nghiên cứu của Barro
(1990),chúng tôi phân loại thuế đánh trên thu nhập và tài sản là các loại thuế “gây
bóp méo”, 2các loại thuế tiêu thụ ( dựa trên chi tiêu) thì được xem như thuế "không
gây bóp méo ', trên cơ sở là nhóm thuế thứ hai sẽ không làm giảm lợi nhuận đầu tư,
mặc dù chúng có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn giữa lao động hay là nghỉ ngơi. Tất
nhiên, trong nhiều mô hình phức tạp (như Mendoza và cộng sự, 1997.) thuế tiêu thụ
đã bóp méo các quyết định đầu tư (ảnh hưởng gián tiếp) đến mức mà chúng ảnh
hưởng đến sự lựa chọn giữa lao động, giáo dục, giải trí của các đại lý. Tuy nhiên lưu
ý rằng, việc phân loại của chúng tôi là các loại thuế tiêu thụ được xem như "không
gây bóp méo" là một giả thuyết cho mô hình thực nghiệm 3của chúng tôi (chúng tôi
thử nghiệm ở phía sau), chứ đây không phải là một giả định. Việc phân loại chi tiêu
sản xuất / phi sản xuất chúng tôi dựa theo Barro và Sala-i-Martin (1995); Devarajan
et al. (1996) và phân chia chi tiêu lớn (vật chất hoặc con người) là chi tiêu 'sản
xuất'. Nhóm chi tiêu “phi sản xuất” là chi tiêu an sinh xã hội4.
Tập hợp dữ liệu của chúng tôi bao gồm 22 quốc gia phát triển cho giai đoạn
2 Trong m ột số mô hình tăng trưởng nội sinh thuế đánh trên vốn và thuế thu nhập lao động có tác động khác nhau đối với tăng trưởng.
Trong trường hợp không có dữ liệu phân tách phù hợp chúng tôi không thể kiểm tra hai loại thuế riêng và do đó ước tính tác động "trung
bình". Vì lý do tương tự, chúng tôi không thể tách thuế lợi