1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân số đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện nay đạt trên 18 triệu người, trong đó có khoảng 78,85% dân số sinh sống ở vùng nông thôn. Với đặc điểm dân số đông và trẻ nên có nguồn lao động phong phú, dồi dào, đặc điểm này là thế mạnh trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta nói chung và ĐBSCL nói riêng. Phần lớn người lao động vùng ĐBSCL tập trung ở vùng nông thôn, chủ yếu sản xuất nông nghiệp, do nền sản xuất nông nghiệp mang tính mùa vụ nên đã dẫn đến vấn đề dư thừa rất lớn thời gian lao động trong khu vực nông thôn.
Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ, cùng với việc ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, thực tế này đã làm giảm rõ rệt nhu cầu sử dụng lao động của nông thôn hiện nay. Bên cạnh đó, nguồn tài nguyên đất đai ngày càng hạn chế do nhu cầu đô thị hóa và nhiều mục đích khác cũng góp phần làm cho tình trạng lao động nông thôn không ổn định.
Dân số ĐBSCL hiện chiếm khoảng 21% dân số của cả nước nhưng cơ sở dạy nghề chỉ chiếm có 14% của cả nước và đa số chủ yếu tập trung ở các đô thị; trong đó chỉ có 55% các huyện có trung tâm dạy nghề. Hiện nay, tuy đã thành lập một số trường dạy nghề lớn và đa số các tỉnh đều đã có cơ sở dạy nghề nhưng nếu xét về quy mô đào tạo, số lượng ngành nghề, chất lượng hiệu quả đào tạo còn hạn chế; chưa đáp ứng nhu cầu lao động có chuyên môn kỹ thuật làm việc cho các khu công nghiệp, nhất là máy móc thực hành chưa đáp ứng nhu cầu thực tế và chưa theo kịp sự phát triển về khoa học – công nghệ hiện nay Theo đánh giá của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH), trong những năm qua, việc đào tạo và dạy nghề ở ĐBSCL đã có bước phát triển, đưa tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của vùng ĐBSCL từ 14,13% năm 2005 lên 20,58% vào cuối năm 2008. (Đầu tư Mê Kông, 2009).
Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có thị trường lao động và việc làm vẫn còn nhiều vấn đề nan giải, đặc biệt là lao động và dạy nghề cho khu vực nông thôn. Toàn vùng ĐBSCL hiện có 3,31% lao động thất nghiệp (trong đó lao động nông thôn là 2,97%), tỷ lệ thiếu việc làm là 9,33% (trong đó khu vực nông thôn là 10,49%). Thị trường lao động nông thôn tại vùng ĐBSCL phát triển chậm hơn nhiều so với các vùng khác trong cả nước, chất lượng nguồn nhân lực của lao động nông thôn cũng khá thấp, có đến 80% lao động nông thôn chưa qua đào tạo. (Niên giám thống kê năm 2009, cục thống kê Cần Thơ).
Tri Tôn là một huyện miền núi, biên giới, dân tộc, đồng thời cũng là một trong những huyện đầu nguồn của tỉnh An Giang, diện tích tự nhiên khoảng 59.805 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 74,48%, đất lâm nghiệp chiếm khoảng 8,89%, còn lại là đất ở và đất chuyên dùng. Toàn huyện Tri Tôn có hơn 32.720 hộ trên 124.000 người, trong đó huyện Tri Tôn có gần 50% đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. Địa hình đa dạng, vừa có đồi núi, vừa có đồng bằng với nhiều kênh mương lớn nhỏ ngang dọc. (Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, 2007).
Tri Tôn là một huyện nông nghiệp, mật độ dân số thấp nhất tỉnh nhưng diện tích đất tự nhiên rộng nhất. Là địa phương tập trung đồng bào dân tộc Khmer đông nhất của tỉnh An Giang, nhiều nơi vẫn còn sản xuất theo phương thức lạc hậu nên đời sống của đa số nông dân hãy còn nghèo khó. Nhiều năm qua, các cấp chính quyền và ngành nông nghiệp luôn nỗ lực phấn đấu mở rộng diện tích đất canh tác cũng như đầu tư mạnh tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, nên năng suất và sản lượng lúa đã dần được nâng cao, đời sống nông dân đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên phần lớn đời sống của người lao động nông thôn trong vùng vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
Cụ thể như vấn đề nước sạch, vệ sinh và môi trường kém, nhất là người Khmer nghèo và cận nghèo; người lao động quen với tập quán sản xuất nông nghiệp truyền thống, năng suất và chất lượng thấp, thiếu vốn sản xuất, thu nhập không ổn định, vấn đề tiếp cận khoa học kỹ thuật còn hạn chế nên khó có thể nâng cao tay nghề.
Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xu thế chủ động gia nhập vào kinh tế của khu vực và thế giới, người lao động có cơ hội tìm kiếm việc làm nhiều hơn, người lao động có thể vươn lên nắm bắt cơ hội và tự do làm việc theo năng lực của mình. Tuy nhiên, cũng có những thách thức đặt ra cho người lao động nông thôn, đó là yêu cầu về chất lượng nguồn lao động, người lao động không biết nghề hoặc chưa có trình độ chuyên môn cao thì rất khó tìm được việc làm. Mặt khác, ngày nay kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì nhóm dân cư dễ bị tổn thương nhất là nhóm nông dân. Chính vì thế chính sách và chiến lược việc làm cho người lao động nông thôn vùng ĐBSCL vẫn luôn là vấn đề cần thiết nhằm góp phần hỗ trợ cho người lao động nông thôn.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả và tác động của các chính sách và chiến lược việc làm cho người lao động nông thôn của vùng ĐBSCL: trường hợp huyện Tri Tôn tỉnh An Giang. Qua đó xác định những chính sách và chiến lược có hiệu quả nhằm phát huy cao hơn nữa lợi ích thiết thực cho người lao động nông thôn huyện Tri Tôn; đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của nông thôn ĐBSCL nói chung.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
1) Nghiên cứu đặc điểm của nguồn lao động khu vực nông thôn huyện Tri Tôn và nhu cầu việc làm hiện nay.
2) Nghiên cứu các chính sách và chiến lược hỗ trợ cho người lao động nông thôn vùng ĐBSCL và trường hợp của huyện Tri Tôn tỉnh An Giang.
3) Đánh giá hiệu quả của chính sách và chiến lược, bên cạnh đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy những hiệu quả đạt được.
1.3 CÂU HỎI ĐẶT RA CHO VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
(1) Thế mạnh và hạn chế của lao động ở vùng nông thôn ĐBSCL nói chung và huyện Tri Tôn là gì?
(2) Thực trạng về vấn đề lao động, việc làm ở ĐBSCL và huyện Tri Tôn hiện nay như thế nào?
(3) Làm thế nào để giải quyết tốt việc làm cho lao động nông thôn khu vực ĐBSCL và trường hợp cụ thể của huyện Tri Tôn?
(4) Chính sách và chiến lược gì đã và đang hỗ trợ cho đối tượng lao động nông thôn vùng ĐBSCL, đặc biệt tại huyện Tri Tôn?
(5) Tác động và hiệu quả đạt được của những chính sách và chiến lược đó đến đời sống của người lao động ra sao?
1.4 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về các chính sách và chiến lược hỗ trợ cho người lao động nông thôn vùng ĐBSCL: trường hợp của huyện Tri Tôn tỉnh An Giang. Đề tài tập trung nghiên cứu các chỉ tiêu: Giáo dục – Đào tạo, đào tạo nghề và một số chiến lược hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
Khu vực nông thôn tại huyện Tri Tôn tỉnh An Giang.
1.5 Ý NGHĨA KHOA HỌC ĐỀ TÀI
Đề tài là công trình nghiên cứu khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, là cơ sở để đánh giá nguồn nhân lực, hoạch định các chính sách và chiến lược hiệu quả hơn cho người lao động thuần nông hoặc phi nông nghiệp nông thôn.
1.6 CẤU TRÚC TIỂU LUẬN
Tiểu luận gồm có 5 chương, bao gồm các nội dung:
Chương 1 - Mở Đầu: Đặt vấn đề, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi đặt ra cho vấn đề nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, ý nghĩa khoa học của đề tài. Các chương còn lại được bố cục như sau:
Chương 2 - Lược khảo tài liệu: Giới thiệu tổng quan về vùng nghiên cứu, các vấn đề liên quan đến Chính sách và chiến lược việc làm ở nông thôn ĐBSCL: trường hợp huyện Tri Tôn tỉnh An Giang.
Chương 3 - Phương Pháp Luận Và Phương Pháp Nghiên Cứu: Mô tả phương pháp tiếp cận vấn đề nghiên cứu và phương pháp phân tích các số liệu.
Chương 4 - Kết Quả Và Thảo Luận: Diễn đạt nội dung nghiên cứu, phân tích và đánh giá số liệu, thảo luận kết quả nghiên cứu.
Chương 5 - Kết Luận Và Kiến Nghị: Trình bày ngắn gọn các kết luận đúc kết từ các kết quả nghiên cứu theo mục tiêu và nội dung của chương 4; đồng thời đề xuất giải pháp và kiến nghị một số phương án nhằm nâng cao hiệu quả hỗ trợ cho các chính sách đối với người lao động nông thôn ĐBSCL.
47 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2900 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách và chiến lược việc làm cho người lao động nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân số đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện nay đạt trên 18 triệu người, trong đó có khoảng 78,85% dân số sinh sống ở vùng nông thôn(((. Với đặc điểm dân số đông và trẻ nên có nguồn lao động phong phú, dồi dào, đặc điểm này là thế mạnh trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta nói chung và ĐBSCL nói riêng. Phần lớn người lao động vùng ĐBSCL tập trung ở vùng nông thôn, chủ yếu sản xuất nông nghiệp, do nền sản xuất nông nghiệp mang tính mùa vụ nên đã dẫn đến vấn đề dư thừa rất lớn thời gian lao động trong khu vực nông thôn.
Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ, cùng với việc ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, thực tế này đã làm giảm rõ rệt nhu cầu sử dụng lao động của nông thôn hiện nay. Bên cạnh đó, nguồn tài nguyên đất đai ngày càng hạn chế do nhu cầu đô thị hóa và nhiều mục đích khác cũng góp phần làm cho tình trạng lao động nông thôn không ổn định.
Dân số ĐBSCL hiện chiếm khoảng 21% dân số của cả nước nhưng cơ sở dạy nghề chỉ chiếm có 14% của cả nước và đa số chủ yếu tập trung ở các đô thị; trong đó chỉ có 55% các huyện có trung tâm dạy nghề. Hiện nay, tuy đã thành lập một số trường dạy nghề lớn và đa số các tỉnh đều đã có cơ sở dạy nghề nhưng nếu xét về quy mô đào tạo, số lượng ngành nghề, chất lượng hiệu quả đào tạo còn hạn chế; chưa đáp ứng nhu cầu lao động có chuyên môn kỹ thuật làm việc cho các khu công nghiệp, nhất là máy móc thực hành chưa đáp ứng nhu cầu thực tế và chưa theo kịp sự phát triển về khoa học – công nghệ hiện nay… Theo đánh giá của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH), trong những năm qua, việc đào tạo và dạy nghề ở ĐBSCL đã có bước phát triển, đưa tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của vùng ĐBSCL từ 14,13% năm 2005 lên 20,58% vào cuối năm 2008. (Đầu tư Mê Kông, 2009).
Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có thị trường lao động và việc làm vẫn còn nhiều vấn đề nan giải, đặc biệt là lao động và dạy nghề cho khu vực nông thôn. Toàn vùng ĐBSCL hiện có 3,31% lao động thất nghiệp (trong đó lao động nông thôn là 2,97%), tỷ lệ thiếu việc làm là 9,33% (trong đó khu vực nông thôn là 10,49%). Thị trường lao động nông thôn tại vùng ĐBSCL phát triển chậm hơn nhiều so với các vùng khác trong cả nước, chất lượng nguồn nhân lực của lao động nông thôn cũng khá thấp, có đến 80% lao động nông thôn chưa qua đào tạo. (Niên giám thống kê năm 2009, cục thống kê Cần Thơ).
Tri Tôn là một huyện miền núi, biên giới, dân tộc, đồng thời cũng là một trong những huyện đầu nguồn của tỉnh An Giang, diện tích tự nhiên khoảng 59.805 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 74,48%, đất lâm nghiệp chiếm khoảng 8,89%, còn lại là đất ở và đất chuyên dùng. Toàn huyện Tri Tôn có hơn 32.720 hộ trên 124.000 người, trong đó huyện Tri Tôn có gần 50% đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. Địa hình đa dạng, vừa có đồi núi, vừa có đồng bằng với nhiều kênh mương lớn nhỏ ngang dọc. (Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, 2007).
Tri Tôn là một huyện nông nghiệp, mật độ dân số thấp nhất tỉnh nhưng diện tích đất tự nhiên rộng nhất. Là địa phương tập trung đồng bào dân tộc Khmer đông nhất của tỉnh An Giang, nhiều nơi vẫn còn sản xuất theo phương thức lạc hậu nên đời sống của đa số nông dân hãy còn nghèo khó. Nhiều năm qua, các cấp chính quyền và ngành nông nghiệp luôn nỗ lực phấn đấu mở rộng diện tích đất canh tác cũng như đầu tư mạnh tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, nên năng suất và sản lượng lúa đã dần được nâng cao, đời sống nông dân đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên phần lớn đời sống của người lao động nông thôn trong vùng vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
Cụ thể như vấn đề nước sạch, vệ sinh và môi trường kém, nhất là người Khmer nghèo và cận nghèo; người lao động quen với tập quán sản xuất nông nghiệp truyền thống, năng suất và chất lượng thấp, thiếu vốn sản xuất, thu nhập không ổn định, vấn đề tiếp cận khoa học kỹ thuật còn hạn chế nên khó có thể nâng cao tay nghề.
Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xu thế chủ động gia nhập vào kinh tế của khu vực và thế giới, người lao động có cơ hội tìm kiếm việc làm nhiều hơn, người lao động có thể vươn lên nắm bắt cơ hội và tự do làm việc theo năng lực của mình. Tuy nhiên, cũng có những thách thức đặt ra cho người lao động nông thôn, đó là yêu cầu về chất lượng nguồn lao động, người lao động không biết nghề hoặc chưa có trình độ chuyên môn cao thì rất khó tìm được việc làm. Mặt khác, ngày nay kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì nhóm dân cư dễ bị tổn thương nhất là nhóm nông dân. Chính vì thế chính sách và chiến lược việc làm cho người lao động nông thôn vùng ĐBSCL vẫn luôn là vấn đề cần thiết nhằm góp phần hỗ trợ cho người lao động nông thôn.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả và tác động của các chính sách và chiến lược việc làm cho người lao động nông thôn của vùng ĐBSCL: trường hợp huyện Tri Tôn tỉnh An Giang. Qua đó xác định những chính sách và chiến lược có hiệu quả nhằm phát huy cao hơn nữa lợi ích thiết thực cho người lao động nông thôn huyện Tri Tôn; đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của nông thôn ĐBSCL nói chung.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu đặc điểm của nguồn lao động khu vực nông thôn huyện Tri Tôn và nhu cầu việc làm hiện nay.
Nghiên cứu các chính sách và chiến lược hỗ trợ cho người lao động nông thôn vùng ĐBSCL và trường hợp của huyện Tri Tôn tỉnh An Giang.
Đánh giá hiệu quả của chính sách và chiến lược, bên cạnh đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy những hiệu quả đạt được.
1.3 CÂU HỎI ĐẶT RA CHO VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Thế mạnh và hạn chế của lao động ở vùng nông thôn ĐBSCL nói chung và huyện Tri Tôn là gì?
Thực trạng về vấn đề lao động, việc làm ở ĐBSCL và huyện Tri Tôn hiện nay như thế nào?
Làm thế nào để giải quyết tốt việc làm cho lao động nông thôn khu vực ĐBSCL và trường hợp cụ thể của huyện Tri Tôn?
Chính sách và chiến lược gì đã và đang hỗ trợ cho đối tượng lao động nông thôn vùng ĐBSCL, đặc biệt tại huyện Tri Tôn?
Tác động và hiệu quả đạt được của những chính sách và chiến lược đó đến đời sống của người lao động ra sao?
1.4 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về các chính sách và chiến lược hỗ trợ cho người lao động nông thôn vùng ĐBSCL: trường hợp của huyện Tri Tôn tỉnh An Giang. Đề tài tập trung nghiên cứu các chỉ tiêu: Giáo dục – Đào tạo, đào tạo nghề và một số chiến lược hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
Khu vực nông thôn tại huyện Tri Tôn tỉnh An Giang.
1.5 Ý NGHĨA KHOA HỌC ĐỀ TÀI
Đề tài là công trình nghiên cứu khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, là cơ sở để đánh giá nguồn nhân lực, hoạch định các chính sách và chiến lược hiệu quả hơn cho người lao động thuần nông hoặc phi nông nghiệp nông thôn.
1.6 CẤU TRÚC TIỂU LUẬN
Tiểu luận gồm có 5 chương, bao gồm các nội dung:
Chương 1 - Mở Đầu: Đặt vấn đề, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi đặt ra cho vấn đề nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, ý nghĩa khoa học của đề tài. Các chương còn lại được bố cục như sau:
Chương 2 - Lược khảo tài liệu: Giới thiệu tổng quan về vùng nghiên cứu, các vấn đề liên quan đến Chính sách và chiến lược việc làm ở nông thôn ĐBSCL: trường hợp huyện Tri Tôn tỉnh An Giang.
Chương 3 - Phương Pháp Luận Và Phương Pháp Nghiên Cứu: Mô tả phương pháp tiếp cận vấn đề nghiên cứu và phương pháp phân tích các số liệu.
Chương 4 - Kết Quả Và Thảo Luận: Diễn đạt nội dung nghiên cứu, phân tích và đánh giá số liệu, thảo luận kết quả nghiên cứu.
Chương 5 - Kết Luận Và Kiến Nghị: Trình bày ngắn gọn các kết luận đúc kết từ các kết quả nghiên cứu theo mục tiêu và nội dung của chương 4; đồng thời đề xuất giải pháp và kiến nghị một số phương án nhằm nâng cao hiệu quả hỗ trợ cho các chính sách đối với người lao động nông thôn ĐBSCL.
CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
2.1.1 Tổng quan Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu của khu vực Đông Nam Á và thế giới, là vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. ĐBSCL cũng là vùng đất quan trọng đối với Nam Bộ và cả nước trong phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao thương với các nước trong khu vực và thế giới, là vùng kinh tế phát triển năng động, đóng vai trò chính trong sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của cả nước.
Đồng bằng sông Cửu Long gồm 13 tỉnh – thành phố, dân số hơn 18 triệu người, chiếm hơn 20,6% dân số cả nước, số người ở độ tuổi lao động hơn 60% dân số vùng, tương đương 10,5 triệu lao động. Đây là khu vực có lực lượng lao động khá dồi dào, cần cù, có điều kiện tiếp cận khoa học kỹ thuật, thông tin và kinh nghiệm quản lý,…Là điều kiện thuận lợi để nguồn nhân lực ĐBSCL ngày càng nâng cao chất lượng và phát huy tiềm năng lao động của mình.
Về mặt yếu tố kinh tế - xã hội, vùng có nền kinh tế nông nghiệp mang nhiều màu sắc, các loại hình kinh tế đa dạng như: kinh tế biển, kinh tế rừng, chủ yếu là nông nghiệp vùng ngập lũ. Với những nét đặt trưng của vùng kinh tế này, nó đòi hỏi tính năng động, sáng tạo đối với người dân ngay từ đầu, chủ động đối mặt với khó khăn, tạo sức bật cho họ thoát khỏi vòng lẩn quẩn của nền kinh kế tự cung tự cấp, không bảo thủ mà sẵn sàng đổi mới, linh hoạt trong cạnh tranh và hợp tác để phát triển.
Đồng bằng sông Cửu Long được xem là "vùng trũng"(2) về chất lượng giáo dục, đào tạo nhân lực trong cả nước. Lý giải về thực trạng phát triển nguồn nhân lực tại ĐBSCL trong những năm qua nhiều nhà nghiên cứu và quản lý đều thống nhất cho rằng quy mô giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chưa tương xứng với tầm vóc và vị trí chiến lược của vùng; mạng lưới trường lớp, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý vừa thiếu, vừa yếu mà lại chưa đồng bộ về cơ cấu; chất lượng giáo dục đại trà chưa cao; cơ sở vật chất nghèo, lạc hậu. Theo đánh giá của Bộ Giáo dục - Đào tạo, trong một thời gian dài, do chưa nhận thức đúng về vai trò của giáo dục, đào tạo, dạy nghề trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nên ngân sách đầu tư cho ngành giáo dục ở khu vực này chưa thỏa đáng dẫn đến trình trạng mạng lưới trường lớp, phương tiện, thiết bị phục vụ giảng dạy luôn thiếu thốn; tình trạng thiếu giáo viên còn phổ biến; tỷ lệ trẻ em đi học đúng tuổi đến trường chưa cao, tỷ lệ bỏ học còn nhiều; tỷ lệ sinh viên tính trên 100.000 dân còn ít.
Rõ ràng nguồn nhân lực và việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực là điểm yếu và cũng là điều rất khó khăn của ĐBSCL. Khó khăn này gây ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Do vậy cần thiết có những giải pháp phù hợp cho sự phát triển nguồn nhân lực của vùng.
2.1.2 Tổng quan tỉnh An Giang
An Giang là một tỉnh thuộc vùng ĐBSCL, phía Đông và phía Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp, phía Tây Bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài gần 100 km, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang, phía Đông Nam giáp thành phố Cần Thơ. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 3.506 km2, dân số toàn tỉnh khoảng 2.273.150 người, trong đó thành thị chiếm 38,4%, nông thôn chiếm 71,6% dân số toàn tỉnh. Số người trong độ tuổi lao động hơn 1.456.212 người, chiếm trên 64,06% dân số toàn tỉnh An Giang. (Niên giám thống kê - Cục thống kê An Giang, 2009).
Nằm ở vị trí thuận lợi cả đường thủy lẫn đường bộ, lại tiếp giáp vùng biên giới Tây Nam của Tổ quốc, An Giang có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế theo hướng đa dạng. Với chính sách “mở” trong thu hút đầu tư cùng những lợi thế khác, như: du lịch phát triển, hạ tầng giao thông đang được nâng cấp, hoàn thiện; nhiều khu công nghiệp, trung tâm thương mại ra đời; khu vực kinh tế biên giới phát triển năng động… An Giang đang trở thành “miền đất hứa” với nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước.
2.1.3 Tổng quan huyện Tri Tôn
2.1.3.1 Đặc điểm tự nhiên
Huyện Tri Tôn, phía Đông giáp các huyện Châu Thành, Thoại Sơn, phía Bắc giáp huyện Tịnh Biên, phía Tây Bắc giáp Campuchia, phía Nam giáp tỉnh Kiên Giang. Diện tích: 59.805 ha, địa hình đa dạng, vừa có đồi núi, vừa có đồng bằng với nhiều kênh mương lớn nhỏ ngang dọc. Huyện Tri Tôn có thị trấn Tri Tôn (huyện lị), thị trấn Ba Chúc và 13 xã: Châu Lăng, Lương Phi, Vĩnh Phước, Lương An Trà, Lạc Quới, Vĩnh Gia, Núi Tô, An Tức, Ô Lâm, Cô Tô, Tà Đảnh, Tân Tuyến. (Tri tôn Wikipedia, 2010).
Điều kiện kinh tế - xã hội
Tổng thu nhập quốc dân (GDP) 6 tháng đầu năm 2010 tăng 10,64%, so cùng kỳ tăng 2,02%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cả 03 khu vực so cùng kỳ đều tăng, cụ thể:
+ Khu vực I: Nông – Lâm - Ngư nghiệp: + 4,87%
+ Khu vực II: Công nghiệp - Xây dựng: + 12,82%
+ Khu vực III: Dịch vụ - Thương mại: + 15,68%.
Cơ cấu GDP của các khu vực kinh tế huyện Tri Tôn:
Hình 2.1: Biểu đồ cơ cấu GDP của các khu vực kinh tế huyện Tri Tôn
(Nguồn: Báo cáo Kinh tế - Xã hội Ủy ban nhân dân huyện Tri Tôn, 2010)
Dân số huyện Tri Tôn là 132.625 người (nông thôn chiếm 77% dân số), tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 12,43%. Tri Tôn có trên 40% đồng bào dân tộc Khmer sinh sống tại huyện. (Niên giám thống kê tỉnh An Giang, 2009).
2.1.3.3 Nguồn nhân lực
Hiện nay, số người chưa đến tuổi lao động của huyện Tri Tôn có khoảng 26.082 người, đây là lực lượng lao động trẻ tiềm năng của huyện. Lực lượng lao động tiềm năng này đang được đào tạo ở các cấp học và sẽ bổ sung vào nguồn nhân lực có chất lượng của huyện. Số người trong độ tuổi lao động của huyện trên 86.206 người, trong đó người lao động là người dân tộc Khmer trên 24.137 người, chiếm 28,52% lực lượng lao động của huyện. (Niên giám thống kê huyện Tri Tôn, 2009).
Bảng 2.1: Tình hình Giáo dục – Đào tạo của huyện Tri Tôn
Năm học
ĐVT
2005 - 2006
2006 - 2007
2007 - 2008
2008 - 2009
2009 - 2010
I. Mầm non, Nhà trẻ, Mẫu giáo
- Trường
Trường
17
17
19
19
19
- Lớp
Lớp
115
122
128
131
132
- Học sinh
Người
3.425
3.578
3.777
3.776
3.972
- Giáo viên
Người
142
136
144
139
133
II. Tiểu học
- Trường
Trường
33
33
32
32
32
- Lớp
Lớp
469
464
460
463
473
- Học sinh
Người
13.043
12.605
12.209
12.214
12.596
- Giáo viên
Người
534
548
524
547
545
III. Trung học cơ sở
- Trường
Trường
15
15
15
15
15
- Lớp
Lớp
223
214
200
197
202
- Học sinh
Người
8.316
8.164
7.381
7.195
7.053
- Giáo viên
Người
346
371
408
409
408
IV. Trung học phổ thông
- Trường
Trường
4
3
3
3
3
- Lớp
Lớp
72
69
63
65
66
- Học sinh
Người
3.096
2.840
2.411
2.479
2.407
- Giáo viên
Người
145
183
161
161
168
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tri Tôn, 2009)
2.2. LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM NÔNG THÔN
2.2.1 Vai trò của việc làm đối với lao động nông thôn
Giải quyết việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với người lao động đặc biệt là đối tượng lao động nông thôn. Việt Nam có hơn 70,4% người lao động xuất thân từ nông thôn, về trình độ, chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế. Do đó, giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Tại nhiều làng quê, vấn đề dư thừa lao động trở nên đáng báo động. Tình trạng thanh niên ở các làng quê không có việc làm thường xuyên chơi bời, lêu lổng, dẫn đến sa ngã vào tệ nạn xã hội; nhiều thanh niên phải rời bỏ làng quê lên thành phố vất vưởng tìm việc làm thuê; nhiều làng nghề truyền thống mai một đẩy nhiều lao động nông thôn đến tình cảnh thất nghiệp... Không có việc làm hoặc việc làm bấp bênh, năng suất lao động thấp, hiệu quả sản xuất kém, dẫn đến thu nhập không ổn định, khiến cho việc đầu tư tái sản xuất ở khu vực nông thôn gặp nhiều khó khăn.
Tạo việc làm cho người lao động là vấn đề cấp bách của toàn xã hội, nó thể hiện vai trò của xã hội đối với người lao động, sự quan tâm của xã hội về đời sống vật chất và tinh thần của người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp và hạn chế được những phát sinh tiêu cực cho xã hội do thiếu việc làm gây ra.
2.2.2 Chất lượng nguồn lao động
Hiện nay, ĐBSCL có đến 85,67% lực lượng lao động chưa qua đào tạo. Trong số lao động đã qua đào tạo thì chỉ có 0,65% có chứng chỉ, chỉ 1% có bằng nghề, 0,48% có bằng sơ cấp, 2,39% có bằng trung học chuyên nghiệp, 2,57% có bằng cao đẳng, đại học và sau đại học (xếp thứ 8 trong 8 vùng) và 7,24% có qua đào tạo nhưng không có bằng cấp chứng chỉ. Thêm vào đó, đa số các cơ sở dạy nghề ở vùng ĐBSCL chủ yếu dạy nghề ngắn hạn (sơ cấp) và chất lượng đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp sử dụng lao động. (Phương Nghi, 2009).
Theo báo cáo của Bộ LĐTB&XH (2009), về “Thực trạng và phương hướng giải quyết việc làm cho vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL”, cho rằng: Chất lượng lao động được cải thiện nhưng còn thấp so với cả nước, năm 2007, tỷ lệ lao động qua đào tạo toàn vùng khoảng 30% (cả nước là 34,75%). Trình độ học vấn của lao động trong vùng khá thấp so với cả nước, năm 2007, 66,8% lao động trong vùng tốt nghiệp tiểu học trở xuống, 18,7% lao động tốt nghiệp trung học cơ sở (THCS) và 14,5% lao động tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) (tỷ lệ này của cả nước lần lượt là 44,4%, 31,1% và 24,5%). Đây thực sự là thách thức lớn đối với vùng trong việc đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật lành nghề của các doanh nghiệp cũng như đầu vào cho các cơ sở đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của vùng.
Đồng bằng sông Cửu Long luôn được đánh giá là vùng có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng tỷ lệ thất nghiệp lại cao nhất nhì cả nước. Dân số toàn vùng hiện chiếm 22% nhưng cơ sở dạy nghề chỉ chiếm 14% cả nước, 77% dân số có trình độ từ tiểu học trở xuống, ngược lại với đồng bằng Bắc bộ. ĐBSCL hiện có 280 cơ sở dạy nghề, cơ bản xoá được "vùng trắng" trường dạy nghề trên địa bàn nhưng chất lượng còn hạn chế, chủ yếu là dạy nghề ngắn hạn. Trình độ thấp, kéo theo tỷ lệ thất nghiệp và nguy cơ tái nghèo cao. (Bộ LĐTB & XH, 2008).
Theo Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2009), về “Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL thời kỳ hội nhập”, đã cho rằng: Đại bộ phận người lao động làm nghề nông nghiệp, thủy sản, sinh sống tại nông thôn. Những năm gần đây do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cùng với tốc độ đô thị hóa, một bộ phận lao động ở nông thôn đã chuyển ra thành thị hoặc chuyển sang làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Song sự chuyển dịch này còn rất chậm, vì vậy lực lượng lao động ở nông thôn làm nghề nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao so với mức bình quân của cả nước 78,2% (năm 2007 là 72,4%). ĐBSCL có qui mô nguồn nhân lực lớn nhưng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn rất thấp, kỹ năng nghề nghiệp yếu kém; còn nhiều bất cập về mặt cơ cấu và bố trí sử dụng. Đồng thời cũng nhận định rằng: có một nghịch lý là nông dân ĐBSCL là người hội nhập sớm nhất của Việt Nam nhưng còn rất nghèo nên con em nông dân không thể có tiền đi học được.
Theo Đoàn Hữu Lực và ctv (2009), chuyên đề: Diễn đàn hợp tác kinh tế ĐBSCL – An Giang về “Thực trạng và giải pháp đào tạo nguồn nhân lực đồng bằng sông Cửu Long trong thời kỳ hội nhập”, cho rằng: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, kết cấu hạ tầng nhìn chung còn lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; môi trường đầu tư kém hấp dẫn, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Với số dân hơn 17 triệu người, trong đó gần 80% gắn bó với kinh tế nông nghiệp tạo ra một lực lượng lao động tại chỗ đông đảo. Tuy nhiên, nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu trong sản xuất, kinh doanh và quản lý lại thiếu. Tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động có kỹ thuật, tay nghề cao là phổ biến tại các tỉnh trong Vùng. Đây là thách thức lớn cho các nhà quản lý và doanh nghiệp.
Chất lượng nguồn nhân lực tại huyện Tri Tôn vẫn còn bộc lộ nhiều yếu điểm, số người có tr