L.Feuerbach (1804 - 1872) - là đại diện vĩ đại cuối cùng của triết học cổ điển Đức.
Người có công lao to lớn đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, phục hồi và
phát triển chủ nghĩa duy vật trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản Đức (1848).
Feuerbach là nhà triết học duy vật vì ông khẳng định vật chất là tính thứ nhất;
thức, tư duy là tính thứ hai. Song là nhà duy vật nhân bản, ông coi con người là sản phẩm
cao nhất của giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất con
người, vì thế đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao nhất của triết học. Chủ nghĩa duy
vật nhân bản của Feuerbach là đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh chống lại việc giải
thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa duy tâm tầm thường về vấn đề con
người. Song, nguyên l ý nhân bản của Feuerbach không triệt để, vì ông hiểu con người chỉ
là những cá nhân trừu tượng, là thực thể thuần túy tự nhiên - sinh vật. Ông không thấy
được mặt xã hội của con người trong hoạt động biến đổi thực hiện thực.
Mục đích của bài tiểu luận này nhằm tìm hiểu về “Chủ nghĩa duy vật nhân bản
Phoiobac và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học MÁC ”.
Tài liệu nghiên cứu dựa trên Giáo trình Triết học
(1)
(dùng cho học viên cao học và
nghên cứu sinh, không thuộc chuyên ngành triết học); Các bài giảng của TS Bùi Văn
Mưa; Triết học phần I &II
(2)
(dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành triết học). Một số tài liệu trên báo chí và trên Internet
23 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2035 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học MÁC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI 11:
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac
và vai trò của nó đối với sự ra đời của
triết học MÁC
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA
HVTH : HUỲNH TRÍ THANH
LỚP : ĐÊM 3 KHÓA 22
NHÓM : 9
STT : 89
TPHCM, THÁNG 12 NĂM 2012
HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 1
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA 2012
LỜI MỞ ĐẦU
L.Feuerbach (1804 - 1872) - là đại diện vĩ đại cuối cùng của triết học cổ điển Đức.
Người có công lao to lớn đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, phục hồi và
phát triển chủ nghĩa duy vật trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản Đức (1848).
Feuerbach là nhà triết học duy vật vì ông khẳng định vật chất là tính thứ nhất;
thức, tư duy là tính thứ hai. Song là nhà duy vật nhân bản, ông coi con người là sản phẩm
cao nhất của giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất con
người, vì thế đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao nhất của triết học. Chủ nghĩa duy
vật nhân bản của Feuerbach là đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh chống lại việc giải
thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa duy tâm tầm thường về vấn đề con
người. Song, nguyên l ý nhân bản của Feuerbach không triệt để, vì ông hiểu con người chỉ
là những cá nhân trừu tượng, là thực thể thuần túy tự nhiên - sinh vật. Ông không thấy
được mặt xã hội của con người trong hoạt động biến đổi thực hiện thực.
Mục đích của bài tiểu luận này nhằm tìm hiểu về “Chủ nghĩa duy vật nhân bản
Phoiobac và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học MÁC ”.
Tài liệu nghiên cứu dựa trên Giáo trình Triết học (1) (dùng cho học viên cao học và
nghên cứu sinh, không thuộc chuyên ngành triết học); Các bài giảng của TS Bùi Văn
Mưa; Triết học phần I &II (2) (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành triết học). Một số tài liệu trên báo chí và trên Internet…
Chân thành cảm ơn !
HUỲNH TRÍ THANH
HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 2
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA 2012
Chương I: Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach.
1) Tiểu sử của ludwig feuerbach:
Ludwig Feuerbach (1804-1872) - đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức, sự kết
thúc đầy vinh quang của nó, nhà cải cách kiên cường của nền triết học Đức - nhà duy vật
và khai sáng. Triết học Feuerbach là sản phẩm tất yếu của những điều kiện mới, hình
thành vào cuối những năm 30 - đầu những năm 40. Đó là thời kỳ nhen nhóm tình thế
cách mạng ở nhiều nơi trên nước Đức. L.Feuerbach sinh trưởng trong một gia đình trí
thức có tên tuổi. Người cha là một luật sư, muốn con trở thành người hữu ích cho chế độ
đương thời, vì thế đã khuyên Feuerbach chọn một nghề có khả năng thành đạt trong cuộc
sống. Năm 1823 với mục đích nghiên cứu tôn giáo, Feuerbach vào học tại khoa thần học
của trường đại học Heidelberg, nhưng sau một năm lại rời khoa thần học và chuyển đến
Berlin, nơi Hegel đang giảng triết học. Chẳng mấy chốc Feuerbach trở thành người học
trò nghiêm túc của Hegel. Năm 1928 Feuerbach gởi cho Hegel bản luận án của mình
mang tên “ Về l tính đơn nhất, phổ biến và vô hạn” trong đó ông nói thẳng tâm nguyện
triển khai tiếp tục chủ nghĩa duy tâm khách quan. Năm 1829 Feuerbach lúc đó 25 tuổi bắt
đầu sự nghiệp giảng dạy của mình tại trường đại học Erlangen. Tại đây Feuerbach trình
bầy logic học và siêu hình học, đồng thời nhen nhóm tư tưởng nhân bản mà về sau trở
thành nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật đặc trưng - chủ nghĩa duy vật nhân bản.
Khái niệm trung tâm - tình yêu. Năm 1841 Feuerbach cho ra mắt tác phẩm chính “Bản
chất đạo Cơ đốc”, ấn tượng mà nó đem lại thật to lớn. Những năm tiếp theo ông viết
“Luận cương khởi đầu về cái cách triết học” (1842), “Các luận điểm triết học cơ bản của
tương lai”(1843), Feuerbach đứng bên lề của diễn biến cách mạng 1848, tỏ ra là người
thu động về chính trị, mặc dù hoan nghênh tinh thần dân chủ tư sản của cuộc cách mạng
đó. Thời kỳ cách mạng Feuerbach viết và công bố một vài tác phẩm nhưng chẳng mấy ai
chú ý. Giai cấp tư sản quay lưng lại với nhà tư tưởng vĩ đại, vì học không thích thú gì cái
tình yêu nhân loại quá lớn của ông, còn các lực lượng khác nhận thấy ở đó có những biểu
hiện của chủ nghĩa không tưởng chính trị.
HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 3
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA 2012
Mãi mãi Feuerbach cũng chỉ là một người dân chủ xã hội, mặc dầu những năm cuối cuộc
đời ông đọc say sưa bộ “Tư bản”, trao đổi bằng thw từ với không ít nhà Mac-xit. Ông mất
năm 1872, tức là sau công xã Paris(1871) thất bại.
2) Chủ nghĩa duy tâm của Heghen:
Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là một trong những hình thức cơ bản, là đỉnh cao
trong sự phát triển của phép biện chứng trước Mác, phản ánh hoàn cảnh lịch sử đặc biệt,
đầy mâu thuẫn của xã hội Đức và tính chất hai mặt của giai cấp tư sản Đức trước cách
mạng tư sản. Quan điểm phát triển là tư tưởng cơ bản, xuyên suốt triết học của Hêghen.
Hêghen đã coi sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại dưới những tên gọi như: “ý niệm tuyệt
đối”, “lý tính thế giới”, “tinh thần thế giới” là bản nguyên của mọi hiện tượng trong giới
tự nhiên và xã hội. Sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại theo Hêghen không phải là sự
đồng nhất tuyệt đối, siêu hình, mà là sự đồng nhất bao hàm sự khác biệt. Chính mâu
thuẫn giữa đồng nhất và khác biệt đã làm cho bản nguyên của thế giới - “ý niệm tuyệt
đối” có tính tích cực và hoạt động. Sự hoạt động của “ý niệm tuyệt đối” thể hiện qua ba
giai đoạn phát triển. Trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm khách quan, ngoài việc phát triển học
thuyết về các quy luật và các phạm trù cơ bản của phép biện chứng, lần đầu tiên Hêghen
đã nghiên cứu các tắc cơ bản của logic biện chứng. Chính Hêghen đã đặt vấn đề về sự
thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức. Hêghen coi logic học là
khoa học về mối liên hệ biện chứng của các khái niệm, là khoa học “ mô tả lĩnh vực tư
tưởng... trong sự hoạt động nội tại của bản thân nó, hay nói một cách khác, trong sự phát
triển tất yếu của nó”. Theo Hêghen, sự vận động và phát triển của các khái niệm và bởi
những mâu thuẫn nảy sinh trong bản thân khái niệm đó. Phép biện chứng là hạt nhân hợp
lý, là mặt tiến bộ của triết học Hêghen. Ngược lại, hệ thống triết học của Hêghen là duy
tâm, siêu hình. Chính hệ thống đó đã dẫn Hêghen đến thừa nhận điểm cuối cùng trong sự
phát triển của thế giới là nhận thức. Về thực chất, Hêghen áp dụng nguyên lý phát triển
chỉ đối với hiện tượng tinh thần. Tuy thừa nhận mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự
phát triển, nhưng không phải là mâu thuẫn thực sự của thới tự nhiên và xã hội, mà chỉ là
HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 4
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA 2012
mâu thuẫn trong sự phát triển của tinh thần. Mâu thuẫn không phải được giải quyết bằng
cách mạng, mà bằng con đường hòa bình: cái mới thỏa hiệp với cái cũ.
Triết học của Hêghen và triết học của Feuerbach là hai nguồn gốc trực tiếp về lý luận của
triết học Mác. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế thừa hạt nhân hợp lý trong triết học
Heeghen là phép biện chứng, cải tạo nó trên tinh thần của chủ nghĩa duy vật, biến nó
thành phép biện chứng duy vật như là học thuyết khoa học về các quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy. Cũng chính nhờ chủ nghĩa duy vật của Feuerbach đã giúp
Mac và Angghen đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm của Heeghen và phái Heghen trẻ.
Mac và Angghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật của Feuerbach phát triển lên một hình thức
mới cao nhất đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
3) Sự phê phán triết học Heghen. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của phoiơbắc:
Sau khi Hegel qua đời, những người theo học thuyết Hegel đã phân hoá thành hai nhóm
là "Hegel trẻ" và "Hegel già". Phái Hegel già thì bám lấy mặt bảo thủ của hệ thống Hegel,
bảo vệ chế độ nhà nước Phổ đã lỗi thời về mặt lịch sử. Trái lại phái Hegel trẻ lại phát
triển triết học Hegel về phía lập trường giai cấp tư sản cấp tiến, dân chủ, đòi cải cách nhà
nước Phổ theo hướng tư sản. Họ nắm lấy tinh thần của phép biện chứng trong triết học
Hegel. Trong nhóm "Hegel trẻ" có cả Phoiơbắc, Mác và Engels.
Thời trẻ, Phoiơbắc gia nhập phái Hegel trẻ, tin rằng tôn giáo, các khái niệm của tinh thần
tuyệt đối thống trị thế giới hiện thực. Về sau, chịu ảnh hưởng của các nhà khai sáng pháp
TK XVIII Phoiơbắc quay sang phê phán Hegel, ngày càng ngả sang lập trường duy vật.
Hạn chế cơ bản nhất của triết học Hegel, theo Phoiơbắc, là sự đồng nhất giữa tư duy và
tồn tại, là quan điểm duy tâm trong việc giải quyết mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên, coi toàn bộ thế giới hiện thực chỉ là hiện thân của tinh thần tuyệt đối được hiểu
như một lực lượng siêu tự nhiên. Phoiơbắc vạch ra sự liên kết chặt chẽ giữa chủ nghĩa
duy tâm và thần học nhằm nô dịch con người (coi ý niệm tuyệt đối tha hoá thành giới tự
nhiên cũng giống như quan niệm Chúa trời tạo ra thế giới). Phoiơbắc chỉ ra rằng Hegel
chỉ khác thần học ở chỗ ông đã sử dụng một hình thức khác để diễn đạt tư tưởng của
mình, tức là ông đã biến lịch sử thần học thành cái gọi là tư duy logic mà thôi. Vì vậy,
HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 5
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA 2012
Phoiơbắc cho rằng: "Triết học Hegel là chỗ ẩn náu cuối cùng của thần học... mối quan hệ
giữa tư duy và tồn tại như sau: tồn tại - chủ thể, tư duy - thuộc tính."
Đối lập với triết học Hegel, Phoiơbắc cho rằng con người không phải là nô lệ của thượng
đế hay tinh thần tuyệt đối mà là sản phẩm cao nhất của tự nhiên; con người là biểu hiện
của sự phát triển hoàn thiện nhất của giới tự nhiên. Vì vậy, nhận thức con người là nền
tảng và chìa khoá để nhận thức thế giới. Phoiơbắc nói rằng, phải giải quyết vấn đề quan
hệ tư duy - tồn tại trên lập trường duy vật. Tư duy là chức năng của một dạng vật chất có
tổ chức cao là cơ thể người. Bản thân con người cụ thể là sự thống nhất giữa thể xác của
anh ta với tư duy là chức năng của cơ thể đó, giữa cấu trúc và chức năng, giữa giải phẫu
và sinh lý. Coi con người là sự thể hiện hoàn hảo mối quan hệ tư duy - tồn tại, Phoiơbắc
khẳng định chỉ có thể giải quyết vấn đề vật chất - tinh thần trong nhân bản học, quy các
vấn đề triết học thành các vấn đề quan hệ giữa các ngành khoa học nghiên cứu giải phẫu
và sinh lý, cấu trúc và chức năng. Chân lý, theo phoiơbắc, không phải là CNDV hay
CNDT... chân lý chỉ có thể là nhân bản học, tức học thuyết về con người.
Vậy con người là gì? Phoiơbắc cho rằng đó là những con người bằng xương, bằng thịt
đang sống và làm việc, là chính bản thân chúng ta chứ không phải là con người trong trí
tưởng tượng. Hơn tất các sự vật hiện tượng khác trong giới tự nhiên, con người là một
thực thể sinh vật có cảm giác, biết tư duy, có ham muốn, có hoài bão, khát vọng, là một
bộ phận của tự nhiên mà xét theo bản chất là có tình thương yêu.
Con người trong triết học phoiơbắc là con người cụ thể bằng xương, bằng thịt. Bản chất
con người là tổng thể những khát vọng, khả năng, nhu cầu của anh ta. Phoiơbắc cũng
nhận thấy ảnh hưởng to lớn của môi trường, điều kiện sống, hoàn cảnh đối với tư duy và
ý thức con người. Ông quả quyết rằng trong cung điện người ta suy nghĩ khác trong lều
tranh. Rằng nếu cơ thể một người đói chất thì trong đầu óc và trái tim anh ta cũng không
có chất cho đạo đức và các quan niệm khác.
Tuy nhiên, hạn chế của Phoiơbắc ở đây là ông chưa thấy con người xã hội, không thấy
rằng con người được tạo nên và bị chi phối bởi các quan hệ xã hội như thế nào. Ông chỉ
HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 6
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA 2012
xét con người về mặt sinh học mà thôi (là một bộ phận của tự nhiên, tách rời các điều
kiện kinh tế - xã hội và lịch sử.
Khi nghiên cứu và đánh giá sự phê phán của Phoiơbắc đối với Hegel cũng như học thuyết
của ông về con người chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau:
Thứ nhất, Phoiơbắc phê phán Hegel trên lập trường nhân bản học duy vật, phê phán ý
niệm tuyệt đối của Hegel nhưng đồng thời lại phủ nhận luôn cả phương pháp tư duy biện
chứng của Hegel. Phoiơbắc tuyên bố: "phép biện chứng không phải là sự độc thoại của
một nhà tư tưởng với chính bản thân mình, mà là sự đối thoại giữa Tôi và Anh". Phương
pháp biện chứng trên thực tế đã bị phoiơbắc tầm thường hoá, quy thành mối quan hệ giao
tiếp thông thường giữa mọi người trong xã hội. Đây là hạn chế cơ bản của Phoiơbắc
trong việc phê phán và đánh giá triết học Hegel.
Thứ hai, con người được Phoiơbắc hiểu theo nghĩa cá thể (individium).
Mỗi người đều có những nét riêng biệt mà không ai có, vì vậy bản chất của con người rất
da dạng. "tất cả chúng ta là những con người, nhưng mỗi con người lại là một người
khác"
Quan niệm trên đây của Phoiơbắc về con người có điểm hợp lý ở chỗ nó được xây dựng
trên nền tảng duy vật. Hơn nữa nó đề cao tính cá thể của con người, nhấn mạnh sự năng
động và sáng tạo cá nhân của con người cũng như những lợi ích, nhu cầu cá nhân của con
người. Tuy nhiên, hạn chế của Phoiơbắc là ở chỗ ông không nhận thấy bản chất xã hội
của con người, cũng như vai trò của hoạt động thực tiễn con người trong nhận thức và cải
tạo thế giới. Ông không coi trọng một thực tế là mỗi người tuy là cá thể nhưng lại sinh ra
trong một hoàn cảnh xã hội nhất định; thuộc một tầng lớp hoặc giai cấp nhất định, thuộc
một dân tộc và một thời đại lịch sử nhất định. Vì vậy, theo nhận xét của Engel, con người
của Phoiơbắc là con người phi lịch sử, phi giai cấp... và vì vậy, cực kỳ trừu tượng. Rốt
cuộc quan niệm của Phoiơbắc về con người, kể cả xét theo khía cạnh cá thể được coi là
điểm mạnh nhất ở ông, cũng phải nhường bước cho một số nhà tâm sinh lý học đương
thời và sau ông như Freud, ở khía cạnh xã hội, khía cạnh mà phoiơbắc hầu như không đề
cập đến, về sau được Mác nghiên cứu.
HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 7
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA 2012
4) Quan niệm của feuerbach về tôn giáo và cuộc đấu tranh chống tôn giáo:
Cụ thể hoá những quan niệm trên đây về con người, phơoibắc phân tích các vấn đề tôn
giáo.
Tôn giáo, theo ông, là sản phẩm tất yếu của tâm lý cá nhân và bản chất con người. Người
ta ai cũng sợ chết, cần có niềm tin, và an ủi. Bản chất của thần học, do vậy, chứa đựng
trong nhân bản học, là sản phẩm của sự tưởng tượng phong phú của con người. Tôn giáo
thể hiện sự mềm yếu, bất lực của con người đối với các vấn đề xã hội.
Tôn giáo thực chất là sự thể hiện bản chất của con người dưới hình thức thần bí.
Phoiơbắc nói: "Tư tưởng và dụng ý của con người như thế nào thì chúa của con người
như thế. Giá trị của chúa không vượt quá giá trị con người. Ý thức của Chúa là tự ý thức
của con người, nhận thức của chúa là tự nhận thức của con người". Thực ra "bản chất
thần thánh không là cái gì khác, mà là bản chất của con người, nhưng đã được tinh chế,
khách quan hoá, tách rời với con người hiện thực bằng xương, bằng thịt".
Tóm lại, tôn giáo là bản chất của con người đã bị tha hoá. "Thánh thần của con người có
trong tinh thần và trái tim của anh ta". (L.Phoiơbắc: tuyển tập triết học. Matxcơva 1957.
T.2. tr. 42 - 43- Tiếng Nga).
Những quan niệm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản đã chỉ ra nguồn gốc tâm lý, tình cảm
và tâm linh của con người đối với tôn giáo, đòng thời cho thấy nội dung nhăn bản trong
các quan niệm thần thánh nhưng chưa đề cập đến những cơ sở kinh tế chính trị- xã hội và
văn hoá của vấn đề.
Đây cũng là hạn chế chung của các nhà tư tưởng trước Mác trong việc lý giải nguồn gốc
và bản chất của tôn giáo.
Tuy phê phán kịch liệt tôn giáo, nhưng Phoiơbắc thực tế chỉ phê phán Cơ đốc giáo. Còn
tôn giáo nói chung, theo ông, vẫn là điều cần thiết đối với đời sống con người. Cho nên
thay vào Cơ đốc giáo, con người "cần... một tôn giáo mới", vì chỉ có tín ngưỡng, niềm tin
mới an ủi được chúng ta khỏi những nỗi bất hạnh trong cuộc đời con người. Mặc dù sự an
ủi trên là giả dối nhưng chúng ta không thể làm gì khác và phải chấp nhận sự dối trá đó.
Đúng như Engel nhận xét rằng "Phoiơbắc hoàn toàn không muốn xoá bỏ tôn giáo, ông
HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 8
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA 2012
muốn hoàn thiện tôn giáo. Ngay cả triết học cũng phải hoà vào tôn giáo. Thứ tôn giáo mà
Phoiơbắc đề cao hiểu theo nghĩa của ông là tôn giáo tình yêu, là quan hệ thân thiện giữa
người và người. Tôn giáo tình yêu của Phoiơbắc dựa trên triết học nhân bản của ông. Ông
cho rằng nó phản ánh được cái gì đó vĩnh hằng trong con người. Vì vậy, nó cần thiết phải
tồn tại chừng nào xã hội loài người còn tồn tại. Và phải hình thành nên tình cảm tôn giáo.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng Phoiơbắc là nhà duy vật vĩ đại trong THCĐ Đức. Mác
đánh giá cao vai trò của Phoiơbắc, coi ông là người không úp mở tuyên bố địa vị thống
trị của chủ nghĩa duy vật. (trong tác phẩm Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung...). Mác và
Engel tự coi mình là môn đồ của Phoiơbắc, giá trị tư tưởng đó của triết học phoiơbắc là
điều không thể phủ nhận được.
Chương II: Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach tới sự ra đời của
triết học Marx.
Triết học cổ điển Đức là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác Có vai trò quan
trọng về mặt lý luận đến sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của C.Mác và
Ăngghen. C.Mác đã sử dụng những tư tưởng cách mạng phép biện chứng của Heghen để
luận giải những khát vọng dân chủ - cách mạng của mình. Nhưng hai ông cũng phê phán
quyết liệt chủ nghĩa duy tâm của Hêghen trong học thuyết về “ý niệm tuyệt đối”. Trên cơ
sở đấu tranh, phê phán chủ nghĩa duy tâm, giải phóng phép biện chứng của Hêghen khỏi
tính chất thần bí, C.Mác và Ăngghen đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật – hình
thức cao nhất của phép biện chứng. Một đại biểu khác của trong triết học cổ điển Đức có
ảnh hưởng lớn đến sự hình thành quan điểm triết học của C.Mác và Ăngghen là
Phoiơcbách. Những quan điểm duy vật về giới tự nhiên của Phoiơbắc chứng minh thế
giới là thế giới vật chất; cơ sở tồn tại của giới tự nhiên chính là giới tự nhiên không do ai
sáng tạo ra và tồn tại độc lập với ý thức. Tuy nhiên, trong lĩnh vực xã hội, Phoiơbắc lại
coi sự phát triển của xã hội là sự phát triển của tôn giáo. Tuy nhiên những tư tưởng triết
học duy vật và vô thần của Phoiơbach lại tạo tiền đề lý luận quan trọng cho C.Mác và
Ph.Ăngghen chuyển chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật bằng cách loại bỏ tính
HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 9
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA 2012
siêu hình và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ chỉ nhận thức giới tự nhiên sang nhận thức cả
xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để .. Tuy C.Mác và
Ăngghen chịu ảnh hưởng của triết học Phoiơcbách nhưng C.Mác và Ăngghen đã tiếp thu
ở đó một cách có phê phán. Như vậy, sự ra đời của triết học Mác dựa trên nền tảng là
phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phoiơcbách. Ngoài ra, nó còn là
sự tiếp thu những tinh hoa tư tưởng của nhân loại.
Tuy nhiên, triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Khi ông
đòi hỏi triết học mới - triết học nhân bản - phải gắn liền với tự nhiên thì đồng thời đã
đứng luôn trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con
người và xã hội. Con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi
xã hội, mang những đặc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của ông chứa đựng
những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ông nói răng, bản tính con người là tình yêu, tôn
giáo cũng là một tình yêu. Do vậy, thay thế cho một tôn giáo sùng một vị Thượng đế siêu
nhiên cần xây dựng một