Tiểu luận Chương 10: sự năng động của việc thay đổi trong những lĩnh vực tổ chức

Chương này đưa ra một mô hình tiến trình 1 để hiểu rõ về sự thay đổi thể chế 2 ở cấp lĩnh vực tổ chức 3 bằng sự phân tích. Mô hình này bao gồm năm giai đoạn chồng lên nhau: (1) áp lực cho sự thay đổi; (2) các nguồn của thực hiện mới từ các doanh nhân thể chế 4 ; (3) các quy trình của việc khử thể chế hoá và tái thể chế hoá 5 ; (4) sự năng động của việc khử thể chế hoá và tái thể chế hoá; (5) tái thể chế hoá và sự ổn định. Chúng tôi thấy mô hình này là hữu ích vì tổng hợp được nhiều nghiên cứu về thay đổi thể chế. Trong khi nghiên cứu này đã từng bị chỉ trích vì nó chỉ tập trung về sự hội tụ của các trạng thái ổn định và tương đồng, nó cũng luôn có lợi cho sự thay đổi, và vì vậy chúng tôi sử dụng mô hình tiến trình này để chỉ ra các đóng góp cụ thể của các nghiên cứu hiện có. Tâm điểm của lý thuyết thể chế là khái niệm xem các tổ chức như là ''các chương trình tái sản sinh 6 hoặc hệ thống các quy tắc lặp đi lặp lại thành một thực tiễn và được xây dựng có cấu trúc và mang tính xã hội'' (Jepperson, Năm 1991, p. 149). Cách thức tổ chức và hành động trở thành sự thật hiễn nhiên 7 vì sự bao hàm và tính hợp pháp của chúng. Do đó, thay đổi thể chế là sự dịch chuyển từ một khuôn mẫu thực tiễn mang tính hợp pháp, đã được thể chế công nhận sang một khuôn mẫu thực tiễn. Như vậy sự thay đổi thể chế gồm các quá trình của việc khử và tái thể chế hoá.

pdf38 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1508 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chương 10: sự năng động của việc thay đổi trong những lĩnh vực tổ chức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP HỒ CHÍ MINH KHOA SAU ĐẠI HỌC  TIỂU LUẬN (BIÊN DỊCH TÀI LIỆU) SÁCH: HANDBOOK OF ORGANIZATIONAL CHANGE AND INNOVATION CHƯƠNG 10: SỰ NĂNG ĐỘNG CỦA VIỆC THAY ĐỔI TRONG NHỮNG LĨNH VỰC TỔ CHỨC GIẢNG VIÊN: Ts. NGUYỄN HỮU LAM Ths. TRẦN HỒNG HẢI NHÓM 10: 1. BÙI QUỐC NAM 2. TRẦN THÁI BẢO 3. LÊ THỊ BÍCH NGỌC 4. NGUYỄN MINH HẢI 2 CHƯƠNG 10 SỰ NĂNG ĐỘNG CỦA VIỆC THAY ĐỔI TRONG NHỮNG LĨNH VỰC TỔ CHỨC CR (Bob) Hinings, Royston Greenwood, Trish Reay, và Roy Suddaby Chương này đưa ra một mô hình tiến trình1 để hiểu rõ về sự thay đổi thể chế2 ở cấp lĩnh vực tổ chức3 bằng sự phân tích. Mô hình này bao gồm năm giai đoạn chồng lên nhau: (1) áp lực cho sự thay đổi; (2) các nguồn của thực hiện mới từ các doanh nhân thể chế4; (3) các quy trình của việc khử thể chế hoá và tái thể chế hoá5; (4) sự năng động của việc khử thể chế hoá và tái thể chế hoá; (5) tái thể chế hoá và sự ổn định. Chúng tôi thấy mô hình này là hữu ích vì tổng hợp được nhiều nghiên cứu về thay đổi thể chế. Trong khi nghiên cứu này đã từng bị chỉ trích vì nó chỉ tập trung về sự hội tụ của các trạng thái ổn định và tương đồng, nó cũng luôn có lợi cho sự thay đổi, và vì vậy chúng tôi sử dụng mô hình tiến trình này để chỉ ra các đóng góp cụ thể của các nghiên cứu hiện có. Tâm điểm của lý thuyết thể chế là khái niệm xem các tổ chức như là ''các chương trình tái sản sinh6 hoặc hệ thống các quy tắc lặp đi lặp lại thành một thực tiễn và được xây dựng có cấu trúc và mang tính xã hội'' (Jepperson, Năm 1991, p. 149). Cách thức tổ chức và hành động trở thành sự thật hiễn nhiên7 vì sự bao hàm và tính hợp pháp của chúng. Do đó, thay đổi thể chế là sự dịch chuyển từ một khuôn mẫu thực tiễn mang tính hợp pháp, đã được thể chế công nhận sang một khuôn mẫu thực tiễn. Như vậy sự thay đổi thể chế gồm các quá trình của việc khử và tái thể chế hoá. Theo Scott (2001), các lĩnh vực tổ chức là công cụ để phổ biến và tái tạo các kỳ vọng và thực tiễn có cấu trúc mang tính xã 1 Process model – mô hình biểu thị tiến trình xẩy ra (các giai đoạn) của một sự việc 2 Institututional change 3 Organizational field – từ “ field” ở đây tạm dịch là “lĩnh vực” 4 Institutional entrepreneur- tác giả dùng từ “ doanh nhân thể chế” để mô tả những đơn vị có thể thu lợi từ thể chế đó 5 Deinstitutionalization, reinstitutionalization 6 Reproduced program 7 Taken-for-granted 3 hội. Các lĩnh vực tổ chức là “những tập hợp của các tổ chức, khi kết hợp, tạo thành một khu vực của đời sống thể chế 8'' (DiMaggio và Powell, 1983; trang 148) và những mô hình tương tác này được xác định bởi các hệ thống ý nghĩa được chia sẻ với nhau (Scott, 1994). Theo Seo và Creed (2002, trang 222), ''trong hai thập kỷ qua, các nhà lý thuyết thể chế đã có thể cung cấp những hiểu biết nhiều hơn vào các quá trình để giải thích sự ổn định thể chế hơn là giải thích thay đổi thể chế.“ Nghĩa là, lý thuyết thể chế đã nhấn mạnh làm thế nào và tại sao các tổ chức thích ứng với những thực tiễn và hệ thống đã được thể chế hoá – tức là câu hỏi tại sao các tổ chức ngày càng giống nhau - do đó nhấn mạnh vào sự năng động của việc hội tụ và thể chế hóa. Điểm mấu chốt được giả định của hầu kết lý thuyết này là trạng thái ổn định, của một lĩnh vực tổ chức trưởng thành là có nhiều nguồn lực giữ cho tổ chức như cũ mạnh hơn so với lực lượng làm tổ chức đó tan rã và thay đổi. Như Holm (năm 1995, p. 398), đã đề cập, ''các tiến trình của những thể chế được hình thành và cải cách, có xu hướng theo đuổi lợi ích và mang tính chính trị cao, đã được bỏ qua. Kết quả là một lý thuyết thể chế không thể giải thích làm thế nào những thể chế được tạo ra và làm thế nào chúng thay đổi.'' Tuy nhiên, điều này đang thay đổi (Barley và Tolbert, 1997; Dacin, Goodstein, và Scott, 2002; Lawrence, Winn và Jennings, 2001; Oliver, 1992 Tolbert; và Zucker, 1996), lý thuyết gần đây đã bắt đầu chỉ ra những thay đổi từ gốc cũng như những thay đổi mang tính hội tụ9. Thật vậy, Dacin et al. (Năm 2002, p. 45) cho rằng ''chủ đề của sự thay đổi thể chế đã trở thành nội dung chính của các nhà nghiên cứu về tổ chức.” Chúng tôi cho rằng cần phải có một mô hình để giải thích về cách thức và tại sao các thể chế thay đổi. Ít có sự quan tâm đến ảnh hưởng của sự đẳng cấu10 (chứ không phải là kết quả của bản thân sự đẳng cấu ), vì vậy mà ít ai biết được làm thế nào và tại sao các thực tiễn được thể chế hoá trong một lĩnh vực lại thay đổi hoặc thu hẹp lại. Tolbert và Zucker (1996, trang 175), đã có nhiều nghiên cứu sâu về lý thuyết thể chế, phát hiện 8 Institutional life 9 “ Radical change” và “Convergent change” sự thay đổi từ gốc (căn cơ) và sự thay đổi từ từ mang tính hội tụ 10 Isomorphism: tạm dịch là sự đẳng cấu- sự tương đồng về mặt cấu trúc 4 rằng, ''mặc dù nhiều công trình nghiên cứu đồ sộ về vấn đề này, nhưng đáng ngạc nhiên khi có rất ít nghiên cứu về khái niệm và sự xác định các quá trình của thể chế hoá.'' Tương tự như vậy, Seo và Creed (2002) lập luận rằng các quá trình cung cấp sự hiểu biết cơ bản về sự thay đổi thể chế “trong những nỗ lực gần đây thật sự là chưa đầy đủ” (trang 223). Đó là thách thức và mục tiêu của chúng tôi là sẽ cung cấp những kiến thức này được đầy đủ hơn. Bài viết này có giới thiệu một mô hình tuần hoàn11 các giai đoạn của tiến trình và sự năng động của sự thay đổi thể chế. Khi triển khai mô hình này, chúng tôi trình bày, và mở rộng, các thảo luận và mô hình đã được trình bày bởi Greenwood, Suddaby, và Hinings (2002). Trước khi mô tả mô hình, chúng tôi điểm lại tài liệu về sự thay đổi lĩnh vực tổ chức. Sau đó chúng tôi phác thảo vai trò của các nguyên ảnh12 thể chế. Tiếp theo, là thảo luận từng giai đoạn trong 5 giai đoạn của mô hình. Cuối cùng chúng tôi sẽ rút ra kết luận về ý nghĩa của mô hình này cho các nghiên cứu trong tương lai. Sự thay đổi lĩnh vực tổ chức Theo DiMaggio và Powell (1983, trang 148-149), một lĩnh vực tổ chức13 là “những tập hợp của các tổ chức, mà khi kết hợp, tạo thành một khu vực của đời sống thể chế; bao gồm: các nhà cung cấp chính, người tiêu dùng sản phẩm và tài nguyên, các tổ chức điều hành và các tổ chức khác sản xuất những dịch vụ hoặc sản phẩm tương tự.'' Theo Scott (2001, trang 137), thì hầu hết các nhà phân tích áp dụng một định nghĩa chung chung về lĩnh vực như một tập hợp của các tổ chức khác nhau mà có chức năng tương tự nhau. Trong nghiên cứu trước đó của mình, Scott (1994) cho rằng mô hình tương tác giữa những cộng đồng tổ chức được xác định thông qua hệ thống chia sẻ ý nghĩa. Hệ thống ý nghĩa thiết lập ranh giới của các cộng đồng của các tổ chức, xác định cách hành xử của những thành viên và mối quan hệ thích hợp giữa các cộng đồng của các tổ chức (Lawrence, 1999). 11 Circular model 12 Archetype – từ này có thể dịch là “ nguyên ảnh” hay “mẫu tượng”, (đọc thêm Lưu hồng Khanh, “tâm lý học chuyên sâu”, NXB Trẻ 2006, trang 242 – 246) 13 Ở phần trên ta đã dịch “ organizational field” là “ lĩnh vực tổ chức”. T rong các phần sau đôi khi tác giả chỉ dùng từ “ field” thì cũng có nghĩa là “lĩnh vực tổ chức” 5 Các khái niệm về tổ chức như vậy cho chúng ta quan điểm cúa các nhà xây dựng xã hội (Berger và Luckman, 1967; Zucker, 1977, 1987). Niềm tin và giá trị tập thể14 xuất hiện từ sự tương tác lặp đi lặp lại giữa tổ chức. Các tổ chức phát triển cách thức trao đổi của chúng , cụ thể hóa chúng, từ đó hình thành hiện thực xã hội. Từ sự hình thành hiện thực xã hội này sẽ làm giảm sự mơ hồ và không chắc chắn cho các tổ chức. Ngược lại sự hiểu biết được chia sẻ của các thực tiễn thích hợp làm cho việc trao đổi đi vào trật tự. Theo thời gian, việc chia sẻ sự hiểu biết này, hoặc niềm tin của tập thể, được củng cố trở thành quy trình đẳng cấu15 (bao gồm ba hình thức: cưỡng chế, chuẩn mực, và bắt chước)16, trong đó bao gồm cả việc truyền bá và lặp lại các quy định được mã hoá17 theo hiện thực xã hội, tức là nhấn mạnh tính đồng nhất giữa các cộng đồng thành phần. Các sai biệt từ những quy ước này sẽ kích hoạt sự cố gắng điều chỉnh (nghĩa là hợp pháp hoá) việc tách biệt khỏi các chuẩn mực18 xã hội (Deephouse năm 1999; Elsbach năm 1994; Lamertz và Baum, 1997; Miller và Chen, 1995), hoặc có lẽ sẽ thiết lập một loạt cấu trúc xã hội mới và các thay đổi, chuyển đổi tiếp theo của lĩnh vực tổ chức. Khái niệm về sự tạo dựng này đã phát hoạ quá trình từng bước trưởng thành và đặc tả các vai trò, hành vi và tương tác của các lĩnh vực tổ chức. Nhưng ranh giới và hành vi lại không cố định: nên sự tạo dựng không tái tạo được 1 bản sao hoàn hảo (Goodrick và Salancik năm 1996; Ranson, Hinings, và Greenwood, 1980). Các ranh giới của các cộng đồng tổ chức thường xuyên được xem lại, định nghĩa lại, và bảo vệ; chúng là kết quả của sự liên tục khẳng định và sự phản bác (Greenwood, Suddaby, và Hinings, 2002). Nói chung, các quy trình thể chế có thể hướng tới trạng thái ổn định của lĩnh vực. Tuy nhiên, luôn có những khác biệt khi diễn giải và cần nhấn mạnh là chúng có thể sẽ được tạm giải quyết bằng sự đồng thuận xã hội. Như vậy việc xuất hiện của sự ổn định có thể gây nhầm lẫn (E.g. Sahlin-Andersson, 1996, trang 74) và các lĩnh vực nên được nhìn nhận là ''không phải tĩnh, mà tiến hóa '' (Hoffman, 1999, trang 352). Đến mức độ có khi 14 Collective beliefs and values 15 Isomorphism process 16 (coercive,normative,mimetic) 17 Coded prescription 18 Social norm 6 các lĩnh vực thậm chí giống như “cuộc chiến thể chế” (trang 352). Ranh giới giữa các tổ chức thường cho thấy các giai đoạn của sự ổn định đẳng cấu. Nhưng gần như luôn luôn tiềm ẩn một sự tranh chấp ngấm ngầm. Chúng tôi sẽ đề cập và triển khai các biểu thị của sự thay đổi trong mô hình quá trình về sự năng động trong thay đổi thể chế. Hình 10.1 phác thảo các giai đoạn của mô hình này. Ban đầu, có phải các sự kiện (“cú sốc”19 theo Meyer, Brooks, và Goes, 1990) làm mất ổn định các thực tiễn đã được thiết lập (giai đoạn I). Ở giai đoạn II những sự kiện này cho phép thâm nhập và vận hành các doanh nhân thể chế. Nhưng những ý tưởng và thực tiễn mới mà các doanh nhân đưa ra phải được định hình rõ ràng và mang tính hợp pháp, đây là giai đoạn III của mô hình. Giai đoạn IV cho thấy xung đột và sự không công nhận xảy ra ớ cả hai cấp tổ chức và lĩnh vực bằng các nỗ lực để chuẩn hóa các mô hình hoạt động mới. Sau đó các lĩnh vực đạt được một mức độ ổn định khi chúng được tái thể chế hoá (giai đoạn V). Điều quan trọng ở đây là mô hình này tuần hoàn, vì vậy tái thể chế hoá sẽ tiếp tục là nguyên nhân của những thách thức sau này. Các Nguyên ảnh Thể chế Tổ chức chịu áp lực từ các bối cảnh thể chế để tổ chức theo cách đã quy định (và không tổ chức theo những cách không được quy định). Những quy định tạo thành các khuôn mẫu thiết kế tổ chức được gọi là “nguyên ảnh.” Một nguyên ảnh là một cấu hình của cấu trúc và hệ thống được gắn kết với một kiểu diễn giải20 tiềm ẩn. Lý thuyết thể chế nhấn mạnh nguyên ảnh được hình thành bên ngoài một tổ chức: '' môi trường tổ chức bao gồm các yếu tố văn hóa, đó là niềm tin hiễn nhiên và các nguyên tắc được ban hành rộng rãi như là các khuôn mẫu cho tổ chức. Việc tái tạo lại thể chế đã được liên kết với nhu cầu của những “đơn vị thực hiện” có quyền lực của thể chế, chẳng hạn như nhà nước, các chuyên gia, hoặc các chủ thể trung tâm đầy quyền lực. Việc nhấn mạnh này đã nêu các ràng buộc của thể chế và nhấn mạnh các quy tắc thống nhất trong việc hướng dẫn hành vi'' (DiMaggio và Powell, 1991, trang 278, phần nhấn mạnh thêm vào). 19 Jolts : từ này mang ý nghĩa tích cực hơn từ “Shock” (lời người dịch) 20 Interpretive scheme 7 Kikulis, Slack, và Hinings (1995) chỉ ra cách thức khuôn mẫu tổng thể của những thực tiễn trong các tổ chức được hình thành trong cấu trúc và hệ thống của các tổ chức đó, chúng được tạo ra bằng giá trị và những ý tưởng cốt lõi - có nghĩa là một kiểu diễn giải (Ranson et al., 1980). Blau và McKinley (1979) phân tích các thực tiễn có cấu trúc như là '' các kiểu làm việc điển hình21'' trong khi Pettigrew (1985) mô tả các thực tiễn quản lý và tổ chức của tập đoàn ICI như “sự quy định mang tính thống trị hay niềm tin cốt lõi”22. Haveman và Rao (2002) khái niệm hoá lực lượng tổ chức như “cảm tính thuộc về đạo đức.”23 Khi những lĩnh vực phát triển, các quá trình của cấu trúc hóa tạo ra một hình thái tổ chức đẳng cấu, được mô tả như một kiểu diễn giải đơn nhất, những cơ cấu tổ chức, và các hệ thống hoạt động - nghĩa là, phát triển một nguyên ảnh thể chế hợp pháp và được định nghĩa rõ ràng. Các tổ chức trong các lĩnh vực trưởng thành chấp nhận các khuôn mẫu nguyên ảnh được mô tả giống nhau. Khi lĩnh vực trưởng thành, nó ngày càng ổn định, và càng trở nên được kết nối chặt chẽ hơn thông qua các cấu trúc, tương tác, và niềm tin chung (Scott, 2001). Các tổ chức trong lĩnh vực càng trở thành giống như nhau như kết quả của quá trình cưỡng chế, chuẩn mực, và bắt chước, nhấn mạnh vào sự chấp nhận các nguyên ảnh đã ấn định trước (DiMaggio và Powell, 1983). Sự tiến triển của công nghệ và các ngành công nghiệp đã được mô tả trong các khái niệm tương tự. Sau một giai đoạn ban đầu của phát triển kỹ thuật, các “thiết kế mang tính thống trị”24 được hình thành theo xã hội tạo sự ổn định các mối quan hệ giữa các nhà cung cấp và nhà sản xuất: các cộng đồng chuyên nghiệp phát triển, và tổ chức điều hành25 chẳng hạn như các hiệp hội công nghiệp và các “tiêu chuẩn” kỹ nghệ do nhà nước ban hành. “Chế độ” kỹ thuật trở thành “khuôn sáo và cứng nhắc”26 hơn (Tushman và Rosenkopf, 1992, trang 324; xem thêm Dosi, 1982; Nelson, 1994; 4 Utterback, 1994). 21 Work motif 22 “ Dominating rationalities or core belief” 23 Moral sentiment 24 “ Dominant design” 25 Regulatory agency 26 “ Routinized and rigid” 8 Do đó, sự thay đổi thể chế liên quan đến ít nhất ba điều: sự trội lên của một nguyên ảnh thay thế, hủy bỏ sự hợp pháp của nguyên ảnh hiện có, và sự hợp pháp hóa nguyên ảnh mới.Các quy trình song song này bao gồm sự chấp nhận nguyên ảnh mới trong một lĩnh vực ngày càng rộng hơn của các tổ chức, cùng với những thay đổi tiếp theo trong các mô hình tương tác và cơ cấu trong lĩnh vực này. Năm giai đoạn của hình 10.1 phác thảo các quá trình này. Chúng ta sẽ xem từng giai đoạn một. Giai đoạn I: áp lực sự thay đổi Theo lý thuyết thể chế, tổ chức phải trở thành đẳng cấu để tồn tại cùng với những kỳ vọng nằm trong bối cảnh của thể chế (Deephouse, 1996; Meyer và Rowan, 1977 và Kraatz và Zajac, 1996). Bối cảnh thể chế này được tạo thành từ các bộ phận tương tác nhau (như nhà nước, cơ quan điều hành, và các hiệp hội ngành nghề), từ các ý tưởng và từ những kỳ vọng mang tính chuẩn mực. Nghĩa là, bối cảnh thể chế chứa bao gồm cả ý tưởng và cả cơ chế mà qua đó ý tưởng được truyền bá và được củng cố (Scott, Ruef, Mendel, & Caronna, 2000). Các cơ chế khác nhau còn gọi là “các con đường đa nhánh”27 (Greve, 1996), đã được xác định như các bộ phận cài vào nhau28 (như trường hợp của Davis, năm 1991, Davis và Powell, nă m 1991; Davis và Greve, 1997; Haveman năm 1993; Palmer, Jennings, và Zhou, 1993), các mạng lưới (Galaskiewicz, 1985; Kraatz, 1998; Gulati Westphal,, và Shortell, 1997), các cơ sở tri thức của các cơ chế này (Oakes, Townley, và Cooper, năm 1999; Power và Laughlin, 1996), hoặc các mô hình bắt chước (Galaskiewicz và Wasserman, 1989; Greve, 1995, 1996; Haunschild và Miner năm 1997; Havemann, 1993). Vai trò của nhà nước và cơ quan chuyên môn trong việc kết nối và điều tiết sự sắp xếp tổ chức cũng đã được văn bản hóa (Baum và Oliver, 1991; Davis và Greve, 1997; Dobbin và Dowd, 1997; Kikulis và các đồng sự, 1995). 27 “ Multiple routes” 28 Interlocking directorates: được tạm dịch là “ sự cài vào nhau” 9 I.Áp lực của sự thay đổi Chức năng Chính trị Xã hội II.Nguồn gốc các thực tiễn mới V.Tái thể chế hóa Doanh nhân thể chế Người thực hiện cấp - Nhà cải cách lĩnh vực có quyền lực - Kỹ sư - Người tác động Người chống đối thể chế IV.Sự năng động trong sự khử và tái III.Tiến trình khử và thể chế hóa tái thể chế hóa Tận tụy với các giá trị Lý thuyết hóa Thỏa mãn lợi ích Hợp pháp hóa Cấu trúc quyền lực Phổ biến Năng lực Các phong trào xu hướng nhất thời Hình 10.1 Sự năng động của sự thay đổi thể chế. Sự nhấn mạnh này cho thấy rằng nguyên ảnh thể chế được quy định có thể thay đổi khi hoàn cảnh thay đổi. Hình 10.1 bắt đầu từ ý tưởng về các áp lực trên lĩnh vực và những tổ chức mà có sự thay đổi bên trong. Có hai khía cạnh đối với quá trình này. Trước tiên, phải có áp lực bên ngoài đối với lĩnh vực phải trả lời một số câu hỏi. Nhưng những áp lực đó không nằm trong và tự nó cũng không thể tạo sự thay đổi. Một khía cạnh thứ 10 hai là làm thế nào các “đối tượng thực hiện”29 trong lĩnh vực diễn giãi và phản ứng với những áp lực này và với những điều quy định mang tính cạnh tranh và thay đổi trong những áp lực đó. Khi đó các “đối tượng thực hiện” nhận thức và phản ứng với áp lực như là cơ hội. Meyer, Brooks, và Goes (1990) thảo luận về hình thức mà những thay đổi bối cảnh có thể xảy ra và họ cũng lưu ý “cú sốc”30 làm mất sự ổn định cho các thực tiễn hiện thời. Cú sốc có thể là hình thức biến động xã hội (e.g., Zucker, 1987), khủng hoảng công nghệ, mất liên tục do cạnh tranh, hoặc thay đổi luật lệ (Fox-Wolfgramm, Boal, và Hunt, 1998; Lounsbury, 2002; Powell, 1991). Chúng tác động làm nhiễu loạn sự đồng thuận trong các cấp lĩnh vực mang cấu trúc xã hội bằng cách đưa ra những ý tưởng mới và do đó mở ra khả năng thay đổi. Oliver (1992), trong phân tích của bà về những tiền đề của sự khử thể chế hoá, đã hệ thống hoá các cú sốc hoặc áp lực khác nhau. Tập trung vào việc sự khử đi các thực tiễn đã được thể chế hóa, bà gợi ý có ba loại áp lực, hay là ba tiền đề của sự khử việc thể chế hoá. Trong khi Oliver nghiên cứu ở cấp của tổ chức, nhưng các tiền đề của bà ta về các áp lực chính trị, chức năng và xã hội được dễ dàng chuyển đổi lên cấp độ của lĩnh vực và sự năng động của liên tổ chức. Áp lực chính trị là mối đe dọa đối với các dòng tài nguyên đã được thiết lập trong lĩnh vực , cùng với sự thay đổi phân phối quyền lực, gắn liền đến sự hình thành hoặc phá vỡ các liên minh. Holm (1995) cho thấy cách thức liên minh giữa người sản xuất, nhà cung cấp, hiệp hội công đoàn, và các chính phủ có thể biến đổi, thay đổi mối quan hệ quyền lực giữa các các “đơn vị thực hiện” cấp lĩnh vực. Holm (1995) cho thấy sự liên minh giữa người sản xuất, nhà cung cấp, thương mại, công đoàn, và các chính phủ có thể biến đổi, thay đổi mối quan hệ quyền lực giữa các “đơn vị tham gia” cấp lĩnh vực. Trong nghiên cứu của ông về lĩnh vực thuỷ sản của NA UY, những thay đổi vốn dĩ được ủng hộ trong pháp luật đã làm thay đổi dòng tài nguyên. Scott và đồng sự (2000) cũng chú ý 29 Nhắc lại từ “ actor”: ta tạm dịch là “ đối tượng thực hiện”; từ “ player”: tạm dịch “ đối tượng tham gia”; dù hai từ này có thể đồng nhất về nghĩa trong ngữ cảnh bài này. 30 “ Jolts” là các cú sốc với hàm nghĩa tích cực 11 đến tầm quan trọng của những áp lực chính trị và vai trò của các hình thức đặc trưng31 của sự khủng hoảng trong việc tạo ra sự khử thể chế hóa của một lĩnh vực ổn định và trưởng thành. Thornton và Ocasio (1999) cho rằng các quá trình chính trị bị thay đổi xảy ra trong sự thay đổi cấp lĩnh vực giáo dục cao hơn. Một phần của áp lực chính trị trong một lĩnh vực đến từ những thay đổi các quy định, điều này được nhấn mạnh bởi công trình của Hoffman (1997) trong nghiên cứu sự thay đổi thái độ đối với những thực tiễn về môi trường. Đây là điểm tương tự với lập luận của cả DiMaggio và Powell (1983, 1991) và Greenwood và Hinings (1996). Đối với D'Aunno, Succi, và Alexander (2000) lập luận rằng trong vấn đề chăm sóc sức khỏe, c
Luận văn liên quan