Tiểu luận Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh

Bước vào những thập niên đầu của thế kỷ XXI, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường, nhất là sau sự kiện 11- 9 ở Mỹ, sự kiện Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Irắc Ở nước ta, công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa càng được đẩy mạnh và đi vào chiều sâu càng bộc lộ nhiều vấn đề mới, phức tạp đòi hỏi lý luận phải làm sáng tỏ. Trong Đảng ta, một bộ phận cán bộ, đảng viên sa sút về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, phai nhạt về lý tưởng, thậm chí một số người hoài nghi, dao động về chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu “diễn biến hòa bình", trong đó trên lĩnh vực tư tưởng – lý luận bằng các phương tiện thông tin đại chúng, chúng tung ra các quan điểm phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ bao trùm và cấp bách của công tác lý luận của Đảng là nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động của Đảng. Nhận thức được tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh em chọn đề tài: “Con đường đi lên CNXH ở nước ta dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tiểu luận của em chia làm 3 chương: Chương I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH Chương II: Thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta Chương III: Phương hướng xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.

doc12 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4693 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần Mở đầu Bước vào những thập niên đầu của thế kỷ XXI, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường, nhất là sau sự kiện 11- 9 ở Mỹ, sự kiện Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Irắc… Ở nước ta, công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa càng được đẩy mạnh và đi vào chiều sâu càng bộc lộ nhiều vấn đề mới, phức tạp đòi hỏi lý luận phải làm sáng tỏ. Trong Đảng ta, một bộ phận cán bộ, đảng viên sa sút về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, phai nhạt về lý tưởng, thậm chí một số người hoài nghi, dao động về chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu “diễn biến hòa bình", trong đó trên lĩnh vực tư tưởng – lý luận bằng các phương tiện thông tin đại chúng, chúng tung ra các quan điểm phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta… Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ bao trùm và cấp bách của công tác lý luận của Đảng là nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động của Đảng. Nhận thức được tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh em chọn đề tài: “Con đường đi lên CNXH ở nước ta dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tiểu luận của em chia làm 3 chương: Chương I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH Chương II: Thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta Chương III: Phương hướng xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay. Do tầm hiểu biết có hạn nên tiểu luận của em không tránh khỏi có những thiếu sót. Em mong nhận được sự chỉ bảo tận tình của thầy. Em xin chân thành cám ơn thầy! Phần nội dung I.Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH: 1. CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí minh là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, trong đó tư tưởng về CNXH là một bộ phận hết sức quan trọng. Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm rằng, CNXH là một học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp vô sản nhằm xóa bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện lý tưởng giải phóng giai cấp và giải phóng toàn thể xã hội loài người. CNXH còn được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện nó như là một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu. a. Nét mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH: Cái mới và sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói về bản chất của CNXH là phát hiện lý tưởng XHCN từ sự chung đúc tất cả những lý tưởng về giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Đồng thời, Người còn phát hiện một điểm rất quan trọng là, muốn đạt tới lý tưởng, mục tiêu XHCN, chúng ta phải thường xuyên chống lại chủ nghĩa cá nhân. Đối với Người, CNXH là một chế độ xã hội bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các cá nhân. Trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng” Người viết: “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng CNXH. Cho nên thắng lợi của CNXH không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân….Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó được thoả mãn bằng chế độ XHCN và cộng sản chủ nghĩa”. Như vậy, đây là cách tiếp cận mới mà Người đã làm phong phú thêm hướng tiếp cận về CNXH. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm sáng tỏ bản chất CNXH từ những kiến giải về kinh tế, chính trị và xã hội. Ngoài những kiến giải ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhìn nhận bản chất CNXH từ phương diện đạo đức, văn hóa. Theo Người, CNXH đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề phủ nhận cá nhân; trái lại, tôn trọng cá nhân, phát triển mọi năng lực cá nhân vì sự phát triển xã hội và hạnh phúc của con người nói chung. Từ cách tiếp cận đó về CNXH, thông qua hoạt động lý luận và thực tiễn hết sức phong phú của mình, Người đã rút ra những kết luận rất sâu sắc về bản chất của CNXH với tư cách là một chế độ xã hội có khả năng thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Đây là chiều sâu trong tư duy biện chứng, trong nhãn quan văn hóa, đạo đức của Người. Cách tiếp cận sáng tạo, độc đáo về bản chất của CNXH cũng như các định hướng và động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH là điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khi tìm hiểu định nghĩa CNXH của Hồ Chí Minh phải đặt trong tổng thể quan niệm chung của Người về CNXH, việc tuyệt đối hóa một mặt nào đó dễ đưa đến sai lầm trong hoạt động và chỉ đạo thực tiễn. Theo Người, chỉ có CNXH - chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao động. CNXH xóa bỏ triệt để chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, là nguồn gốc sinh ra tình trạng người bóc lột người, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, cơ sở kinh tế đảm bảo cho nhân dân lao động thoát khỏi đói nghèo, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tạo điều kiện giải phóng và phát triển con người toàn diện. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học - công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đó cũng là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN. b. Đặc trưng bản chất của CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh: CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH. CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình. CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi. CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; về lòng yêu nước thương dân, về sức mạnh của nhân dân, lấy dân làm gốc; về sản xuất và tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; về tăng cường quốc phòng - an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về nền văn hóa dân tộc và hiện đại; về đạo đức cách mạng; về đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân... Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi. Đó chính là kho tài sản tinh thần vô cùng to lớn của Đảng và dân tộc ta. Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng và là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận cuả Đảng ta. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam: Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ tình hình thực tiễn của Việt Nam: Trước hết, Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước để nhận rõ đặc trưng tính chất của thời kỳ quá độ của Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, trong đó đặc điểm bao trùm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp, chi phối toàn bộ tiến trình quá độ lên CNXH ở nước ta, từ đó phải tìm ra con đường với những hình thức, bước đi và cách làm phù hợp với đặc điểm Việt Nam. Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người nói "Chúng ta phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài". Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; Phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng XHCN. Thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng XHCN ở nước ta: Sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta được tiến hành trong điều kiện có những thuận lợi, song khó khăn, thách thức rất lớn. Trong hoàn cảnh đó, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân với đường lối đúng đắn, sáng tạo, đất nước ta đã giành nhiều thành tựu to lớn nhưng cũng còn không ít hạn chế. Đại hội VIII của Đảng (1996) nhận định:"… Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng còn một số mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thế kỷ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn". 1. Thành tựu: Phát huy những kết quả đạt được trong 5 năm qua (1996-2000) dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng mà Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: - Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm GDP trong nước tăng bình quân hàng năm 7%. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. - Văn hóa xã hội có những tiến bộ, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện. - Tình hình chính trị - xã hội cơ bản được ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường. - Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố. - Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả. Ngày nay, thế và lực của đất nước ta đã lớn mạnh lên rất nhiều. Những thành tựu đạt được trong những năm qua đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Đạt được thành tựu trên là do Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng và đường lối lãnh đạo đúng đắn; Nhà nước ta có cố gắng lớn trong việc quản lý điều hành; toàn dân tộc đã phát huy lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần cù, năng động, sáng tạo… 2. Hạn chế: Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta còn những yếu kém cần khắc phục: Nước ta còn nghèo và kém phát triển, chúng ta lại chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng để dồn vốn cho đầu tư phát triển. Tình trạng tiêu xài lãng phí phổ biến và nghiêm trọng. Việc huy động các nguồn vốn và sử dụng các nguồn lực còn phân tán, kém phát triển. + Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa được ngăn chặn. Việc làm đang là vấn đề gay gắt. Sự phân hóa giàu - nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh. Đời sống của 1 bộ phận nhân dân còn nhiều nơi rất thấp. Tệ nạn xã hội phát triển. Trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp, làm cho quần chúng nhân dân lo lắng. + Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng. Chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động. Việc quản lý kinh tế hợp tác, liên doanh với nước ngoài còn nhiều sơ hở. + Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. + Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm. Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý và điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình. Còn nhiều biểu hiện quan liêu, chưa tôn trọng, thậm chí còn vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ của nhân dân. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Điều đáng lo ngại là không ít cán bộ đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức; sức chiến đấu của 1 bộ phận tổ chức cơ sở đảng suy yếu. Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn hóa xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Cơ chế chính sách chưa đồng bộ; tình trạng tham nhũng, suy thoái ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Đây là những vấn đề cần phải được nhanh chóng khắc phục để đất nước phát triển bền vững. (Những thành tựu quan trọng mà nhân dân ta đã đạt được trong thời gian qua, đặc biệt là trong hơn 20 năm đổi mới, là một thực tế không ai có thể phủ nhận được. Con đường đi tới của cách mạng nước ta đang có nhiều cơ hội thuận lợi, nhưng cũng gặp không ít thách thức, khó khăn, nhất là sau khi nước ta gia nhập WTO. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, với sự kiên định mục tiêu, lý tưởng và đạo đức XHCN cùng sự lãnh đạo sáng tạo, đúng đắn của Đảng, nhân dân ta sẽ từng bước thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Phương hướng xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay: Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới và 10 năm thực hiện Cương lĩnh, đất nước ta đã thu được những thành tựu quan trọng. Thành tựu đó đã khẳng định mô hình và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn. "Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn con đường đi lên CNXH ở nước ta". Đại hội IX của Đảng khẳng định mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta nhưng bổ sung thêm từ "dân chủ" để phản ánh đầy đủ hơn, rõ ràng hơn nhận thức của chúng ta về mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. - Đại hội IX cũng xác định: Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp khó khăn, phức tạp, cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. - Về mô hình tổng quát, Đại hội đã nói rõ hơn về sự khác nhau giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường XHCN trên các điểm căn bản như về mục đích, về các thành phần kinh tế, về chế độ quản lý, chế độ phân phối. Trong đó, khẳng định kinh tế Nhà nước và quản lý của Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN. - Trong thời kỳ quá độ còn tồn tại các giai cấp, nhưng mối quan hệ của các giai cấp đó là quan hệ hợp tác và đấu tranh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn này là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, đấu tranh khắc phục tình trạng tiêu cực, đấu tranh làm thất bại âm mưu diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. - Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. - Đại hội IX tiếp tục khẳng định nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời làm rõ khái niệm, nguồn gốc hình thành về nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường của cách mạng Việt Nam, là tài sản to lớn của Đảng và của dân tộc Việt Nam. Đại hội khẳng định những bài học kinh nghiệm mà các Đại hội Đảng toàn quốc VI, VII, VIII vẫn còn nguyên giá trị. Qua thực tiễn của công cuộc đổi mới trong mấy năm qua, đại hội IX đã nhấn mạnh những bài học kinh nghiệm chủ yếu sau: + Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. + Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phải phù hợp với thực tiễn và luôn luôn sáng tạo. + Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại. + Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới. Thời đại ngày nay, qúa độ lên CNXH là xu hướng khách quan của lòai người.Đi trong dòng lịch sử, chúng ta đã và đang nhận được sự đồng tình ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của lòai người, của các quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến bộ của mình. Qua suốt 20 năm đổi mới, hßan thiện trên con đường đi lên XHCN, Đảng đã xác định là con đường mà TKQĐ đất nước còn dài, có nhiều khó khăn, phải trải qua nhiều chặng đường: Mục tiêu quan trọng của chặng đường đầu là: đổi mới tòan diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định và vững chắc, tạo tiền đề cho sự phát triển sau này. Mục tiêu kế tiếp là đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa nhằm đến năm 2020 nước ta trở thành nước cơ bản công nghiệp hiện đại (tập trung xây dựng đội ngũ kỹ thuật, kỹ sư lành nghề trình độ cao, xây dựng mối quan hệ tổ chức sản xuất hiện đại, quốc phòng được củng cố..) Chúng ta cần tiếp tục kiên định con đường phát triển đất nước theo CNXH. Không một thế lực nào có thể thay đổi được sự lựa chọn đó của dân tộc ta./. Kết luận Tư tưởng Hồ Chí Minh là tinh hoa của dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của Đảng ta và nhân dân ta. Tính khoa học và tính cách mạng sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được lịch sử kiểm chứng. Trải qua những biến động của thời cuộc, tư tưởng Hồ Chí Minh càng chứng tỏ giá trị và sức sống mãnh liệt của nó. Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới ở nước ta ngày càng đi vào chiều sâu, những biến chuyển trên thế giới ngày càng lớn, những vấn đề mới đặt ra trong đời sống xã hội ngày càng nhiều, đòi hỏi phải làm sáng tỏ, thì việc nghiên cứu, học tập, bảo vệ, vận dụng và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tế cuộc sống, trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong công tác chính trị, tư tưởng, lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta. Vững bước trên con đường đi tới tương lai, sự nghiệp cách mạng của Ðảng, của nhân dân ta luôn luôn được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam hành động của chúng ta. Ðó cũng là định hướng tư tưởng, quan điểm và nguyên tắc không thay đổi của Ðảng ta trong lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc ta, phấn đấu vì mục tiêu cao cả: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Luận văn liên quan