Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, việc rèn luyện phát triển kỹ năng giao tiếp phải đi kèm với vốn hiểu biết về ngôn ngữ xã hội. Người học ngoại ngữ muốn tăng cường được khả năng giao tiếp trong ngôn ngữ đích thì cần phải nâng cao vốn hiểu biết về ngôn ngữ xã hội. Bên cạnh những khó khăn về ngữ pháp, cấu trúc, hay ngữ âm, người học ngoại ngữ còn gặp khó khăn trong việc sử dụng ngôn ngữ một cách phù hợp liên quan tới các thành ngữ hay quy phạm văn hóa của ngôn ngữ đích. Theo Gumperz thì “Người ở những nền văn hóa khác có cách giao tiếp khác nhau. Những khác biệt về văn hóa có thể gây nên khó khăn dẫn đến thất bại trong giao tiếp”.
Chào hỏi cũng như những hành động nói khác thể hiện đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc. Có rất nhiều cách chào hỏi khác nhau. Ở những nước phương Tây như Pháp, Tây Ban Nha hay Ý, mọi người thường chào bạn bè bằng cách trao nhau nụ hôn má trong khi đó ở Trung Đông, người Hồi giáo thường ôm người cùng giới khi họ chào nhau. Còn những người châu Á? Những người ở đất nước châu Á thường khá kín đáo, do đó cách họ chào nhau cũng hết sức thận trọng và kính cẩn. Ở Việt Nam, lời chào là hết sức quan trọng. Ngay từ xa xưa đã có câu nói “Lời chào cao hơn mâm cỗ”, điều này cho thấy văn hóa chào hỏi đã trở thành một thứ văn hóa không thể thiếu của người Việt.
Mặc dù ở tất cả các ngôn ngữ, chức năng cơ bản nhất của chào hỏi là để xác nhận việc nhận biết sự có mặt của người giao tiếp, thể hiện sự quan tâm và khẳng định mối quan hệ hay vị thế của người cùng giao tiếp. Song ở những ngôn ngữ khác nhau, cách thức cụ thể trong chào hỏi lại không như nhau. Việc đem quy ước sử dụng của ngôn ngữ này vào ngôn ngữ khác sẽ gây cho họ nhiều khó khăn và dễ bị hiểu lầm. Vì thế nghiên cứu về cách thức chào hỏi của các ngôn ngữ, từ đó đưa ra những nét tương đồng và khác biệt là khá cần thiết, nhất là trong khi nhu cầu học ngoại ngữ đang ngày càng tăng cao.
Trong bài tiểu luận này, tôi sẽ tập trung vào cách chào hỏi của ngôn ngữ Anh và ngôn ngữ Việt, so sánh và chỉ ra những điểm khác biệt liên quan tới nội dung, ngữ nghĩa, cú pháp và từ vựng trong lời chào của hai ngôn ngữ này. Dựa vào đó, tôi sẽ đưa ra một vài gợi ý cho cách dạy và học ngoại ngữ để giúp người học có thể tránh được sự chuyển đổi không phù hợp từ tiếng mẹ đẻ sang ngôn ngữ đích và có thêm thông tin cần thiết để họ thành công hơn trong giao tiếp với người bản ngữ.
27 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 10644 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đặc trưng ngôn ngữ - Văn hóa của hành vi chào hỏi trong tiếng Anh và tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA TIẾNG ANH
NGUYỄN THÙY DƯƠNG
ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA HÀNH VI CHÀO HỎI TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
Hà Nội, tháng 12-2011
BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA TIẾNG ANH
NGUYỄN THÙY DƯƠNG
ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA HÀNH VI CHÀO HỎI TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: T.S KIỀU THỊ THU HƯƠNG
Hà Nội, tháng 12-2011
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài:
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, việc rèn luyện phát triển kỹ năng giao tiếp phải đi kèm với vốn hiểu biết về ngôn ngữ xã hội. Người học ngoại ngữ muốn tăng cường được khả năng giao tiếp trong ngôn ngữ đích thì cần phải nâng cao vốn hiểu biết về ngôn ngữ xã hội. Bên cạnh những khó khăn về ngữ pháp, cấu trúc, hay ngữ âm, người học ngoại ngữ còn gặp khó khăn trong việc sử dụng ngôn ngữ một cách phù hợp liên quan tới các thành ngữ hay quy phạm văn hóa của ngôn ngữ đích. Theo Gumperz thì “Người ở những nền văn hóa khác có cách giao tiếp khác nhau. Những khác biệt về văn hóa có thể gây nên khó khăn dẫn đến thất bại trong giao tiếp”.
Chào hỏi cũng như những hành động nói khác thể hiện đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc. Có rất nhiều cách chào hỏi khác nhau. Ở những nước phương Tây như Pháp, Tây Ban Nha hay Ý, mọi người thường chào bạn bè bằng cách trao nhau nụ hôn má trong khi đó ở Trung Đông, người Hồi giáo thường ôm người cùng giới khi họ chào nhau. Còn những người châu Á? Những người ở đất nước châu Á thường khá kín đáo, do đó cách họ chào nhau cũng hết sức thận trọng và kính cẩn. Ở Việt Nam, lời chào là hết sức quan trọng. Ngay từ xa xưa đã có câu nói “Lời chào cao hơn mâm cỗ”, điều này cho thấy văn hóa chào hỏi đã trở thành một thứ văn hóa không thể thiếu của người Việt.
Mặc dù ở tất cả các ngôn ngữ, chức năng cơ bản nhất của chào hỏi là để xác nhận việc nhận biết sự có mặt của người giao tiếp, thể hiện sự quan tâm và khẳng định mối quan hệ hay vị thế của người cùng giao tiếp. Song ở những ngôn ngữ khác nhau, cách thức cụ thể trong chào hỏi lại không như nhau. Việc đem quy ước sử dụng của ngôn ngữ này vào ngôn ngữ khác sẽ gây cho họ nhiều khó khăn và dễ bị hiểu lầm. Vì thế nghiên cứu về cách thức chào hỏi của các ngôn ngữ, từ đó đưa ra những nét tương đồng và khác biệt là khá cần thiết, nhất là trong khi nhu cầu học ngoại ngữ đang ngày càng tăng cao.
Trong bài tiểu luận này, tôi sẽ tập trung vào cách chào hỏi của ngôn ngữ Anh và ngôn ngữ Việt, so sánh và chỉ ra những điểm khác biệt liên quan tới nội dung, ngữ nghĩa, cú pháp và từ vựng trong lời chào của hai ngôn ngữ này. Dựa vào đó, tôi sẽ đưa ra một vài gợi ý cho cách dạy và học ngoại ngữ để giúp người học có thể tránh được sự chuyển đổi không phù hợp từ tiếng mẹ đẻ sang ngôn ngữ đích và có thêm thông tin cần thiết để họ thành công hơn trong giao tiếp với người bản ngữ.
1.2 Câu hỏi nghiên cứu
Trọng tâm của bài tiểu luận sẽ tập trung vào tìm hiểu những lời chào trong tiếng Anh và tiếng Việt và trả lời những câu hỏi cụ thể dưới đây:
Các lời chào hỏi trong tiếng Anh?
Các lời chào hỏi trong tiếng Việt?
Có những nét giống và khác nhau nào trong lời chào hỏi của tiếng Anh và tiếng Việt?
1.3 Mục đích nghiên cứu
Đề tài đặt ra mục đích là nghiên cứu một cách hệ thống những lời chào hỏi khi gặp mặt trong tiếng Anh. Miêu tả tập trung vào những đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa chào hỏi, từ đó đối chiếu với những lời chào hỏi tương đương có trong tiếng Việt, nêu ra những nét giống nhau và những điểm khác biệt trên bình diện ngữ ngôn, ngữ dụng và bình diện liên văn hóa.
Đề tài cũng đặt ra mục đích giúp sinh viên nắm được những đặc trưng ngôn ngữ, tâm lý, xã hội, văn hóa... của hành động chào hỏi trong tiếng Anh, từ đó nâng cao năng lực và hiệu quả giao tiếp ngôn ngữ và dịch thuật, để nhận rõ cái đúng, cái hay trong giao tiếp ngôn ngữ. Kết quả nghiên cứu góp phần làm phong phú thêm vốn hiểu biết về văn hóa chào hỏi trong tiếng Anh và tiếng Việt, qua đó giúp tiếp nhận và sử dụng được ngôn ngữ này một cách hiệu quả.
1.4 Đối tượng và phạm vi của nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào hành vi chào hỏi thông qua các lời chào hỏi phổ biến, được dùng thông dụng trong giao tiếp thường nhật trong tiếng Anh và tiếng Việt. Trọng tâm của nghiên cứu là tập hợp, hệ thống hóa, phân tích đặc trưng văn hóa - ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa - xã hội của các lời chào, so sánh và khái quát hóa những nét tương đồng và dị biệt của những lời chào hỏi trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài là những lời chào mang tính chất cá biệt, đặc trưng cho một nhóm hay một số đối tượng cá biệt và những lời chào mang tính nghi lễ đặc thù trong quân đội, tôn giáo... cũng như những ước lệ chào hỏi qua điện thoại và những hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ âm thanh và văn bản khác trên mạng.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Người nghiên cứu lựa chọn phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính cho bài tiểu luận, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp định tính. Sử dụng phương pháp định tính để đi phân tích, so sánh các đặc điểm chính, các mô hình và cách sử dụng các lời chào trong tiếng Anh và tiếng Việt. Phân tích, so sánh các đặc điểm chính, các mô hình và cách sử dụng các lời chào trong tiếng Anh và tiếng Việt. Đặt ngôn ngữ - với tư cách là một trong những hành vi của con người - vào tình huống cụ thể và thông qua đó nêu được đặc trưng văn hóa - ngôn ngữ và văn hóa dân tộc của lời chào hỏi trong cả hai ngôn ngữ. Khái quát các nét tương đồng và dị biệt của lời chào trong tiếng Anh và tiếng Việt và từ đó đưa ra một số gợi ý cho việc dạy và học tiếng Anh
Phương pháp định lượng được người viết sử dụng để thu thập, thống kê các tài liệu tiếng Anh và tiếng Việt có liên quan tới đề tài. Trình bày các nghiên cứu mang tính chất lý luận, làm cơ sở cho nghiên cứu.
Nguồn tài liệu chủ yếu của bài nghiên cứu đó là sách tham khảo có liên quan đến chủ đề nghiên cứu và các nguồn Internet đáng tin cậy.
CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU
2.1 Những khái niệm cơ bản
2.1.1 Hành vi ngôn ngữ
Theo George Jule, hành vi ngôn ngữ (speech acts) là “những hành động được thể hiện thông qua các phát ngôn”. Trong giao tiếp, hành vi ngôn ngữ không đơn giản chỉ là đưa ra những câu đúng ngữ pháp mà ở mỗi câu còn có một kiểu hành vi nhất định được thực hiện, ví dụ như hỏi, chào, bắt chuyện, ra lệnh, từ chối, cảm ơn, xin lỗi... Có thể thấy rằng, trong giao tiếp có nhiều hành vi ngôn ngữ được thực hiện đồng thời.
Theo như George Yule thì ông phân biệt hành vi ngôn ngữ thành 3 hành vi ngôn ngữ bộ phận. Đó là: hành vi tạo lời (locutionary act), hành vi tại lời (illocutionary act) và hành vi sau lời (perlocutionary act).
"Trong các tài liệu Việt ngữ học, thuật ngữ locutionary act thường được dịch là hành động tạo lời, illocutionary act - hành động ở lời và perlocutionary act - hành động mượn lời hay hành động xuyên ngôn."
(Nguyễn Thiện Giáp 2000: 44)
Theo đó, hành vi tạo lời là biểu đạt phát âm các từ, hình vị, câu và xác định các yếu tố liên quan, nghĩa là việc nói ra một câu với ý nghĩa và sở chỉ xác định. Hành vi tại lời là thực hiện một hành vi ngôn ngữ theo một loại hình nhất định ví dụ hỏi, trả lời, ra lệnh, mong ước... Hành vi sau lời là tác động, ảnh hưởng của lời nói tới tình cảm, suy nghĩ, tiếp nhận và đối với các hành vi diễn ra sau đó, tức là hiệu quả, tác động đối với người nghe phát sinh từ hành vi ngôn ngữ trên.
2.1.2 Hành vi ngôn ngữ "chào"
Chào hỏi là một trong những hành vi ngôn ngữ dùng trong giao tiếp thường nhật, diễn ra một cách tự nhiên, không thể thiếu trong bất kỳ một ngôn ngữ nào. Trong tiếng Anh, để biểu thị hành vi chào hỏi là động từ ngôn hành (performative Verb – động từ chỉ những hành động thực hiện bằng ngôn từ - Nguyễn Thiện Giáp 2000) “greet”.
Về khái niệm “greet” trong tiếng Anh, từ điển Oxford Advanced Learner định nghĩa đó là gửi lời chào tới ai (VD: He greeted all the guests warmly when they arrived)
2.1.3 Hành vi ngôn ngữ “chào” trong tiếng Anh
a) Hành vi ngôn ngữ “greet” thông thường được biểu đạt thông qua các hành vi chuẩn tắc, có dạng xác định, thông qua các lời chào. Điều kiện duy nhất đối với việc thể hiện một lời chào, đó là các đối tác giao tiếp phải gặp nhau. Việc thực hiện hành vi ngôn ngữ "greet" (Hi!, Hello!) sẽ thành công nếu người nghe nắm được kiểu chào đó và tự hiểu rằng đó là lời chào dành cho mình.
Thông qua sử dụng thành thói quen, các biểu thức chào hỏi được giảm thiểu thành những cụm từ xã giao, khuôn mẫu. Hành vi ngôn ngữ "greet" do đó không được xem là hành vi tạo lời (locutionary act) thực sự. Đa phần các kiểu chào hỏi, chẳng hạn như "Hello!" đều không mang nghĩa, chức năng dụng học của chúng chỉ được thể hiện khi chúng đóng vai trò làm dấu hiệu trong những ngữ cảnh văn hóa nhất định: người nhận lời chào nhận thấy mình được chào và đáp lại.
2.2 Các lời chào
Các lời chào là các đơn vị lời nói làm phương tiện biểu đạt các hành vi chào hỏi nói trên. Các phát ngôn chào có những đặc điểm nhất định.
Thứ nhất, các lời chào là các phát ngôn mang tính nghi thức, tức là các phát ngôn phục vụ cho những hành vi ứng xử mang tính nghi thức. Nhìn chung các hoạt động máy móc mang tính quy ước được gọi là nghi thức, các hoạt động này có thể được diễn tả bằng cử chỉ hoặc ngôn ngữ.
Thứ hai, các lời chào là một phần luôn hiện diện trong giao tiếp hằng ngày, chúng là những nghi thức thường nhật, có hai đặc tính: (a) đặc tính đối thoại và (b) đặc tính trao đổi.
(a) Đặc tính đối thoại của lời chào đòi hỏi sự trao nhận và trả lời. Chừng nào một lời chào được thực hiện thì có một lời chào đáp lại, đây là điều kiện rất quan trọng. Lời chào đáp lại được coi như yếu tố thứ hai trong trình tự, nếu không có nó, rất có thể đó sẽ là dấu hiệu của sự bất nhã hoặc xúc phạm.
(b) Đặc tính trao đổi của lời chào tạo nên một khung quanh tương tác giao tiếp. Hành vi chào với tư cách là một hành vi nghi thức là một thể tự nhiên có hai thành phần: sau lời chào phải là một lời chào đáp lại, chúng có thể quan hệ đối xứng hoặc không đối xứng với nhau. Đối xứng nhau là dạng thức đầu bằng với dạng thức phản ứng, nghĩa là lời chào đáp lại là sự lặp lại từng từ của lời chào đầu gọi là dạng thức cộng hưởng. Đặc tính cộng hưởng của phát ngôn chào được miêu tả như là các cặp đôi liền kề (adjacency pairs), nghĩa là các cặp đôi nối tiếp nhau trực tiếp, chế định nhau về mặt giao tiếp, có quan hệ đối xứng, mẫu trình tự của nó là:
Hello! Chào! (chào khởi xướng)
Hello! Chào! (chào đáp lại)
Tuy nhiên, cũng có thể xảy ra trường hợp chào khởi xướng lại khác dạng thức chào đáp lễ, nhưng sự khác biệt này thường không đáng kể và không ảnh hưởng tới đặc tính cộng hưởng.
Hey, Jenny! Ê, Jenny ! (chào khởi xướng)
Oh, hi Mary. How are you ? Oh chào Mary. Bạn khỏe không? (chào đáp lại)
2.3 Chức năng của lời chào
Chức năng nổi bật của lời chào là sự diễn tả phép lịch sự. Trong giao tiếp "mặt đối mặt", lời chào trở thành bắt buộc khi gặp. Lời chào có nghĩa là nói "vâng" với giao tiếp xã hội. Nếu không có lời chào, các qui tắc lịch sự, xã giao sẽ bị xâm phạm.
Lời chào còn có vai trò là phương tiện để định nghĩa và chứng nhận mức độ thân mật và thứ bậc của các đối tác giao tiếp. Lời chào thể hiện mối liên hệ xã hội của các đối tác giao tiếp ra bằng lời. Lời chào đầu quan trọng là vì chúng thể hiện sự nhận biết ban đầu giữa các đối tác giao tiếp. Ví dụ, ở công ty, một nhân viên sẽ đưa ra các lời chào khác nhau đối với các đối tượng giao tiếp khác nhau: Với sếp của mình, nhân viên đó chào “Good morning, director” Xin chào ngài! Vẫn nhân viên đó chào đồng nghiệp “Morning!“ Xin chào! Cách dùng khác nhau như vậy là thể hiện sự kính mến, tôn trọng hay thân thiện. Thông qua hành vi chào hỏi, người được chào có thể cảm thấy mình được đề cao, hạ thấp hay bị xúc phạm.
Một số lời chào lại được khắc họa rõ nét bởi môi trường xung quanh và đóng vai trò là phương tiện nhận biết. Giới thanh niên, các tổ chức và các nhóm nghề nghiệp sử dụng những dạng thức chào hỏi riêng. Bằng việc vận dụng những dạng thức chào hỏi này có thể cho thấy các đối tượng giao tiếp thuộc về một nhóm nhất định hoặc cho thấy sự tăng cường cảm giác đoàn kết.
Lời chào thường sở hữu chức năng biểu cảm, giá trị biểu cảm được thể hiện nhờ cách nhấn giọng và cảm thán, ví dụ "A! Xin chào!" hoặc "Ô! Xin chào!".
2.4 Các tiêu chí lựa chọn lời chào
Như trên đã đề cập, lời chào thể hiện mối liên hệ xã hội của đối tác giao tiếp ra bằng lời. Việc hiểu, tiếp nhận và sử dụng được các lời chào hỏi một cách phù hợp và có chủ đích là điều không dễ dàng. Nhiều yếu tố đã gián tiếp và/hoặc là trực tiếp tham gia vào việc lựa chọn một lời chào để thiết lập, duy trì hay kết thúc một tương tác giao tiếp.
2.4.1 Tương tác xã hội
Việc lựa chọn một dạng thức chào hỏi nhất định liên quan tới việc liệu mối liên hệ xã hội có chặt chẽ hay không, khoảng cách giữa các đối tác chào hỏi lớn hay nhỏ. Quan hệ vị thế trong xã hội là quan hệ ứng xử xã hội theo một tôn ti trật tự có thứ bậc trên - dưới, cao - thấp. Trong cộng đồng người Việt, tương tác xã hội đóng vai trò quan trọng, chi phối sự lựa chọn một lời chào khi gặp mặt và khi chia tay, đồng thời chỉ rõ mức độ thân mật và thiện cảm giữa những người chào hỏi nhau.
2.4.2 Hoàn cảnh giao tiếp
Hoàn cảnh giao tiếp là toàn bộ những nhân tố xã hội, ngôn ngữ liên quan tới chủ thể giao tiếp và đối tượng giao tiếp, đồng thời gắn liền với cấu trúc ngôn từ của một tương tác giao tiếp.
Các phát ngôn chào hỏi được dùng khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau với những ý nghĩa không giống nhau và không hoán đổi cho nhau, không dùng thay thế nhau.
Tùy thuộc ngữ cảnh cụ thể, lời chào còn có thể diễn tả một niềm vui, sự mỉa mai, thiện cảm hay ác cảm...
2.4.3 Thời gian
Trong tiếng Anh, các lời chào gặp mặt phân biệt nhau về thời gian. Theo đó có "Good morning!" Chào buổi sáng, "Good afternoon!" Chào buổi chiều! và "Good evening!" Chào buổi tối!, được lựa chọn phù hợp với thời gian xảy ra giao tiếp.
2.4.4 Chiến lược giao tiếp
Chiến lược giao tiếp là phương châm và biện pháp sử dụng các hành vi ngôn ngữ trong giao tiếp, làm cho cuộc giao tiếp diễn ra thuận lợi, dễ chịu, theo trình tự nhất định và đem lại hiệu quả mà giao tiếp đặt ra.
Thứ nhất: Theo cách hiểu như trên, chiến lược giao tiếp là giúp chọn mô hình chào hỏi và cách xưng hô nào là phù hợp. Trong tiếng Việt, dành cho ngôi thứ hai trực diện có vô vàn nhiều cách xưng hô cần lựa chọn mà nếu lựa chọn được một từ xưng hay hô gọi phù hợp sẽ thiết lập được mối quan hệ hay gây được thiện cảm cho cuộc giao tiếp tiếp theo đó. Vì chọn một từ xưng hô phù hợp là chọn một phương tiện thể hiện lịch sự có chủ đích.
Thứ hai: Muốn chọn được cách xưng hô phù hợp, người tham gia giao tiếp phải xác định được chính xác vị thế của mình và của đối tượng giao tiếp. Hành vi chào hỏi hướng tới một đối tượng giao tiếp có tuổi tác, địa vị xã hội, trình độ học vấn... được xác định một cách chính xác, được nắm bắt một cách tinh tế, được diễn tả một cách lịch sự theo một chiến lược giao tiếp có chủ đích.
"Lịch sự là bất cứ loại hành vi nào (cả ngôn từ và phi ngôn từ) được sử dụng một cách có chủ đích và phù hợp để làm cho người khác cảm thấy tốt hơn hoặc ít tồi tệ hơn."
(Nguyễn Quang 2004: 11)
Thứ ba: Lối hay cách xưng hô luôn được điều chỉnh trong từng hoàn cảnh giao tiếp khác nhau hay ngay trong các lượt lời của cùng một tương tác giao tiếp. Điều này, một mặt chịu sự chi phối của giới tính, tuổi tác, địa vị..., mặt khác nó phản ánh chiến lược giao tiếp nhằm phục vụ cho mục đích giao tiếp nhất định.
CHƯƠNG III: ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA - NGÔN NGỮ CỦA HÀNH VI CHÀO HỎI TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
3.1 Hành vi chào hỏi trong tiếng Anh
Trong Tiếng Anh, có một vài cách chào có tính công thức được sử dụng thường xuyên trong những hoàn cảnh không nghi thức ví dụ như “Hi” + (first name) và “Hello” + (first name). Ngoài ra, mọi người thường chào nhau dựa vào thời điểm thực hiện lời chào.
Morning
Good morning + (title/ first name)
Morning
From midnight to midday
- Good morning, Mr Tom
- Mornin’ Jerry
Afternoon
Good afternoon + (title/ first name)
Afternoon
After midday until 5 p.m
- Good afternoon, professor Mike
- Afternoon Mary
Evening
Good evening + (title/ first name)
Evening
After 5 p.m untl people have gone to sleep
- Good evening, Ms Catherine
- Evenin’ Jones
Trong cuốn “Evaluation of Greeting Exchanges in Textbooks and Real Life Settings”, Williams (2001) có chia lời chào ra thành 2 loại: (1) lời chào đối xứng (a mirrored greeting) – lời chào đáp lại giống với lời chào khởi xướng, (2) lời chào và câu đáp lại trong đó câu đáp lại là 1 câu hỏi.
A: Hi
B: Hi
A: Good morning.
B: How are you?
Trong nghiên cứu của Eisentein và Bodman (1988), họ nhận thấy người giao tiếp không phải lúc nào cũng sử dụng những lời chào theo như công thức ở trên đã đề cập. Kết quả của nghiên cứu cho thấy chào hỏi có thể được phân chia thành 8 loại chiến lược như sau:
3.1.1 Chào lướt (Greetings on the run)
Loại thứ nhất được sử dụng phổ biến giữa những người Mỹ quen biết hoặc có mối quan hệ thân thiết đó là “vừa đi vừa chào” (greeting on the run). Đây là tình huống hai người gặp nhau và trao đổi vắn tắt.
Hi, how ya doin’? (Chào, mọi việc thế nào?)
Hi! Gotta run, I’m late for class. (Chào! Phải đi đây, tôi muộn học mất rồi)
3.1.2 Chào nhanh (Speedy greeting)
Loại thứ hai thực hiện trong tình huống mà lời chào được bắt đầu và kết thúc một cách đường đột, và được gọi là “chào nhanh” (speedy greeting). Cách chào của nhóm này khác với nhóm vừa chào vừa đi về thông tin được trao đổi. Đây là kiểu chào hỏi thường được thực hiện giữa những người đồng nghiệp.
Hi, how’ve you been? (Chào, anh dạo này thế nào?)
Not bad. ‘N you (Tạm ổn, còn anh?)
Oh, quite busy (Ồ, cũng khá bận)
I know. Me too. (Tôi hiểu, tôi cũng vậy mà.)
Oh well, gotta take off. See ya (Ồ…đi nhé. Hẹn gặp lại)
Bye, take care (Ừ chào, bảo trọng).
3.1.3 Thăm hỏi (The chat)
Loại thứ ba được gọi là “thăm hỏi” (the chat). Chào hỏi trong tình huống này thường bắt đầu giống như “chào nhanh” (speedy greeting) nhưng kèm theo đó là thảo luận về một, hai chủ đề nào đó trước khi hai người chia tay hoặc có khi mục đích của cuộc trò chuyện chỉ là để khoe, hoặc nói về một điều gì đó.
A: Good morning (Chào buổi sáng)
B: Hello (Chào)
A: Did you watch the football match yesterday. I missed it. (Cậu có xem trận đấu hôm qua không. Mình bỏ lỡ.)
B: What a pity! MU played well. They won. (Ồ tiếc thế, MU chơi tuyệt lắm. Họ đã thắng.)
3.1.4 Chào hỏi dài (The long greeting)
Loại chào hỏi thứ tư được gọi là “chào hỏi dài” (long greeting). Kiểu chào hỏi này thường bao gồm việc hâm nóng lại mối quan hệ giữa hai người sau một thời gian dài không gặp nhau. Tình huống này thường bao gồm nhiều hành động chào hỏi xen kẽ với những lời kể về các sự kiện xảy ra trong khi hai người không gặp nhau. Loại chào hỏi thứ tư rất đa dạng và tiềm ẩn nhiều đặc trưng văn hóa.
A: Mary! (Mary!)
B: Catherine! (Catherine!)
A: Long time no see! (Lâu rồi không gặp)
B: Yes, too long. Where’ve you been? (Ừ, quá lâu rồi. cậu đã ở đâu thời gian qua thế?)
A: Well, I had the project in Japan and stayed there one year. I’ve just come back last week. (Ừ, mình có dự án bên Nhật Bản và đã ở đó 1 năm. Mình vừa mới trở về tuần trước.)
B: Really? You must have a lot of things to tell! (Thật hả? Vậy thì hẳn cậu phải có nhiều điều để kể lắm)
A: Yeah, that’s an interesting experience for me. I’ve learned lot of new things and met many lovely friends… (Ừ, đó là một trải nghiệm thú vị với tớ. Tớ đã học hỏi được rất nhiều thứ và gặp gỡ được khá nhiều những người bạn dễ thương…)
3.1.5 Chào hỏi thân mật (The intimate greeting)
Loại chào hỏi thứ năm xuất hiện trong tình huống hai người biết nhau và thường xuyên có sự trao đổi với nhau được gọi là “chào hỏi thân mật” (intimate greeting). Trong tình huống này hai người biết quá rõ về nhau nên họ đã sử dụng rất nhiều thông tin được hàm ngôn, không diễn đạt bằng lời. Đôi khi, trong tình huống này bản thân lời chào bị tỉnh lược chỉ còn lại những cử chỉ phi lời.
Ví dụ: người chồng bước vào, hôn vợ và nói “Well?” (Thế nào?). Người vợ đáp: “Yes” (Vâng). Người chồng mỉm cười và nói: “