Tiểu luận Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngặt trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam

Khi nói đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chúng ta không thể không kể đến bối cảnh lịch sử lúc đó - đầu thế kỷ XX. Thời gian này , thế giới và Việt Nam đã có nhiều chuyển biến hết sức quan trọng. Trên thế giới , chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa , nhiều quốc gia dân tọc bị đế quốc xâm lược và thỗng trị. Mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đễ quốc ngày càng gay gắt ; điều đó là cho giải phóng dân tộc trở thành một yêu cầu mới mang tính thời đại. Thêm vào đó lúc này phong trào cách mạng vô sản trên thế giới cúng đang phát triển lớn mạnh một cách vượt bậc, đặc biệt là cuộc đại cách mạng vô sản tháng 10 Nga năm 1917 đã là một tiếng chuông lớn đánh thức các dân tộc đang bị áp bức bóc lột đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Dưới sự ảnh hưởng nói trên , Đảng Cộng sản được thành lậo ở nhiều nơi, thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới tiến lên mạnh mẽ. Tháng 3-1919, Đệ tam quốc tế (Quốc Tế cộng sản) được thành lập - đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào cách mạng thế giới. Chính hoàn cảnh thế giới như lúc này đã phát huy ảnh hưởng thuận lợi đến phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam. Tại Việt Nam, để khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề do hậu quả của chiến tranh thế giới thứ nhất , đế quốc Pháp ra sức bóc lột nhân dân lao động trong nước và các dân tộc thuộc địa trong đó có Việt Nam

doc25 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 16580 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngặt trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1 : Mở Đầu Bác Hồ đã từng nói “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam ” , và một trong những tranh lịch sử oai hùng của dân tộc ta chính là Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam gắn với 2 cuộc kháng chiến thần kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng xã hội chủ nghĩa . Giờ đây với mỗi người dân Việt Nam, việc học tập nghiên cứu lịch sử Đảng để biết được những chặng đường gian khổ mà cách mạng đã đi qua, và những chiến thắng oanh liệt mà dân tộc ta đã đạt được là những điều không thể thiếu. Và càng cần thiết hơn với thế hệ trẻ, vì học tập lịch sử Đảng không chỉ là tiếp thu kiến thức, tìm hiểu lịch sử, mà môn học này còn cho ta thấy trách nhiệm của mỗi cá nhân trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường mà Đảng và Bác đã lựa chon. Để nhận thức rõ hơn về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, bài tiểu luận của nhóm em đưa ra và giải quyết vấn đề “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam” . Chúng em làm bài tiểu luận này với mong muốn củng cổ thêm kiến thức cho chính bản thân mình, và nếu có thể bài tiểu luận này sẽ giúp đỡ các bạn sinh viên trong quá trình học tập và nghiên cứ môn học đầy lý thú này. Nhưng do chưa được tiếp xúc với nhiều tài liệu tham khảo, và với trình độ có hạn nên bài tiểu luận này không tránh khỏi có các thiếu sót và hạn chế. Do vậy chúng em rất mong có được sự giúp đỡ, bổ xung, đóng góp ý kiến từ phía các thầy và các bạn để làm cho bài tiểu luận trở lên chất lượng hơn, thuyết phục hơn. Qua đây, nhóm 7 cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Giáo viên hướng dẫn bộ môn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cùng môi trường đào tạo Trường Đại Học Công Nghiệp đã giúp đỡ chúng em rất nhiều trong việc hoàn thành bài tiểu luận này Phần 2:Bối cảnh lịch sử Ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam Khi nói đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chúng ta không thể không kể đến bối cảnh lịch sử lúc đó - đầu thế kỷ XX. Thời gian này , thế giới và Việt Nam đã có nhiều chuyển biến hết sức quan trọng. Trên thế giới , chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa , nhiều quốc gia dân tọc bị đế quốc xâm lược và thỗng trị. Mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đễ quốc ngày càng gay gắt ; điều đó là cho giải phóng dân tộc trở thành một yêu cầu mới mang tính thời đại. Thêm vào đó lúc này phong trào cách mạng vô sản trên thế giới cúng đang phát triển lớn mạnh một cách vượt bậc, đặc biệt là cuộc đại cách mạng vô sản tháng 10 Nga năm 1917 đã là một tiếng chuông lớn đánh thức các dân tộc đang bị áp bức bóc lột đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Dưới sự ảnh hưởng nói trên , Đảng Cộng sản được thành lậo ở nhiều nơi, thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới tiến lên mạnh mẽ. Tháng 3-1919, Đệ tam quốc tế (Quốc Tế cộng sản) được thành lập - đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào cách mạng thế giới. Chính hoàn cảnh thế giới như lúc này đã phát huy ảnh hưởng thuận lợi đến phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam. Tại Việt Nam, để khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề do hậu quả của chiến tranh thế giới thứ nhất , đế quốc Pháp ra sức bóc lột nhân dân lao động trong nước và các dân tộc thuộc địa trong đó có Việt Nam Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng , việc cướp đoạt ruộng đất để mở đồn điền là một trong những thủ đoạn bóc lột tàn bạo nhất của thực dân Pháp (từ năm 1920 đến 1929, đồn điền cao su đã tăng lên khoảng 14 lần, gần 100.000 ha). Đi đôi vói việc khai thác nông nghiệp , tư bản Pháp còn đẩu mạnh việc chiếm đoạt hầm mỏ, đặc biệt là than và chủ yếu là dành cho việc xuất khẩu. Ngoài ra Pháp còn tăng cường bóc lột bằng thuế khoá. Do những biến chuyển này, nền kinh tế Việt Nam từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất dần dần thay đổi , tính chất thuộc địa , nửa phong kiến và sự phụ thuộc kinh tế Việt Nam voà kinh tế của đế quốc Pháp càng rõ ràng hơn. Và cũng do những biến chuyển này : đã khiến cho giai cấp công nhân phát triển nhanh (tăng hơn 5 lần công nhân ngành mỏ, tăng hơn 20 lần công nhân đồn điền … so với trước chiến tranh, đế năm 1929 có 22 vạn công nhân trên khắp cả nước). Tầng lớp công nhân trong xã hội lúc đó bị đối xử vô cùng khổ cực: bị ba tầng áp bức bóc lột (đế quốc, phong kiến, tư sản người Việt Nam), họ phải làm việc trong những điều kiện cực khổ với thời gian từ 16h đến 18h một ngày (nhà máy dệt Nam Định (1924)) , lương công nhân rất thấp so với giá sinh hoạt (70% lương dành cho mua thực phẩm) hơn nữa công nhân còn bị cắt xén lương. Ngoài làm việc cực nhọc, tiền lương chết đói, công nhân còn bị đánh đập, giam cầm trong các nhà tù riêng của bọn chủ thực dân. Đặc biệt hơn là giai cấp công nhân Việt Nam ngay từ khi mới ra đời đã tiếp thu ảnh hưởng của phong trào cách mạng thế giới sau chiến tranh , nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng tháng 10 Nga. Do đó giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành một lực lượng chính trị độc lập, đi đầu trên mặt trận chống đế quốc và phong kiến ở nước ta. 90% dân số nước ta là nông dân, và phần lớn là họ không có một chút đất nào, họ phải đi là thuê, bị đế quốc phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề; bị bần cùng hoá không còn lối thoát và giờ đây việc lo đóng thuế trở thành một nỗi kinh hoàng đối với nông dân. Đây là lực lượng hăng hái và đông đảo nhất của cách mạng . Sau chiến tranh giai cấp tư sản Việt Nam cũng đông hẳn lên và phân hoá thành hai bộ phận: tầng lớp tư sản mại bản (có quyền lợi gắn liền với đế quốc, câu kết chặt chẽ về chính trị với đế quốc) và tầng lớp tư sản dân tộc có tinh thần dân tộc , dân chủ cao. Trong đó đặc biệt phải kể đến hàng ngũ tiểu tư sản phát triển mạnh với tầng lớp trí thức, viên chức, học sinh, thợ thủ công, dân nghèo thành thị. Tầng lớp này cũng bị đế quốc, phong kiến bóc lột khiến cho đời sống của họ lại càng trở lên khó khăn bấp bênh hơn bao giờ hết. Họ chính là tầng lớp thấm thía nhất với “cái nhục” mất nước, đặc biệt là giới trí thức, học sinh, sinh viên; họ đóng vai trò truyền bá nhứng tư tưởng tiến bộ trong nhân dân , trở thành ngòi pháo trong các phong trào cách mạng ở đô thị. Và đặc biệt hơn, khi đã được tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin họ trở thành một lực lượng quan trọng của cách mạng - là một trong những thành phần nòng cốt không thể thiếu được của cách mạng. Giai cấp phong kiến cũ được đế quốc Pháp dung dướng trở thành tay sai đắc lực cho đế quốc trong việc bóc lột nhân dân. Những yếu tố ở trên đã cho ta thấy một đất nước Việt Nam – một xã hội thuộc địa nửa phong kiến với đặc trưng là sự cấu kết rất chặt chẽ giữa chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phong kiến để thống trị và đà áp, bóc lột nhân dân Việt Nam , đưa nhân dân Việt Nam đến bước đường cùng mất hết tự do dân chủ, xã hội Việt Nam bị kìm hãm không có cơ hội phát triển. Việc này đã đưa đến hai mâu thuẫn cơ bản : Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân Pháp xâm lược và áp bức Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam , chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến Tuy nhiên do chính sách thống trị của đế quốc, thực dân mà mâu thuẫn đó có sự vận động và chuyển hoá thành mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và bọn tay sai và để giải quyết mâu thuẫn này đấu tranh giành độc lập dân tộc được coi là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam . Phần 3: quá trình chuẩn bị và đi tới việc ra đời Đảng cộng sản Việt Nam Nói đến sự ra đời của Đảng, ta không thể không nói đến một người mà nếu như không có người đó sẽ không có Đảng , không có đất nước ta ngày hôm nay. Đó là người mà nhân dân ta vẫn kính yêu gọi với cái tên Bác Hồ - đó chính là Nguyến Tất Thành. “Người rất kính trọng, khâm phục các vị tiền bối yêu nước , nhưng không đi theo con đường trước đó. Vượt qua những hạn chế của các nhà yêu nước đương thời, Người đã có tinh thần chủ động và sáng tạo trong việc lựa chọn con đường cứu nước phù hợp với yêu cầu thực tế của dân tộc và xu thế phát triển của thời đại.” (Trích Đề cương bài giảng Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam - Đoàn Văn Đức) Ngày 5-6-1911, từ cảng Nhà Rồng, người từ giã nước nhà, hoà mình vào cuộc sống lao động, đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động khắp thế giới để tìm đường cứu nước. Tại Pháp , người tham gia Hội những người Việt Nam yêu nước và sớm trở thành người lãnh đạo chủ yếu của hội. Năm 1919, đế quốc thắng lợi trong chiến tranh thế giới thứ nhất đã ở Véc-xây (Pháp), với cái tên Nguyến ái Quốc, người đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước, gửi tới Hội nghị bản yêu sách đòi chính phủ Pháp thừa nhận quyền độc lập tự do, bình đẳng, dân chủ của nhân dân Việt Nam. Nhưng bản yêu sách đó không hề được đáp lại, có chăng chỉ là sự phòng ngừa theo dõi, đối phó từ phía chính phủ Pháp. Từ đó người nhận ra một chân lý rằng: các dân tộc muốn được tự do, trước hết phải dựa vào lực lượng của chính mình, phải tự giải phóng lấy mình. Sau bao năm tháng bôn ba trên đất người ấy, cuối cùng cái mà Người cần tìm cuối cùng đã thấy. Tháng 7 năm 1920 Nguyến ái Quốc được đọc bản “sơ thảo đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và Người đã thốt lên: “đây là cái cần cho chúng ta, đây là con đường của giải phóng chúng ta” . Từ đó Người bắt đầu đi sâu tìmh hiểu về chủ nghĩa vô sản. Như vậy, Nguyến ái Quốc đã biến mình từ một người yêu nước chân chính đã thành một người cộng sản, từ một chiến sỹ giải phóng dân tộc chưa có khuynh hướng rõ ràng trở thành một chiến sỹ giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa cộng sản. Từ đây, người bắt đầu chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập một chính đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin của giai cấp công nhân ở Việt Nam với 3 mục tiêu : Về tư tưởng: phải làm cho nhân dân Việt Nam nhất là giai cấp công nhân tiếp thu được chủ nghĩa Mác-Lênin Về chính trị: xác định rõ đường lối đấu tranh cách mạng trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam đó là Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội Về tổ chức: rèn luyện, xây dựng một đội ngũ , một tổ chức của những người cách mạng tiên phong trung thành với dân tộc và quần chúng lao động, có tri thức cách mạng sâu sắc và có bản lính cách mạng kiên cường. Với những mục tiêu trên năm 1922, ngưới sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, ra báo “Le Paria” (Người Cùng Khổ) năm 1922. Năm 1924, Người đi dự đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V. Ngoài ra , người còn tham gia viết bài cho nhiều báo nhằm lên án chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam đặc biệt là tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Cuối năm 1924, Nguyến ái Quốc tập hợp các thanh niên yêu nước tại Quảng Châu (TQ) thành lập một tổ chức cách mạng mới là Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (tháng 6-1924). Đây chính là tổ chức cách mạng đầu tiên của Việt Nam được tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin từ các bài giảng của người. Những hoạt động trên chứng tỏ một điều Người tiếp thu và truyền bá được chủ nghĩa Mác-Lênin về nước. Trong thời gian này, Thanh niên cách mạng đồng chí hội còn có các tổ chức khác như Tân Việt, Việt Nam quốc dân Đảng. Từ khi có những tổ chức cách mạng mới ra đời, phong trào cách mạng trong nước sôi nổi hẳn lên. Với nhiều hoạt động đấu tranh, bãi công… dưới sự lãnh đạo của Thanh niên cách mạng đồng chí hội và Tân Việt, công nhân liên tục vùng dậy. Cho đến cuối năm 1929, ở Việt Nam cùng một lúc có ba tổ chức cộng sản hoạt động (Đông Dương cộng sản đảng (17-6-1929), An Nam cộng sản đảng (7-1929) và Đông Dương cộng sản liên đoàn (9-1929)) , tình hình đó làm cho quần chúng không biết theo sự lánh đạo của tổ chức nào. Vì vậy, vấn đề hợp nhất hay để cho các tổ chức này hoạt động riêng rẽ được đặt ra.  Nhà số 13 đường Văn Minh (Quảng Châu - Trung Quốc) một trong những nơi  Tổng bộ Hội VNTNCM mở các lớp huấn luyện chính trị, từ năm 1925 đến 1927  Trong lúc này, trên thế giới đang diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản (1929 – 1933). Cuộc khủng hoảng này làm cho nhân dân lao động càng thêm khốn khổ, mâu thuẫn ở các nước thuộc địa càng trở lên gay gắt. Trước yêu cầu khác quan của cách mạng , các tổ chức cộng sản phải hợp nhất để đủ sức lãnh đạo cuộc đấu tranh. Hơn nữa, sau khi ra đời, ba tổ chức này lại nảy sinh những mâu thuẫn như tranh giành đảng viên, tranh giành quần chúng, thậm chí còn bài xích lẫn nhau. Tình hình càng kéo dài , càng bất lợi cho cách mạng. Được sự uỷ nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyến ái Quốc Triệu tập một hội nghị gồm đại biểu các tổ chức cộng sản trong nước để bàn về việc hợp nhất một Đảng. Hội nghị diễn ra từ 3 đến 7 tháng 2 năm 1930 và đi đến việc hợp nhất vì cả ba tổ chức cộng sản đều cùng chung mục đích đấu tranh cách mạng , chống một kẻ thù chung, giành độc lập và đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngày 3-3-1930, Đảng đã ra đời , lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam . Hội nghị hợp nhất có ý nghĩa lịch sử được xem là Đại hội thành lập Đảng, đánh dấu một bước mới trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam .  Phần 4:Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng Cộng sản Việt Nam Sự đúng đắn và sáng tạo 3-2-1930, dưới sự chủ trì của Nguyến ái Quốc, Hội nghị đã hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành một chính Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời hội nghị cũng đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyến ái Quốc soạn thảo, đây cũng chính là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam . Cương lĩnh đó vạch ra đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam , là ngọn cờ đoàn kết toàn Đảng , toàn dân đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng người lao động , giải phóng xã hội Việt Nam. Cương lĩnh gồm 5 nội dung cơ bản : Về đường lối chiến lược chung, Đảng chủ trương làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản” Nhiệm vụ của “cách mạng tư sản dân quyền” ở nước ta, Đảng chủ trương đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến tay sai, làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập ; lập ra chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và phong kiến tay sai chia cho dân cày nghèo, thực hiện từng bước kẩu hiệu “người cày có ruộng” ; dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền … Về lực lượng cách mạng , Đảng chủ tương phải vận động thu phục cho được đông đảo quần chúng nhân dân trước hết là công nhân và nông dân , đồng thời phải tranh thủ đoàn kết với các lực lượng khác như tiểu tư sản , thí thức. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải tranh thủ hoặc trung lập. Xác định công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua chính đảng Mác-Lênin. Về đoàn kết quốc tế, phải liên kết với các dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp công nhân Pháp Về vai trò của Đảng , cương lĩnh xác định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng nên phải thường xuyên xây dựng Đảng vững mạnh. (Trích Đề cương bài giảng lích sử Đảng Cộng sản Việt Nam Đoàn Văn Đức – Khoa CNTH – Viện ĐH Mở) Trên là nội dung của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, nhưng để thấy rõ đúng đắn và sáng tạo của cương lĩnh này chúng ta cần xét thêm luận cương chính trị năm 1930 Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng đang lên, hội nghị trung ương Đảng lần thứ nhất họp tại Hương Cảng (tháng 10-1930) đã quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bầu Trần Phú làm Tổng bí thư và thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương. Luận cương nêu rõ: tính chất cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng dự bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa . Sau cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi thì bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội . Nhiệm vụ của cách mạng là đánh đỏ ách thống trị của chế độ phong kiến và chủ nghĩa đế quốc Pháp . Mục tiêu cách mạng là làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập, dựng lên chính phủ công nông. Lực lượng cách mạng là công nhân và nông dân. Công nông là hai động lực chính. Vai trò lãnh đạo là Đảng Cộng sản Đông Dương . Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Đông Dương . Cách mạng Đông Dương đoàn kết với cách mạng vô sản thế giới Đảng lãnh đạo quần chúng đấu tranh đò quyền lợi trước mắt rồi đưa dần quần chúng lên trận tuyến cách mạng; khi tình thế cách mạng xuất hiện thì phát động quần chúng võ trang bạo động, đánh đổ chính quyền của giai cấp thỗng trị, giành chính quyền cho công nông. Báo "Thanh Niên", cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng do Nguyễn Ái Quốc sáng lập tại Quảng Châu (Trung Quốc), số ra ngày 3-10-1926 Đó là những mặt chiến lược mà Luận cương chính trị đã xác định được. Nhưng cũng bộc lộ những nhược điểm và hạn chế như: chưa vạch rõ được mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa nên không nêu cao vấn đề dân tộc lên hàng đầu (trong lúc nêu cao vấn đề đấu tranh giai cấp , vấn đề cách mạng ruộng đất). Đánh giá không đúng khả năng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản và khả năng liên minh có điều kiện với giai cấp tư sản dân tộc . Không thấy được khả năng phân hoá và lôi kéo một bộ phận giai cấp địa chủ trong cách mạng giải phóng dân tộc . Đó là những nhược điểm mang tính “tả khuynh” , giáo điều. (Trích Tài liệu chuẩn kiến thức lịch sử 12 Bộ Giáo Dục và Đào Tạo) Thông qua đối chiếu từng điểm chủ yếu trong nội dung cương lĩnh chính trị với Luận cương chính trị 1930, ta thấy được rằng chính những nhược điểm, hạn chế của Luận cương chính trị đã được “khắc chế” một cách hết sức đúng đắn, khoa học và sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Bác soạn thảo. Đây cũng chính là điểm sáng tạo của cương lĩnh chính trị đầu tiên. Nhờ sự đúng đắn, khoa học và sáng tạo, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam có một ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn với cách mạng Việt Nam lúc đó và cả sau này: Lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị tuy rất ngắn gọn nhưng phản ánh tương đối đầy đủ những quy luật vận động và phát triển nội tại, khách quan của xã hội Việt Nam , đáp ứng được những yêu cầu cơ bản và cấp bách của nhân dân ta, đồng thờ phù hợp với xu thế phát triển của thời đại lịch sử mới. Chính vì thế, chính cương sách lược vắn tắt đã trơt thành ngọn cờ đoàn kết toàn Đảng , toàn dân; là vũ khí chiến đấu sắc bén của những người Cộng sản Việt Nam trước mọi ket thù; là cớ sở cho các đường lối chủ trương của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua và là nhân tố quan trọng để chỉ đường cho nhân dân ta đạt nhiều thành tựu to lớn. Chính cương sách lược vắn tắt cũng thể hiện sự nhận thức và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của những người Cộng sản Việt Nam, chứng tỏ rằng ngay từ khi mới ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã độc lập và sáng tạo. (Trích Giáo trình lích sử Đảng Cộng sản Việt Nam – Khoa triết Mac Lenin - Trường Đại Học Công NghiệpTP >HCM ) Phần 5:ý nghĩa lịch sử việc thành lập Đảng Quy luật phổ biến và quy luật đặc thù ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam : Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3 tháng 2 năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới , đây cũng là kết quả của sự chuẩn bị đầy công phu và khoa học của lãnh tụ Nguyến ái Quốc trên cả 3 mặt trân chính trị, tư tưởng và tổ chức ; đồng thời Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3 tháng 2 năm 1930 đã đánh dấu một bước ngoặt trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam , chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc, mở ra một thời kỳ mới: thời kỳ cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản , sự nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng toàn xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội . Đây cũng là dấu chấm hết cho thời kỳ đấu tranh tự phát để chuyển sang thời kỳ đấu tranh tự giác của giai cấp công nhân. Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở đầu cho một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam, Đảng chính là nhân tố
Luận văn liên quan