Tiểu luận Đánh giá tác động đến tài nguyên môi trường đất do quá trình xâm nhập mặn tỉnh Sóc Trăng

Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm cho con người. Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con người. Tác động đến tài nguyên môi trường đất làm cho môi trường đất bị ô nhiễm chính là việc đưa vào môi trường đất các thành phần có hại đối với sự sống của cộng đồng và hệ sinh vật. Trong đó, có hai nguồn gây ô nhiễm chủ yếu là tự nhiên và nhân tạo, đối với tỉnh Sóc Trăng thì nguồn gây ô nhiễm tự nhiên đa số là do xâm nhập mặn chủ yếu từ nước biển và nhiễm phèn hoặc là do nước mưa lôi kéo các chất bẩn bề mặt thấm qua lớp đất. Do đó, việc “ Đánh giá tác động đến tài nguyên môi trường đất do quá trình xâm nhập mặn và ngập úng tỉnh Sóc Trăng” góp phần giúp tỉnh Sóc Trăng nhận định rõ hơn hiện trạng của môi trường đất do tác động quá trình xâm nhập mặn tại tỉnh, từ đó kịp thời đề ra những biện pháp hạn chế, khắc phục tình trạng trên.

doc17 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3234 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đánh giá tác động đến tài nguyên môi trường đất do quá trình xâm nhập mặn tỉnh Sóc Trăng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Đánh giá tác động đến tài nguyên môi trường đất do quá trình xâm nhập mặn tỉnh Sóc Trăng MỤC LỤC Trang TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm cho con người. Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con người. Tác động đến tài nguyên môi trường đất làm cho môi trường đất bị ô nhiễm chính là việc đưa vào môi trường đất các thành phần có hại đối với sự sống của cộng đồng và hệ sinh vật. Trong đó, có hai nguồn gây ô nhiễm chủ yếu là tự nhiên và nhân tạo, đối với tỉnh Sóc Trăng thì nguồn gây ô nhiễm tự nhiên đa số là do xâm nhập mặn chủ yếu từ nước biển và nhiễm phèn hoặc là do nước mưa lôi kéo các chất bẩn bề mặt thấm qua lớp đất... Do đó, việc “ Đánh giá tác động đến tài nguyên môi trường đất do quá trình xâm nhập mặn và ngập úng tỉnh Sóc Trăng” góp phần giúp tỉnh Sóc Trăng nhận định rõ hơn hiện trạng của môi trường đất do tác động quá trình xâm nhập mặn tại tỉnh, từ đó kịp thời đề ra những biện pháp hạn chế, khắc phục tình trạng trên. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN TỈNH SÓC TRĂNG I.1. ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN TỈNH SÓC TRĂNG I.1.1. Vị trí địa lý tỉnh Sóc Trăng Sóc Trăng là tỉnh ven biển nằm ở phía Nam cửa sông Hậu của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Diện tích tự nhiên 3.311,76 km2 xấp xỉ 1% diện tích của cả nước và 8,3% diện tích của khu vực ĐBSCL. Dân số trung bình năm 2008 có 1.295.064 người. Tỉnh hiện có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm thành phố Sóc Trăng và các huyện Châu Thành, Kế Sách, Mỹ Tú, Cù Lao Dung, Long Phú, Mỹ Xuyên, Ngã Năm, Thạnh Trị, Vĩnh Châu, Trần Đề (mới có quyết định thành lập từ cuối năm 2009), trong đó thành phố Sóc Trăng là trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa xã hội của tỉnh. Sóc Trăng có địa giới hành chính tiếp giáp 3 tỉnh trong vùng ĐBSCL: - Phía Tây – Bắc giáp tỉnh Hậu Giang. - Phía Đông – Bắc giáp tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long qua sông Hậu. - Phía Tây – Nam giáp tỉnh Bạc Liêu. - Phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông với chiều dài bờ biển 72 km. I.1.2. Đặc điểm địa hình, địa mạo tỉnh Sóc Trăng - Sóc Trăng có địa hình tương đối thấp và bằng phẳng, địa hình bao gồm phần đất bằng, xen kẽ những vùng trũng và các giồng cát. Toàn bộ tỉnh Sóc Trăng nằm trọng trong nửa phía Nam của vùng cửa sông Hậu, cao độ biến thiên không lớn, chỉ từ 0,2 – 2m so với mực nước biển, vùng nội đồng cao độ trung bình từ 0,5 – 1,0m. Địa hình của tỉnh có dạng hình lòng chảo thoải, hướng dốc chính từ sông Hậu thấp dần vào phía trong, từ biển Đông và kênh Quản lộ thấp dần vào đất liền với những giồng đất ven sông, biển. - Dựa vào địa hình có thể chia tỉnh Sóc Trăng thành 3 vùng như sau: - Vùng địa hình thấp, vùng trũng: Tập trung ở huyện Mỹ Tú, Châu Thành, Thạnh Trị, Ngã Năm và một phần phía Bắc huyện Mỹ Xuyên, thường bị ngập dài vào mùa mưa. - Vùng địa hình cao ven sông Hậu và ven biển, gồm các huyện Vĩnh Châu, Trần Đề, Long Phú, Cù Lao Dung, cao trình từ 1,2 – 2 m, giồng cát cao đến 2 m. - Vùng địa hình trung bình: gồm có thành phố Sóc Trăng và huyện Kế Sách. - Địa hình có cao độ thấp, bị phân cắt nhiều bởi hệ thống các sông rạch và kênh mương thủy lợi, lại tiếp giáp với biển cho nên dễ bị nước biển xâm nhập (nhiễm mặn). - Địa hình vùng biển ven biển ven bờ tỉnh Sóc Trăng có sự phân bậc rõ rệt ở 3 mức độ sâu: Độ sâu từ 0 – 10m nước: nhìn chung địa hình khá thoải và bằng phẳng. Khu vực cửa sông có địa hình khá phức tạp, thay đổi theo mùa do tương tác động lực sông biển, có nhiều cồn và doi cát ngầm đan xen với các luồng lạch. Độ sâu từ 10 – 20m nước: địa hình có dạng sườn dốc. Địa hình khu vực cửa sông (phía Đông Bắc) dốc hơn phía Tây Nam. Đây là giới hạn ngoài của khu vực lắng đọng trầm tích hiện đại và vì thế địa hình thường thay đổi theo thời gian. Độ sâu 20 – 30m nước: địa hình khá thoải và rộng, có nhiều sóng cát, một số khu vực phân bố các cồn ngầm thoải. I.1.3. Đặc điểm địa chất tỉnh Sóc Trăng Vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng được hình thành bởi các loại trầm tích nằm trên nền đá gốc Mezoic xuất hiện từ độ sâu gần mặt đất ở phía Bắc đồng bằng cho đến độ sâu khoảng 1.000m ở gần bờ biển. Các dạng trầm tích có thể chia thành các những tầng chính sau: - Tầng Holocene: nằm trên mặt thuộc loại trầm tích trẻ, bao gồm sét và cát. Thành phần hạt từ mịn tới trung bình. - Tầng Pleistocene: có chứa cát sỏi lẫn sét, bùn với trầm tích biển. - Tầng Pliocene: có chứa sét lẫn cát hạt trung bình. - Tầng Miocene: có chứa sét và cát hạt trung bình. I.1.4. Đặc điểm khí hậu tỉnh Sóc Trăng Khí hậu tỉnh Sóc Trăng có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo và chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11. Mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. - Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm 26,6°C (năm 2008). Nhiệt độ cao nhất trong năm vào tháng 4 (28,2°C) và nhiệt độ thấp nhất vào tháng 1 (25,4°C). - Nắng: Tổng lượng bức xạ trung bình trong năm tương đối cao, đạt 140 – 150 kcal/cm2. Tổng giờ nắng bình quân trong năm 2.292,7 giờ (khoảng 6,28 giờ/ngày), cao nhất thường vào tháng 3 là 282,3 giờ, thấp nhất thường vào tháng 9 là 141,5 giờ. - Mưa: Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.660 – 2.230mm, chênh lệch lớn theo mùa, mùa mưa chiếm 90% tổng lượng mưa, mùa khô rất ít, có tháng không mưa. - Độ ẩm: Độ ẩm trung bình cả năm là 84% (cao nhất 89% vào mùa mưa, thấp nhất 75% vào mùa khô). - Gió: nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, tỉnh Sóc Trăng có các hướng gió chính như sau: Tây, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam và gió được chia làm hai mùa rõ rệt là gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Mùa mưa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam là chủ yếu; còn mùa khô chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc là chủ yếu với tốc độ gió trung bình là 1,77m/s. - Các yếu tố khác: Tỉnh Sóc Trăng nằm trong khu vực rất ít gặp bão. Theo tài liệu về khí tượng thủy văn ghi nhận, trong 100 năm qua chỉ có 2 cơn bão đổ bộ vào Sóc Trăng (năm 1952, 1997) gây thiệt hại rất lớn. Những năm gần đây, lốc thường xảy ra ở Sóc Trăng. Lốc tuy nhỏ nhưng cũng gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân. I.1.5. Đặc điểm chế độ thủy văn, hải văn tỉnh Sóc Trăng Sông ngòi tỉnh Sóc Trăng đa phần thuộc vùng ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều, cao độ mực nước của hai đỉnh triều và hai chân triều không bằng nhau. Đỉnh triều cao nhất là 160 cm (vào tháng 10, 11), thấp nhất là 123 cm (vào tháng 5, 8), chân triều cao nhất là -24 cm (tháng 11), thấp nhất là -103 cm (tháng 6), biên độ triều trung bình từ 194 – 220 cm. Nguồn nước trên hệ thống sông rạch tỉnh Sóc Trăng là kết quả của sự pha trộn giữa lượng mưa tại chỗ, nước biển và nước thượng nguồn sông Hậu đổ về. Vì vậy, nước trên sông trong năm có thời gian bị nhiễm mặn vào mùa khô, vào mùa mưa nước sông được ngọt hóa có thể sử dụng cho tưới nông nghiệp. Phần sông rạch giáp biển thì bị nhiễm mặn quanh năm do đó không thể phục vụ tưới cho nông nghiệp, nhưng bù lại nguồn nước mặn, lợ ở đây lại tạo thuận lợi trong việc nuôi trồng thủy sản. I.2. TÀI NGUYÊN ĐẤT VÀ HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT TỈNH SÓC TRĂNG I.2.1. Tài nguyên đất đai Theo kết quả nghiên cứu cho thấy, đất Sóc Trăng gồm 6 nhóm chính: Bảng I.1: Thống kê các loại đất chính tỉnh Sóc Trăng TT Loại đất Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) Phân bố 1 Đất cát 8.491 2,65 dọc ven biển thuộc huyện Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên 2 Đất phù sa 6.372 2 tập trung ở các huyện Kế Sách, Mỹ Tú 3 Đất gley 1.076 0,33 các xã phía Bắc huyện Kế Sách 4 Đất mặn 158.547 49,5 tập trung với diện tích lớn ở các huyện Vĩnh Châu, Long Phú và Mỹ Xuyên 5 Đất phèn 75.823 23,7 tập trung thành diện tích lớn ở các huyện Mỹ Tú, Ngã Năm, Mỹ Xuyên và một phần ở Thạnh Trị, Vĩnh Châu 6 Đất nhân tác 46.146 21,82 tập trung nhiều nhất ở Kế Sách và Long Phú Nguồn: Quy hoạch phát triển KTXH tỉnh Sóc Trăng đến năm 2020, năm 2009 Đất đai trong tỉnh Sóc Trăng thuộc loại trầm tích hỗn hợp sông biển có hàm lượng sét cao, chứa nhiều chất hữu cơ. Do nằm trong vùng ảnh hưởng mặn, có nhiều vùng trũng, khó tiêu thoát, nên phần lớn đất đai bị nhiễm mặn và chua phèn. Diện tích đất mặn và phèn không những chỉ ảnh hưởng đến việc phát triển sản xuất nông nghiệp, mà còn ảnh hưởng đến nguồn nước sử dụng cho tưới cũng như cung cấp cho ăn uống và sinh hoạt (đất phèn hoạt động và đất phèn tiềm tàng là nguồn gốc gây ra nước chua), đặc biệt là thời kỳ đầu mùa mưa. I.2.2. Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Sóc Trăng Theo số liệu thống kê đã được các ngành chức năng và UBND các huyện, thành phố công nhận. Tính đến ngày 01/01/2010, hiện trạng sử dụng đất tại tỉnh Sóc Trăng như sau: Bảng I.2: Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Sóc Trăng năm 2010 STT Mục đích sử dụng Tổng số (ha) Cơ cấu (%) Tổng diện tích đất tự nhiên 331.117,97 100.00 1 Đất nông nghiệp 276.918,35 82,94 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 205.748 62,13 Trong đó 1.1 Đất lúa nước 144.590,90 43,67 1.2 Đất trồng cây lâu năm 43.074,96 13,01 1.3 Đất rừng phòng hộ 5.433,38 1,64 1.4 Đất rừng đặc dụng 264,55 0,08 1.5 Đất rừng sản xuất 54.519,70 1,51 1.6 Đất nuôi trồng thủy sản 5.013,99 16,47 Đất nuôi trồng thủy sản tập trung 48.000,00 14,50 2 Đất phi nông nghiệp 53.261,82 16,09 2.1 Đất xây dựng trụ sở, cơ quan, công trình sự nghiệp 169,31 0,05 2.2 Đất quốc phòng 482,58 0,15 2.3 Đất an ninh 164,09 0,05 2.4 Đất khu công nghiệp 443,38 0,13 2.5 Đất cho hoạt động khoáng sản - 0,00 2.6 Đất di tích, danh thắng 6,03 0,00 2.7 Đất để xử lý, chôn lấp chất thải nguy hại 58,62 0,02 2.8 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 395,69 0,12 2.9 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 611,14 0,18 2.10 Đất phát triển hạ tầng 21.403,10 6,46 3 Đất đô thị 28.360,29 8,57 4 Đất khu bảo tồn thiên nhiên 0.00 - 5 Đất khu du lịch 0.00 - Nguồn: báo cáo quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 I.3. TÌNH HÌNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU (BĐKH), CÁC HIỆN TƯỢNG BĐKH BẤT THƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SÓC TRĂNG TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY (2006 - 2010) I.3.1. Tổng quan về tình hình Biến đổi Khí hậu (BĐKH) trên thế giới và tại Việt Nam I.3.1.1. Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới Theo nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy nhiệt độ toàn cầu sẽ gia tăng từ 1,4°C đến 5,8°C từ 1990 đến 2100 và vì vậy sẽ kéo theo những nguy cơ ngày càng sâu sắc đối với chất lượng sống của con người. Những dữ liệu thu được qua vệ tinh từng năm cho thấy, số lượng các trận bão không thay đổi, nhưng số trận bão, lốc cường độ mạnh, sức tàn phá lớn đã tăng lên, đặc biệt ở Bắc Mỹ, tây nam Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, bắc Đại Tây Dương. Số lượng các trận bão lớn, lốc xoáy cường độ mạnh tăng gấp đôi, trùng hợp với nhiệt độ bề mặt đại dương tăng lên. Trận sóng thần ở Ấn Độ Dương (2004) cướp đi sinh mạng 225.000 người thuộc 11 quốc gia, hay cơn bão Katrina đổ bộ vào nước Mỹ (2005) gây thương vong lên đến hàng ngàn người và thiệt hại kinh tế ước tính 25 tỷ USD. Gần đây nhất “siêu bão” Nargis tại Myanmar (2008) là thảm họa thiên nhiên tàn khốc nhất năm qua tính theo số lượng người thiệt mạng. Một nghiên cứu với xác suất lên tới 90% cho thấy sẽ có ít nhất 3 tỷ người rơi vào cảnh thiếu lương thực vào năm 2100, do tình trạng ấm lên của Trái đất (www.climatechange-vn.com). I.3.1.2. Tình hình biến đổi khí hậu tại Việt Nam Trên thực tế, tại Việt Nam đã có những biểu hiện của BĐKH về các yếu tố khí hậu cơ bản (nhiệt độ, lượng mưa...) cũng như các yếu tố thời tiết (bão, mưa lớn, hạn hán...). Được biết trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình tại Việt Nam đã tăng 0,7°C, mực nước biển dâng 20 cm. Trong thời gian, cùng với tình hình chung của Thế giới, Việt Nam đã và đang chịu ảnh hưởng biến đổi khí hậu, thiên tai bão lụt hạn hán đã diễn ra với cường độ mạnh hơn trước. Theo kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt Nam do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố năm 2009, nhiệt độ trên tăng ít nhất 1,1 – 1,9°C, nhiều nhất 2,1 – 3,6°C, lượng mưa tăng ít nhất 1,0 – 5,2% và nhiều nhất từ 1,8 – 10,1%, mực nước biển dâng ít nhất 65cm, nhiều nhất 100cm so với trung bình thời kỳ 1980 – 1999. Tác động tiềm tàng BĐKH ở Việt Nam thể hiện trong tất cả các lĩnh vực chủ yếu: tài nguyên nước, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, năng lượng, giao thông vận tải, sức khỏe. I.3.2. Các hiện tượng BĐKH bất thường trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng trong những năm gầy đây Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng là vùng đất thấp ven biển của Việt Nam, đây là khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất do BĐKH gây ra. Trong những năm gần đây, trên địa bàn của tỉnh đã xuất hiện các hiện tượng BĐKH bất thường như: - Chế độ thủy văn bị ảnh hưởng. - Thay đổi chế độ ngập lụt, lũ lụt bất thường không theo quy định. - Diện tích ngập lụt mở rộng, mùa ngập lụt chuyển dịch và thay đổi. - Nhiệt độ không khí trung bình tăng, mùa hè dài hơn và ấm hơn. - Cường độ gió gia tăng mạnh. - Các hiện tượng chưa từng ảnh hưởng nặng như bão đã bắt đầu xuất hiện. - Mùa mưa có xu hướng thay đổi bất thường, cả về thời gian và cường độ mưa. - Hiện tượng xâm nhập mặn tại các lưu vực ngày càng diễn ra nghiêm trọng hơn. - Gây xói lở bờ biển nghiêm trọng. Thực tế tại tỉnh đã cho thấy, do ảnh hưởng của hiện tượng biến đổi khí hậu, quá trình xâm nhập mặn vào lục địa diễn ra ngày càng nghiêm trọng hơn. Cuối tháng 2 năm 2010, độ mặn đo được tại cảng Trần Đề (xã Trung Bình, huyện Long Phú) là 22,9‰, tại Đại Ngãi (huyện Long Phú) 3‰, tại xã Thạnh Phú (huyện Mỹ Xuyên) 4,6‰, tại TP.Sóc Trăng là 2,3‰. Cao gấp từ 2 đến 10 lần so với cùng kỳ năm 2009 và sâu vào đất liền có nơi đã đến 30km. Vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng do ảnh hưởng bởi chế độ chảy của sông Mêkông, triều cường của biển Đông, dòng hải lưu ven biển, gió chướng và hoạt động của sóng đã tạo ra một quá trình bồi lắng và xói lở liên tục dọc bờ biển. Quá trình xói lở xảy ra nghiêm trọng tại một số khu vực như Vĩnh Hải (8 – 15m/năm), Vĩnh Tân (40m/năm), Lai Hòa 20m/năm. Biến đổi khí hậu sẽ làm quá trình xói lở diễn ra ngày càng nghiêm trọng hơn khi tần suất và cường độ các trận sóng, các trận bão gia tăng cùng với sự gia tăng mực nước biển và khí hậu khắc nghiệt. Theo kịch bản biến đổi khí hậu, đến năm 2100, mực nước biển tại tỉnh Sóc Trăng có thể dâng thêm 1m do khí hậu ấm lên bởi khí thải nhà kính. Khi ấy 43,7% diện tích của tỉnh sẽ bị ngập nước, sẽ gây tác động đến hơn 450.000 người, tương đương 35% tổng dân số của tỉnh Sóc Trăng (theo ICEM 2008). Hình: Dự báo vùng ngập lũ và xâm nhập mặn do ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu (Nguồn: Theo bản đồ DEM (5 x 5 m) của Trung tâm Viễn thám Quốc gia, Bộ TN&MT) CHƯƠNG II ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG ĐẾN TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG ĐẤT DO QUÁ TRÌNH XÂM NHẬP MẶN VÀ NGẬP ÚNG TỈNH SÓC TRĂNG II.1. HIỆN TRẠNG XẢY RA XÂM NHẬP MẶN TỈNH SÓC TRĂNG Chế độ thủy triều của khu vực tỉnh Sóc Trăng thuộc dạng bán nhật triều không đều, với các đặc điểm chính: đỉnh triều cao, chân thấp, mực nước bình quân thiên về chân triều. Hầu hết dòng chảy trên các kênh rạch trong vùng là dòng chảy hai chiều, trong phần lớn thời gian trong năm. Do đặc điểm này, về mùa mưa, hiện tượng ngập úng xảy ra cho các vùng trũng của các huyện Thạnh Trị, Mỹ Tú, Ngã Năm, Mỹ Xuyên. Ngược lại về mùa khô, phần lớn diện tích của Tỉnh đều nằm trong vùng bị ảnh hưởng mặn (ranh giới mặn 1g/l thường ở An Lạc Thôn - Kế Sách). Do ảnh hưởng của 2 chế độ thủy triều và có nhiều cửa sông ăn thông ra biển, nên toàn bộ diện tích đất liền của tỉnh đều bị nhiễm mặn và chế độ truyền triều rất phức tạp. Từ khi chuyển đổi sản xuất sang nuôi tôm, nhiều cống đập được mở thông, làm cho quá trình truyền triều càng sâu vào đất liền. Bên cạnh đó, Sóc Trăng thuộc tiểu vùng cửa sông Cửu Long theo sông Hậu thì vào mùa kiệt, lượng nước ngọt từ thượng nguồn chảy về rất hạn chế. Mặt khác, do độ dốc lòng sông nhỏ, địa hình thấp tạo điều kiện nước mặn tiến sâu vào nội đồng. Trong mùa khô lượng dòng chảy nhỏ hơn, cộng với gió chướng thổi mạnh, liên tục nên tốc độ xâm nhập mặn vào nội đồng nhanh hơn dự báo. Đồng thời, mấy năm gần đây chuyển đổi cơ cấu sản xuất mạnh mẽ theo mô hình tôm - lúa đã làm cho môi trường đất, nước, nhất là sự xâm nhập mặn đang có những diễn biến phức tạp hơn. Độ xâm nhập mặn vào hệ thống sông ngòi, kênh rạch ở tỉnh Sóc Trăng đang có diễn biến bất thường và phức tạp từ năm này qua năm khác. Nồng độ mặn thay đổi theo đặc thù từng năm phụ thuộc vào lượng nước sông Mekong chảy vào cũng như các yếu tố khí tượng, thủy văn, thủy triều trên toàn vùng theo thời gian và tổng lượng. Biểu đồ: So sánh độ mặn cao nhất năm qua từng năm tại các vị trí đo Biểu đồ: So sánh độ mặn thấp nhất năm qua từng năm tại các vị trí đo Biểu đồ: Độ mặn trung bình năm qua từng năm tại các vị trí đo Nguồn: Đài khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ Tại vị trí đo qua từng năm cho thấy độ mặn cao nhất tại các trạm đo tăng (năm 2005) do trong giai đoạn này nước ta chịu ảnh hưởng xu thế hiện tượng thời tiết nóng trên toàn cầu đó là hiện tượng El Nino, thời điểm nắng nóng và khô hạn kéo dài, Độ mặn cao nhất của các năm 2006, 2007, 2008 và năm 2009 có diễn biến thất thường, luôn ở mức thấp hơn TBNN và thấp hơn cùng kỳ 2005, Đến năm 2010 do mùa mưa kết thúc sớm (cuối tháng 10) năm 2009, mực nước đầu nguồn sông Hậu tại Châu Đốc xuống nhanh và ở mức thấp hơn cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó gió Đông Bắc hoạt động khá mạnh và thủy triều vùng ven biển Đông ở mức cao nên từ đầu tháng 1/2010 đến nay mặn đã xâm nhập khá mạnh vào vùng cửa sông và đi sâu dần vào nội đồng, do ảnh hưởng của hiện tượng El-nino nên trong các tháng 2, 3, 4 và những ngày đầu tháng 5 thời tiết các nơi trong tỉnh tiếp tục khô hạn, mặn tiếp tục xâm nhập mạnh vào các sông rạch trong tỉnh và đạt mức cao nhất năm 2010 là: tại Đại Ngãi độ mặn cao nhất 11,6‰; tại Trần Đề 26,6‰; Long Phú 21,0‰; tại Thạnh Phú 16‰; và tại TP.Sóc Trăng 5,2‰; An Lạc Tây 2,8‰. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng đang đúng vào thời điểm toàn vùng đang phải đối mặt với hạn hán và mặn xâm nhập gay gắt. Hàng trăm ngàn hecta lúa đông xuân muộn của tỉnh đang ở vào giai đoạn trổ đòng đều có nguy cơ bị ảnh hưởng của nắng hạn. Nguyên nhân chính là do nguồn nước chính để tưới tiêu cho Sóc Trăng là sông Hậu, nhưng những dòng chảy trên toàn hệ thống sông Mekong đang ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm 10 - 20cm nên dòng chảy đổ ra cửa biển rất thấp, làm mặn xâm nhập sớm và lấn sâu vào đất liền gần 40km. Những ngày triều cường kết hợp với gió chướng thổi mạnh, mặn xâm nhập sâu đến 80km uy hiếp trà lúa đông xuân muộn và xuân hè vừa xuống giống. Biểu đồ : So sánh độ mặn năm 2010 và năm 2009 Nguồn: www.tuoitre.com.vn II.2. TÁC ĐỘNG ĐẾN TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG ĐẤT DO QUÁ TRÌNH XÂM NHẬP MẶN VÀ NGẬP ÚNG II.2.1. Tác động đến tài nguyên đất Đất vốn đã bị thoái hoá do quá lạm dụng phân vô cơ, hiện tượng khô hạn, rửa trôi do mưa tăng sẽ dẫn tới tình trạng thoái hoá đất trầm trọng hơn. Khu vực tỉnh Sóc Trăng có chế độ thủy triều thuộc dạng bán nhật triều không đều, với các đặc điểm chính: đỉnh triều cao, chân thấp, mực nước bình quân thiên về chân triều. Hầu hết dòng chảy trên các kênh rạch trong vùng là dòng chảy hai chiều, trong phần lớn thời gian trong năm nên dễ bị ảnh hưởng của xâm nhập mặn. Chính quá trình này làm cho chất lượng môi trường đất, tầng địa chất bị thay đổi theo chiều hướng tiêu cực cho sản xuất nông nghiệp. Đất đai bị bạc màu, đa dạng sinh học giảm mạnh. Diện tích đất bị xâm nhập mặn tăng, đất bị khô hạn, nhiễm phèn ngày càng tăng khi đó tương tác giữa môi trường nước với môi trường đất sẽ ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, năng xuất và hiệu quả cây trồng vật nuôi, khó khăn trong việc sản xuất lương thực. Tỉnh Sóc Trăng có 3 vùng sản xuất khá tốt là vùng mặn, vùng ngọt hóa và vùng ngọt. Hàng năm vào mùa khô, nước thượng nguồn giảm mạnh dẫn đến mặn từ biển lấn sâu vào nội đồng theo các nhánh kênh rạch, sông Hậu làm gia tăng xâm nhập mặn. Mặn vào sâu trong nội đồng hơn, thời gian mặn kéo dài và có những diễn biến phức tạp, tạo ra những khó khăn mà ngành nông nghiệp của tỉnh phải đối mặt. Khi đó, diện tích sản xuất của vùn