Tiểu luận Đạo đức nhà báo trong thời kỳ hội nhập hiện nay

Cùng với nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người, đạo đức đánh giá hành vi con người theo các chuẩn mực và các giá trị như thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, đúng và sai, cái phải làm và cái không được làm, cái nên làm và cái không nên làm Về mặt xã hội, đạo đức được biểu hiện bằng thái độ cụ thể của dư luận xã hội. Về mặt cá nhân, đạo đức được coi là “toà án lương tâm” có khả năng tự phê phán, đánh giá và suy xét từng hành vi, thái độ và ý nghĩ trong bản thân mỗi cá nhân. Xét về bản chất, sự điều chỉnh của đạo đức mang tính tự giác, là sự tự lựa chọn của mỗi người. Vì vậy, ngoài biểu hiện trong các quan hệ xã hội, đạo đức còn thể hiện trong thái độ, hành vi và sự tự ứng xử của bản thân mỗi con người. "Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy định hành vi của con người đối với nhau và đối với xã hội. Các nguyên tắc đạo đức giống như những chiếc máy điều chỉnh hành vi của con người, nhưng không mang tính chất cưỡng chế mà mang tính tự giác (.) Trên cơ sở lí tưởng và trách nhiệm đạo đức đã hình thành nên quan niệm về lương tâm và lòng tự trọng của nhà báo chuyên nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp bao gồm các nguyên tắc xử sự đúng đắn để ngăn ngừa những hành vi không đúng đắn. Căn cứ vào những tiêu chuẩn đạo đức này và dựa vào tính chất của những hành vi, mỗi nhà báo sẽ phải chịu đựng sự tự xỉ vả, xấu hổ, phải tự kết tội, hoặc được khích lệ, tự hào, phấn khởi và hạnh phúc" – theo Cơ sở lý luận báo chí - truyền thông, Dương Xuân Sơn, Đinh Hường, Trần Quang, Nxb Văn hóa - thông tin, H., 1995, tr. 252.

doc11 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 8467 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đạo đức nhà báo trong thời kỳ hội nhập hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG TRẦN THỊ KIM ANH ĐỀ TÀI: ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP HIỆN NAY TIỂU LUẬN MÔN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VỀ BÁO CHÍ Người hướng dẫn: PGS. TS Lê Thanh Bình Hà Nội, tháng 2 năm 2012 I. Các khái niệm 1. Quan niệm chung về đạo đức Cùng với nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người, đạo đức đánh giá hành vi con người theo các chuẩn mực và các giá trị như thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, đúng và sai, cái phải làm và cái không được làm, cái nên làm và cái không nên làm… Về mặt xã hội, đạo đức được biểu hiện bằng thái độ cụ thể của dư luận xã hội. Về mặt cá nhân, đạo đức được coi là “toà án lương tâm” có khả năng tự phê phán, đánh giá và suy xét từng hành vi, thái độ và ý nghĩ trong bản thân mỗi cá nhân. Xét về bản chất, sự điều chỉnh của đạo đức mang tính tự giác, là sự tự lựa chọn của mỗi người. Vì vậy, ngoài biểu hiện trong các quan hệ xã hội, đạo đức còn thể hiện trong thái độ, hành vi và sự tự ứng xử của bản thân mỗi con người. "Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy định hành vi của con người đối với nhau và đối với xã hội. Các nguyên tắc đạo đức giống như những chiếc máy điều chỉnh hành vi của con người, nhưng không mang tính chất cưỡng chế mà mang tính tự giác (...) Trên cơ sở lí tưởng và trách nhiệm đạo đức đã hình thành nên quan niệm về lương tâm và lòng tự trọng của nhà báo chuyên nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp bao gồm các nguyên tắc xử sự đúng đắn để ngăn ngừa những hành vi không đúng đắn. Căn cứ vào những tiêu chuẩn đạo đức này và dựa vào tính chất của những hành vi, mỗi nhà báo sẽ phải chịu đựng sự tự xỉ vả, xấu hổ, phải tự kết tội, hoặc được khích lệ, tự hào, phấn khởi và hạnh phúc" – theo Cơ sở lý luận báo chí - truyền thông, Dương Xuân Sơn, Đinh Hường, Trần Quang, Nxb Văn hóa - thông tin, H., 1995, tr. 252. 2. Các khái niệm có liên quan 2.1 Đạo đức nghề nghiệp Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức trong một lĩnh vực cụ thể trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp bao gồm những yêu cầu đạo đức đặc biệt, các quy tắc và chuẩn mực trong lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, nhằm điều chỉnh hành vi của các thành viên trong nghề nghiệp đó sao cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của xã hội. 2.2 Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực quy định thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối quan hệ nghề nghiệp. Hiện nay, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo còn được gọi là đạo đức nghề báo, đạo đức báo chí, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo, đạo đức nhà báo. Trong luận án này, chúng tôi sử dụng ba cách gọi: Đạo đức nghề báo, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo và đạo đức nghề nghiệp của người làm báo. Cũng giống như đạo đức, bên cạnh những chuẩn mực đạo đức nghề báo chung cho tất cả nhà báo ở tất cả các quốc gia thì còn có những chuẩn mực đạo đức nghề báo riêng của từng quốc gia, từng cơ quan báo chí phụ thuộc vào từng thời kỳ phát triển lịch sử của từng quốc gia, cơ quan báo chí đó. So với các quy ước về đạo đức nghề báo của các quốc gia và tổ chức báo chí quốc tế, thì Quy định đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam có những điểm tương đồng và một số nét mang tính đặc thù. 2.3 Các khái niệm khác: Nhà báo, nhân dân, công chúng, nguồn tin, nhân vật trong tác phẩm, ban biên tập, cộng tác viên, thông tin viên. 3. Tầm quan trọng của đạo đức nghề báo Ngày nay, vị trí và vai trò của báo chí trong đời sống xã hội ngày càng được nâng lên, nó trở thành một bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người, ở một khía cạnh nào đó nó còn tham gia vào tiến trình lịch sử của thời đại, cùng lúc có thể tác động đến nhiều người, nhiều tầng lớp, nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Chính vì vậy, những người làm nghề này trong mỗi tác phẩm và sản phẩm của mình phải nhận thức sâu sắc từng việc làm, cân nhắc kỹ lưỡng và xem xét cẩn trọng những hậu quả có thể xảy ra đối với xã hội. Chỉ cần một chút thiếu thận trọng của nhà báo, xã hội phải bỏ ra gấp trăm ngàn lần công sức để khắc phục hậu quả. 4. Đạo đức nghề nghiệp trong các mối quan hệ của nhà báo 4.1. Các mối quan hệ nền tảng 4.1.1.. Nhà báo với Tổ quốc, đất nước Với tư cách là thành viên của một đất nước, được nuôi dưỡng bằng văn hoá vật chất và tinh thần của đất nước, nhà báo phải có thái độ trân trọng, yêu quý quê hương, đất nước, cội nguồn đã sinh ra mình. Đó còn là thái độ và trách nhiệm của nhà báo trước đất nước và vì lợi ích của đất nước. 4.1.2. Nhà báo với nhân dân Nhà báo phải phục vụ vô điều kiện quyền thông tin của nhân dân, là diễn đàn tin cậy của nhân dân. Mỗi nhà báo đều phải tham gia vào quá trình thông tin cho nhân dân về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời sống xã hội trong và ngoài nước, làm cho nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua đó, nhà báo tham gia vào việc hình thành dư luận xã hội đúng đắn, xây dựng thế giới quan khoa học, thái độ sống tích cực và nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội. 4.1.3. Nhà báo với Đảng Từ khi ra đời đến nay, những người làm báo cách mạng luôn luôn gắn bó và là người hướng dẫn tin cậy của đồng bào cả nước, cổ vũ nhân dân đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã chọn. Đa số nhà báo Việt Nam không chỉ phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, tích cực trong việc truyền bá mà họ còn góp phần làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. 4.2. Các mối quan hệ trong môi trường xã hội 4.2.1. Nhà báo với công chúng Mối quan hệ giữa nhà báo và công chúng là mối quan hệ mang tính liên kết trong các hành vi đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Trong khi làm nhiệm vụ cung cấp thông tin, nhằm thoả mãn đầy đủ các nguyện vọng, nhu cầu và lợi ích của công chúng, nhà báo phải đối mặt với một loạt các câu hỏi mang tính đạo đức. Không chỉ có thế, việc cân nhắc, tính đến mức độ hiệu quả thông tin cũng là trách nhiệm đạo đức của nhà báo đối với công chúng. Khi viết bài, nhà báo còn phải trả lời một loạt các câu hỏi nhằm xem xét, phân tích đầy đủ các khía cạnh, suy xét nghiêm túc trọn vẹn mọi mặt để cung cấp thông tin tốt nhất cho công chúng. 4.2.2. Nhà báo với nguồn tin Có ba kiểu nguồn tin, thứ nhất là tài liệu, thứ hai là môi trường (hoặc hiện trường) và thứ ba là con người. Khi nói đến mối quan hệ đạo đức nghề nghiệp giữa nhà báo và nguồn tin là nói đến mối quan hệ đạo đức giữa nhà báo và kiểu nguồn tin thứ ba – con người. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp quy định những chuẩn mực khi nhà báo tiếp xúc, thu thập, sử dụng thông tin và tài liệu do nguồn tin cung cấp. 4.2.3. Nhà báo với nhân vật trong tác phẩm của mình Nhân vật trong tác phẩm báo chí là nhân vật có thật, vì vậy nhà báo cần phải cân nhắc kỹ lưỡng xem nên đưa thông tin gì và không nên đưa thông tin gì để không gây hại cho nhân vật. Nhà báo phải tự đặt ra các câu hỏi như: Viết như thế này có ảnh hưởng gì đến cuộc sống, lợi ích, nhân phẩm của nhân vật không? Đưa bứa ảnh này, chi tiết này, tính cách này có gây hại gì cho nhân vật không? Nếu công bố mối quan hệ này có làm phức tạp cuộc sống hàng ngày của nhân vật không? Công chúng liệu có hiểu đúng về nhân vật của mình không?... 4.3. Các mối quan hệ nghề nghiệp 4.3.1. Nhà báo với Ban biên tập Mối quan hệ này đòi hỏi nhà báo phải tuân theo những quy định, chấp hành những đường lối, chủ trương của Ban biên tập, đi đúng tôn chỉ, mục đích của tờ báo. Đấy chính là quan hệ đạo đức giữa cá nhân nhà báo với Ban biên tập của mình. Nền tảng của mối quan hệ này là sự thống nhất quan điểm tư tưởng. Nhà báo phải trung thành với toà soạn của mình, phải có bổn phận giữ bí mật của toà soạn. Tuy nhiên, sự chấp hành này không đồng nghĩa với sự mù quáng mà là sự nhất trí trên nguyên tắc của sự sáng tạo. 4.3.2. Nhà báo với các đồng nghiệp trong và ngoài toà soạn Trong mối quan hệ với các đồng nghiệp đòi hỏi nhà báo phải có nghĩa vụ thực hiện tình đồng chí, đồng nghiệp, nghĩa vụ giúp đỡ lẫn nhau, có ý thức dung nạp và độ lượng với những chính kiến, bất đồng của đồng nghiệp. Mối quan hệ này không chỉ bó hẹp trong từng cơ quan báo chí mà ý thức cố kết, tình đoàn kết, sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau còn phải được thể hiện trong toàn thể cộng đồng nhà báo. 4.3.3. Nhà báo với cộng tác viên, thông tin viên Trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là phải có thái độ trân trọng và không được cố tình im lặng, tảng lờ trước những tư liệu, bài vở của các tác giả gửi về toà soạn. Nhà báo phải có thái độ tôn trọng suy nghĩ, lập luận, bố cục, văn phong của tác giả. Nhà báo phải có sự bàn bạc, trao đổi, thảo luận với tác giả khi có sự thay đổi (dù là nhỏ) trong bài viết. Đương nhiên, nhà báo cũng có chính kiến, không thể đồng ý với tất cả những gì mà tác giả đề xuất. II. Tình hình nghiên cứu Trên thế giới, vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo đã được nhiều tác giả đề cập đến. Trong quá trình đi tìm tư liệu cho tiểu luận, tôi dễ dàng tìm được trên mạng Internet hàng trăm mẩu tin giới thiệu về các cuốn sách, bài báo của các học giả, nhà báo nước ngoài viết về vấn đề đạo đức nghề báo. Nhưng những mẩu tin đó chỉ ghi tóm tắt sơ lược hoặc không ghi gì cả. Điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho tác giả. Tuy nhiên, thông qua tên và phần giới thiệu tóm tắt có thể thấy các tác giả đã đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản của đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Ở nước ta, đạo đức nhà báo cũng là đề tài của rất nhiều cuộc hội thảo. Trong các cuộc thảo luận về vấn đề đạo đức báo chí hiện nay đang có nhiều cách lý giải, biện minh. So với nhiều năm trước thì trong mấy năm gần đây, tình trạng vi phạm đạo đức báo chí đang tăng lên. Biểu hiện của sự vi phạm này không chỉ là những tác phẩm được công bố mà ngay cả sự im lặng không bình thường cũng được công chúng nhận thấy. Chẳng hạn như có những cơ quan báo chí hoàn toàn "làm ngơ" trước một sự kiện động trời nào đó như sự cố ở mỏ than Quảng Ninh hay vụ án Năm Cam...Trong những tình huống như vậy, công luận lại bắt đầu chú ý đến vấn đề đạo đức và thẩm quyền của báo chí. Những cuộc thảo luận về đạo đức truyền thông lại trở nên sôi nổi, mặc dù đề tài này chưa bao giờ thực sự biến mất khỏi bức tranh hàng ngày, khỏi giáo trình đào tạo phóng viên, khỏi tài liệu chuyên môn. Cường độ của cuộc thảo luận tăng lên không theo một chu kỳ nhất định. Gần như khi nào có sự cố đặc biệt của báo chí có liên quan đến vấn đề đạo đức thì cường độ của cuộc thảo luận lại tăng theo. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ 20, sau cái chết tự sát của ông Giám đốc nhà máy bia rượu Hà Nội, đã nổi lên những tranh luận đối với vấn đề đạo đức báo chí. Cùng với rất nhiều vấn đề đạo đức báo chí phát sinh trong cơ chế thị trường, mặt khác để hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức của thời kì đổi mới, Hội nhà báo Việt Nam đã thông qua Quy ước đạo đức báo chí (1994). Các nhà báo đã có một văn bản pháp quy làm nền tảng cơ sở lí luận cho đạo đức nghề nghiệp của mình. Người làm báo đã tìm thấy sự ổn định về đạo đức. Mặc dù vậy, trong hoạt động thực tiễn của nghề báo, những vi phạm về tiêu chuẩn đạo đức vẫn không giảm. Bên cạnh các hội thảo về đạo đức nhà báo, thì các bài viết có tính chất phê phán hành vi đạo đức báo chí cũng thường được đăng rải rác trên các tạp chí chuyên ngành, trên các báo, mặc dù không tạo nên sự rầm rộ của công luận như những thông tin thời sự có tính độc đáo và nhạy cảm khác, nhưng cứ như một dòng chảy lúc âm ỉ, lúc trào dâng. Có thể tổng hợp thành những điểm cơ bản như sau: - Thông tin sai sự thật (do phóng viên bịa ra) - Thông tin méo mó (sai một phần) - Không quan tâm đến hậu quả của thông tin. - Ứng xử nhẫn tâm. - Đưa tin không khách quan vì mục đích vụ lợi hay vì năng lực chuyên môn kém. - Khuynh hướng thương mại hoá báo chí. Những ý kiến vừa nêu trên đây mặc dù còn chưa được tổng hợp đầy đủ và trình bày thường rải rác, lồng ghép trong những bài viết có chứa đựng nhiều nội dung khác nữa. Tuy vậy, chúng vẫn có ý nghĩa thời sự đặc biệt đối với đạo đức báo chí. Cái bị phê phán mạnh mẽ là trách nhiệm xã hội được coi như là sự lý giải cho một thực tiễn công tác truyền thông đang có nhiều vấn đề. Tinh thần nổi bật của những ý kiến này là sự bất tín nhiệm đối với cơ quan truyền thông, sự nghi ngờ về đạo đức của các phóng viên và sự bất bình đối với quyền lực của cơ quan truyền thông ngày càng dâng cao. Cho nên các phóng viên và những người đứng đầu của cơ quan truyền thông cần suy nghĩ lại về các nguyên tắc đạo đức trong hoạt động nghề nghiệp. Vấn đề đạo đức truyền thông đã trở thành một mảng của chương trình đào tạo và vẫn thường xuyên được đề cập trên các báo và tạp chí, đặc biệt là tạp chí chuyên ngành, mặc dù kết quả mang lại không được là bao. Một khía cạnh thường được chú ý là việc định hướng khắt khe tới quyền được thông tin của công chúng. Trung tâm của vấn đề là trách nhiệm xã hội của cơ quan báo chí. Các cán bộ giảng dạy báo chí nêu câu hỏi trong một cuộc hội thảo năm 1994: “Trách nhiệm báo chí: cái gì xã hội cần ở chúng ta? Một số diễn giả nêu quan điểm: Vì đặc quyền xã hội và đặc quyền pháp lý, vì sức mạnh mà các phóng viên nắm giữ, họ phải chịu trách nhiệm về những thông tin mà công chúng cần, theo một cách thức thông minh và có cân nhắc. Như thế có nghĩa là, người phóng viên phải chịu trách nhiệm cả về những thông tin mà họ quyết định không công bố. Như chúng ta đã biết, trách nhiệm là một khái niệm lấp lánh, trong hệ thống hoạt động báo chí nó đồng thời mang hai nghĩa: trách nhiệm của phóng viên đối với cơ quan báo chí và trách nhiệm của cơ quan báo chí đối với xã hội. Khi nói đến trách nhiệm thì rõ ràng rằng, trước sau gì phóng viên cũng phải “đo” trách nhiệm của họ bằng thước đo chung của thực tiễn nghề nghiệp. Trách nhiệm là một vấn đề do học tập và do năng lực mà có. Nó là việc báo tin, đánh thức người phóng viên dậy rồi cử anh ta đi dưới sự hướng dẫn của những biên tập viên từng trải - sau đó sản phẩm truyền thông sẽ được làm sáng tỏ hơn. Trong nhiều văn bản khác nhau, các biên tập viên cũng chứng minh tương tự, khi họ thu gọn vấn đề đạo đức báo chí vào trong phạm vi kỹ thuật nghề nghiệp giống như phương pháp săn tin nhất định hay là vấn đề pháp luật và vấn đề thị trường. Đối với họ, vấn đề đạo đức trong ngày thường khá cụ thể. Cho nên họ không phải suy nghĩ nhiều lắm về trách nhiệm xã hội chung- hoặc là họ không nhìn nhận chúng như là một vấn đề đặc biệt thuộc nghề nghiệp, vì họ quan niệm rằng, đạo đức lao động là chuẩn mực chung cho mọi người, không riêng gì nhà báo, mặc dù nhà báo gặp nhiều tình huống phải ứng xử dựa trên nguyên tắc đạo đức nhiều hơn những nghề khác. Cả hai nhóm - các nhà khoa học và các nhà báo thực hành đều thống nhất với quan điểm cho rằng nghề báo có nhiều nhu cầu đạo đức hơn. Nhu cầu đạo đức có tính thời sự này có thể nghiên cứu được vì lý do và hệ quả của nó đối với bốn yếu tố ràng buộc hành vi báo chí như sau: - Qui chế báo chí (Danh mục đạo đức học và sự trùng hợp với các qui định pháp luật. Ví dụ như việc bảo vệ người cung cấp thông tin đồng thời được ghi trong luật báo chí và qui ước đạo đức báo chí). - Cơ cấu báo chí (Điều kiện chế định dành cho sự tự ràng buộc cá nhân của hành vi báo chí). - Chức năng báo chí (Sự thống nhất của nguyên tắc đạo đức học với ý định đưa tin của phóng viên và mong muốn được thông tin của công chúng). - Vai trò báo chí (Tính nhạy cảm của phóng viên đối với hoàn cảnh dẫn tới quyết định mang tính đạo đức). Trong vấn đề tự chịu trách nhiệm nghề nghiệp của phóng viên, trước hết mỗi nhà báo cần xác định xem trong một tình huống cụ thể, cần ứng xử như thế nào để phù hợp với quy tắc đạo đức. Sau đó mới có thể nói đến việc người phóng viên được làm gì và muốn làm gì, nghĩa là họ có được sự nhạy cảm đạo đức học thế nào. Trên mặt bằng chức năng, người phóng viên cần phải, được phép và mong muốn mang lại điều mà xã hội và công chúng mong đợi. Ngoài ra, đạo đức nhà báo cũng là đề tài của không ít các công trình nghiên cứu. Hiện nay, những nghiên cứu mới chỉ đề cập và tiếp cận vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo chủ yếu từ những góc độ riêng lẻ, thiếu một cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc vấn đề thực trạng đạo đức nghề nghiệp của nhà báo ở Việt Nam hiện nay. Đến nay vẫn thiếu những công trình chỉ ra toàn cảnh thực trạng đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay, trong đó chỉ ra những điểm tích cực và tiêu cực cũng như chỉ ra nguyên nhân và giải pháp nâng cao đạo đức nghề nghiệp nhà báo Việt Nam. Nhưng phải kể đến công trình nghiên cứu của giảng viên Nguyễn Trường  Giang – với luận án“Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay”. Luận án đã có nhiều đóng góp mới như: Thứ nhất, hệ thống và phát triển tương đối cơ bản, toàn diện và sâu rộng lý luận về đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam: (1) Xây dựng khái niệm đạo đức nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo và một số khái niệm khác có liên quan; so sánh Quy định đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam với các quy ước về đạo đức nghề báo của các quốc gia và tổ chức báo chí quốc tế để thấy những điểm tương đồng và một số nét đặc thù; khẳng định tầm quan trọng của đạo đức nghề báo. (2) Khái quát các điểm chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước và của các nhà báo hiện nay về đạo đức nghề báo Việt Nam. (3) Chỉ ra những mối quan hệ đạo đức nghề nghiệp của nhà báo và các chuẩn mực đạo đức ứng xử trong từng mối quan hệ. Qua kết quả khảo sát, luận án đánh giá thực trạng các mối quan hệ đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay. Thứ hai, khẳng định tính tích cực là khuynh hướng chủ đạo trong đạo đức nghề báo Việt Nam, đồng thời chỉ ra những biến đổi tiêu cực mang tính tha hoá của một bộ phận nhà báo hiện nay. Luận án khái quát và phân tích toàn diện các biểu hiện tích cực và tiêu cực trong đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay, chú trọng vạch rõ những hạn chế, yếu kém, biểu hiện suy thoái đạo đức nghề nghiệp và nguyên nhân dẫn đến những biểu hiện đó, từ đó đưa ra một hệ thống các giải pháp nhằm góp phần nâng cao đạo đức nghề nghiệp nhà báo Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu, tác giả luận án đã xây dựng một Bộ quy ước đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam gồm 16 điều; đề xuất 7 bước để xây dựng bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong từng cơ quan báo chí. Tuy vậy, trong bối cảnh mới của nền kinh tế đất nước và thế giới, đặc biệt là sự đổi mới không ngừng trong hoạt động tác nghiệp báo chí cả về cơ sở vật chất, nhu cầu thông tin và đội ngũ người làm báo… vấn đề đạo đức nhà báo lại được đặt ra với những yêu cầu mới cần làm rõ và có hướng đi đúng đắn.
Luận văn liên quan