Khả năng tiếp cận được các dòng vốn tài chính từ
bên ngoài của các nước đang phát triển đóng vai trò rất
quan trọng trong việc phát triển kinh tế của các nước này.
Các dòng vốn tư nhân chảy vào các nước có nền kinh tế
mới nổi đã giảm đi gần một nửa từ mức 720 tỷ đô la vào
năm 2008 xuống mức 372 tỷ đô la ước tính năm 2009 và
chỉ bằng ¼ so với mức đỉnh điểm 1,524 tỷ đô la năm
2007( Biểu đồ 1). Năm 2009, lượng vốn FDI chiếm tỷ
trọng lớn nhất với lượng đầu tư ròng đạt 430 tỷ đô la, con
số này cho thấy một sự sụt giảm so với mức 728 tỷ đô la
năm 2008. Dòng vốn FDI dường như sẽ khôi phục lại
trong những năm sắp đến do sự phát triển kinh tế bền vững
ở nhiều thị trường mới nổi đã tạo ra thêm nhiều các cơ hội
đầu tư.
Năm 2009, 57 tỷ đô la ròng tiền cho vay nợ của các
tổ chức ngân hàng quốc tế chảy ra khỏi quốc gia do có sự
chênh lệch giữa khoản thanh toán nợ vay và khoản vay
mới. Trong khi đó, năm 2008 chỉ có khoảng 72 tỷ đô la
tiền vay chảy vào. Sự sa sút trong hoạt động tài chính
ngành ngân hàng là nguyên nhân cho những hạn chế trong
hoạt động tín dụng và các ngân hàng thực hiện rút vốn từ
các thị trường nước ngoài về, bao gồm các nước đang phát
triển cũng như các các nước có nền kinh tế mới nổi. Việc
rút vốn cho các nước có nền kinh tế mới nổi của các ngân
hàng xảy ra vào quý 4 năm 2008 và quý 2 năm 2009,
lượng vốn cho các nước này vay đã giảm khoảng 300 tỷ
đô la. Các dòng vốn cho vay đã hồi phục trở lại vào quý 4
năm 2009
7 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1909 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Dòng vốn nước ngoài cho các thị trường mới nổi 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
IFSL DÒNG VỐN NƯỚC NGOÀI CHO CÁC THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI 2010
GVHD: TS. Hồ Viết Tiến 1
Tiểu luận
DÒNG VỐN NƯỚC NGOÀI CHO CÁC
THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI 2010
IFSL DÒNG VỐN NƯỚC NGOÀI CHO CÁC THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI 2010
GVHD: TS. Hồ Viết Tiến 2
TỔNG QUAN
Khả năng tiếp cận được các dòng vốn tài chính từ
bên ngoài của các nước đang phát triển đóng vai trò rất
quan trọng trong việc phát triển kinh tế của các nước này.
Các dòng vốn tư nhân chảy vào các nước có nền kinh tế
mới nổi đã giảm đi gần một nửa từ mức 720 tỷ đô la vào
năm 2008 xuống mức 372 tỷ đô la ước tính năm 2009 và
chỉ bằng ¼ so với mức đỉnh điểm 1,524 tỷ đô la năm
2007( Biểu đồ 1). Năm 2009, lượng vốn FDI chiếm tỷ
trọng lớn nhất với lượng đầu tư ròng đạt 430 tỷ đô la, con
số này cho thấy một sự sụt giảm so với mức 728 tỷ đô la
năm 2008. Dòng vốn FDI dường như sẽ khôi phục lại
trong những năm sắp đến do sự phát triển kinh tế bền vững
ở nhiều thị trường mới nổi đã tạo ra thêm nhiều các cơ hội
đầu tư.
Năm 2009, 57 tỷ đô la ròng tiền cho vay nợ của các
tổ chức ngân hàng quốc tế chảy ra khỏi quốc gia do có sự
chênh lệch giữa khoản thanh toán nợ vay và khoản vay
mới. Trong khi đó, năm 2008 chỉ có khoảng 72 tỷ đô la
tiền vay chảy vào. Sự sa sút trong hoạt động tài chính
ngành ngân hàng là nguyên nhân cho những hạn chế trong
hoạt động tín dụng và các ngân hàng thực hiện rút vốn từ
các thị trường nước ngoài về, bao gồm các nước đang phát
triển cũng như các các nước có nền kinh tế mới nổi. Việc
rút vốn cho các nước có nền kinh tế mới nổi của các ngân
hàng xảy ra vào quý 4 năm 2008 và quý 2 năm 2009,
lượng vốn cho các nước này vay đã giảm khoảng 300 tỷ
đô la. Các dòng vốn cho vay đã hồi phục trở lại vào quý 4
năm 2009.
Năm 2008, các nhà đầu tư nước ngoài đã thực hiện
thoái vốn đầu tư khoảng 80 tỷ đô la, chủ yếu là ở Nga,
Malaysia và Ấn độ, mặc dù ở các nước khác như Trung
Quốc, Mexico, và Chile, dòng vốn đầu tư đi vào có sự gia
tăng đều tuy ở mức thấp hơn so với các năm trước. Các
khoản tiền đầu tư chứng khoán đã gia tăng trong vài năm
cho đến năm 2008.. Sự hồi phục của thị trường cổ phiếu và
triển vọng tăng trưởng kinh tế đã tạo đà cho khoản đầu tư
chảy vào nền kinh tế mới nổi khoảng 50 tỷ đô la vào năm
2009.
Năm 2008, chứng kiến các dòng vốn tài chính chảy
ồ ạt vào các nước có nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc,
IFSL DÒNG VỐN NƯỚC NGOÀI CHO CÁC THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI 2010
GVHD: TS. Hồ Viết Tiến 3
Nga, Ấn độ, Brazil và Hungary. Trong đó, Trung Quốc là
thị trường lớn nhất thu hút được 124 tỷ đô la, tiếp đến là
Hungary với 68 tỷ đô la, Brazil 42 tỷ đô la, và Ấn độ là 36
tỷ đô la (Bảng 1). Dòng vốn FDI chiếm chủ yếu, các
khoản vay nước ngoài và khoản tiền đầu tư chứng khoán.
Mỹ là nước đầu tư nhiều nhất vào thị trường các nước có
nền kinh tế mới nổi, chiếm 31% tổng lượng đầu tư của
toàn thế giới., tiếp đó là Anh với 11% và Luxembourg là
9%. Các kinh tế mới nổi đã vay chủ yếu từ các ngân hàng
của Anh, chiếm khoảng 16%.
DÒNG VỐN NƯỚC NGOÀI CHO CÁC THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI : BÁO CÁO VÀ PHÂN
LOẠI
Báo cáo của IFSL cho thấy phạm vi của các dòng vốn nước ngoài bắt nguồn từ các hoạt
động thương mại, bao gồm cả đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư vào thị trường chứng khoán , niêm yết
trên thị trường chứng khoán và tín dụng ngân hàng (không bao gồm các luồng vốn chính thức). Số
liệu trong báo cáo năm nay không bao gồm năm quốc gia: Hong Kong, Isarel, Singapore, Hàn
Quốc và Đài Loan – năm nước này trước đây được xem là các nước đang phát triển đã được IMF
phân loại lại là các nền kinh tế vượt trội (nền kinh tế tiên tiến). Các điều chỉnh này sẽ được thể
hiện trong các bài báo của IMF hoặc báo cáo thống kê của BIS (NH thanh toán quốc tế). Theo quy
ước trên bảng cán cân thanh toán, mỗi cổ đông nắm giữ tỷ lệ thấp hơn hoặc bằng 10% vốn của một
doanh nghiệp được xem là đầu tư chứng khoán (đầu tư gián tiếp - FPI), trên 10% là đầu tư trực
tiếp.
CÁC DÒNG VỐN NƯỚC NGOÀI
Phần này bao gồm việc phân tích các các dòng vốn
nước ngoài chủ yếu và mức độ tiếp cận các dòng vốn này
của các quốc gia thuộc các vùng đia lý khác nhau. Cũng
như dòng vốn đầu tư trực tiếp, đầu tư vào thị trường chứng
khoán và tín dụng ngân hàng, các thị trường mới nổi có
thể tiếp cận với thị trường vốn toàn cầu thông qua việc
niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài, đặc biệt
là Sở giao dịch chứng khoán London và Newyork.
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
Dòng vốn FDI có liên quan đến vấn đề sáp nhập và
mua lại xuyên quốc gia do bị ảnh hưởng lớn của các dòng
vốn ra vào trên thị trường chứng khoán. Số liệu của IMF
cho thấy lượng vốn FDI chảy vào các thị trường mới nổi
đã tăng 6% lên 728 tỷ $ vào năm 2008 trong khi
UNCTAD ước tính giảm 35% xuống 430 tỷ $ vào năm
2009 (biểu đồ 2). Như đã trình bày trong phần tổng quan,
lượng vốn FDI có thể sẽ phục hồi trong những năm tới do
IFSL DÒNG VỐN NƯỚC NGOÀI CHO CÁC THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI 2010
GVHD: TS. Hồ Viết Tiến 4
sự phát triển kinh tế bền vững ở nhiều thị trường mới nổi
đã tạo ra thêm nhiều các cơ hội đầu tư. Thị phần vốn FDI
của các thị trường mới nổi so với thế giới chiếm khoảng
40% trong năm 2008 và 2009, tăng khoảng 28% so với
năm 2005 và 2007.
Luồng vốn FDI vào Châu Á đạt 241 tỷ $ vào năm
2008, tương ứng với Trung và Đông Âu (CEE) (biểu đồ
3). Nga, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ và Phần Lan chiếm gần
2/3 lần so với toàn bộ CEE . Trung Quốc chiếm chủ yếu
lượng vốn FDI ở Châu Á, với khoảng 148 tỷ đô la chiếm
khoảng 61% tổng số vốn FDI của Châu Á vào năm 2008.
Trung Quốc là quốc gia thu hút nhiều nhất dòng vốn FDI
không chỉ ở Châu Á mà còn ở hầu hết các thị trường mới
nổi kể từ năm 2001. Ấn Độ đã có một bước nhảy vọt về
thu hút vốn FDI trong những năm gần đây : từ 41 tỷ đô
vào năm 2008, trên 20 tỷ đô năm 2006 và 2007, còn những
năm trước đó vốn FDI không vượt quá 8 tỷ $.
Kazakhstan là thị trường lớn thứ hai ở Châu Á. Lượng vốn
FDI ở Châu Mỹ La Tinh đã tăng 127 tỷ đô, trong đó hơn
một nửa số vốn chảy vào Brazil và Mexico. Lượng vốn
FDI chảy vào Trung Đông và Châu Phi tương ứng xấp xĩ
78 tỷ đô và 41 tỷ đô.
ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN:
Dòng vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán : Năm
2008, các nhà đầu tư nước ngoài đã thực hiện thoái vốn
đầu tư, rút ra 80 tỷ đô ròng. Sự phục hồi của thị trường
chứng khoán và triển vọng kinh tế đã làm cho lưu lương
vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán hồi phục trở lại,
ước đạt khoảng 50 tỷ ròng trong năm 2009, thấp hơn mức
170 tỷ đô vào năm 2006 và 225 tỷ đô năm 2007 (biểu đồ
1). Một vài nước thu hút lượng vốn ròng của các nhà đầu
tư nước ngoài trong năm 2008 : Trung Quốc thu hút dòng
vốn lớn nhất đạt 10 tỷ đô, kế đến là Mexico và Chile.
Lượng vốn đầu tư giảm đáng kể ở Nga và Malaysia, trên
20 tỷ đô , và Ấn Độ là 15 tỷ đô.
Trái với sự thoái vốn 80 tỷ đô từ các nền kinh tế
mới nổi, thì vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán toàn
cầu vào tất cả các nước đạt 1.342 tỷ đô, giảm gần hai phần
ba so với mức 3.614 tỷ đô năm 2007. So với tổng vốn đầu
tư, vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán vào các nền
kinh tế mới nổi đã tăng từ 1% năm 2002 lên 6% năm 2007
nhưng lại giảm xuống -6% năm 2008 (biểu đồ 2).
IFSL DÒNG VỐN NƯỚC NGOÀI CHO CÁC THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI 2010
GVHD: TS. Hồ Viết Tiến 5
Nhà đầu tư chứng khoán: Cuộc Khảo sát hàng năm về
đầu tư chứng khoán (CPIS) của IMF đã được khởi xướng
kể từ năm 2001, với 74 quốc gia tham gia trong những
cuộc khảo sát gần đây. Cuộc khảo sát mới đây nhất cho
thấy rằng vốn đầu tư các nhà đầu tư chứng khoán không
cư trú ở 20 thị trường mới nổi lớn nhất đã giảm hơn một
nữa từ 2.440 tỷ $ còn 1.022 tỷ $ vào cuối năm 2007. Giá
trị của cổ phiếu này ở Trung Quốc vẫn đạt ở mức cao hơn
bất kỳ thị trường mới nổi nào vào cuối năm 2008, nhưng
đã giảm gần một nửa từ 407 tỷ $ năm 2007 còn 225 tỷ $
(biểu đồ 4) .Kế tiếp là Brazil và Ấn Độ, các nước BRIC
vẫn độc chiếm vị trí cũ ngoại trừ Nga bị Mexico vượt mặt
để đứng ở vị trí thứ tư.
Do sự tấn công của cuộc khủng hoảng tài chính, chỉ
số ở thị trường trái phiếu mới nổi (EMBI) bước đầu đã có
sự tăng vọt từ 308 điểm cơ bản (bp) vào giữa năm 2008
lên 724 bp vào cuối năm, trước khi giảm dần đến 294 pb
vào cuối năm 2009. (biểu đồ 5)
Các nguồn vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán :
Nguồn vốn đầu tư lớn nhất vào thị trường chứng khoán
các nước có nền kinh tế mới nổi bắt nguồn từ các nhà đầu
tư của Mỹ, Anh và Luxembourg, , trong đó nắm giữ tỷ lệ
vốn tương ứng là 30%, 11%, 9%. Giá trị tài sản của các
nhà đầu tư Mỹ trên 20 thị trường mới nổi chủ yếu đạt tổng
411 tỷ $ vào cuối năm 2008, trong khi giá trị đầu tư của
Anh là 145 tỷ $ (Bảng 2), lớn kế tiếp là Luxembourg, theo
sau là Hong Kong và Singapore.
Brazil và Mexico là những nước quan trọng nhất
cho các nhà đầu tư Mỹ đầu tư, phản ánh mối quan hệ chặt
chẽ giữa Mỹ và các nước Châu Mỹ La Tinh, mặc dù Mỹ
cũng là nhà đầu tư lớn nhất tại Nga và Ấn Độ. Hong Kong
là nhà đầu tư lớn nhất tại Trung Quốc, chiếm khoảng 90%
các khoản đầu tư của Hong Kong. Đầu tư từ Luxembourg
và Anh thì đồng đều hơn trên thế gới,mặc dù Anh đứng
sau Mỹ khi đầu tư cho Ấn Độ. Đức là nhà đầu tư lớn nhất
tại Phần Lan, Hungary và Cộng Hòa Czech phản ánh
mạnh mẽ quan hệ gắn bó của mình với CEE.
Niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài : Các
công ty lớn hơn có thể dễ dàng tiếp cận thị trường vốn
thông qua việc tham gia các giao dịch trên thị trường
chứng khoán trong và ngoài nước . Sở Giao dịch Chứng
khoán New York (NYSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán
IFSL DÒNG VỐN NƯỚC NGOÀI CHO CÁC THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI 2010
GVHD: TS. Hồ Viết Tiến 6
London (LSE) là nơi niêm yết nhiều nhất cổ phiếu của thị
trường mối nổi với 182 cổ phiếu trên NYSE và 144 trên
LSE (bảng 3). Các nước Châu Mỹ La Tinh có xu hướng
niêm yết ở New York, trong khi Châu Phi và các nước
trung tâm Châu Âu niêm yết ở London. Các công ty Châu
Á niêm yết chia đều cho hai bên. Các con số của LSE về
Thị trường đầu tư chuyển nhượng (AIM) cho thấy 250
công ty niêm yết đại diện cho hoạt động kinh tế của các
nước như là một thị trường mới nổi bao gồm 48 công ty
của Trung Quốc.
VỐN CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
Lưu lượng vốn cho vay xuyên quốc gia sang những thị
trường mới nổi có sự biến động từ năm này qua năm khác
so với lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hay đầu tư
vào thị trường chứng khoán. Lượng vốn cho vay chảy vào
những thị trường mới nổi đạt đỉnh điểm 612 tỷ đô-la Mỹ
vào năm 2007, trước khi giảm mạnh xuống đến 72 tỷ đô-la
Mỹ vào năm 2008 và ghi nhận dòng tiền chảy ra 57 tỷ đô-
la Mỹ ròng vào năm 2009. Lượng vốn ngân hàng cho vay
đối với những thị trường mới nổi tăng đến 271 tỷ đô-la Mỹ
trong nửa đầu năm 2008 trước khi đứng yên trong Quý 3 ,
tiếp đó là sự đảo ngược dòng vốn với 312 tỷ đô-la Mỹ
ròng được các ngân hàng rút ra trong Qúy 4 năm 2008 và
Qúy 1 năm 2009. Lượng vốn ròng chảy ra đã được ngăn
lại bởi các dòng vốn cho vay chảy vào 52 tỷ đô-la Mỹ ròng
trong quý thứ tư của năm 2009. Giữa Qúy 3 2008 và Qúy
4 2009, nước Nga đã giảm 32% dư nợ vay các ngân hàng
nước ngoài ( biểu đồ 6 ). Lượng vốn cho vay chảy vào
Trung Quốc cũng giảm xuống 15% trong khoảng thời gian
này, nhưng dòng vốn này đã bắt đầu khôi phục trong Qúy
4 2009, không như nước Nga với dòng vốn tiếp tục chảy ra
khỏi quốc gia.
Nguồn các khoản vay nước ngoài : Dữ liệu tập hợp của
BIS cho các ngân hàng qua báo cáo của 30 quốc gia cho
thấy dư nợ phải thanh toán nước ngoài của các thị trường
mới nổi vào tháng 9 năm 2009 đạt tổng cộng 3,949 tỷ đô-
la Mỹ. Những con số này bao gồm các khoản thanh toán
trong nước cho các chi nhánh nước ngoài vốn không có
trong dữ liệu việc cho vay của ngân hàng quốc tế. Các
ngân hàng Anh đã đỗ vốn vay vào thị trường mới nổi
nhiều nhất thế giới với dư nợ cần thanh toán có tổng trị giá
622 tỷ đô-la Mỹ vào cuối tháng 9 năm 2009, tương đương
với 16% của tổng lượng vốn cho vay chảy vào thị trường
IFSL DÒNG VỐN NƯỚC NGOÀI CHO CÁC THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI 2010
GVHD: TS. Hồ Viết Tiến 7
mới nổi trên toàn thế giới (Biểu đồ 7). Tiếp theo Anh là
Mỹ với tỷ lệ 14%, Đức 10% và Pháp 9%.
Ngoài ra, Tập hợp các báo cáo ngân hàng BIS
cũng thu thập các số liệu thống kê về thực trạng khác của
các ngân hàng trong 24 báo cáo của các quốc gia trên cơ
sở tập hợp các rủi ro cuối cùng chứ không phải trên cơ sở
không tập hợp các rủi ro sử dụng làm dữ liệu cho vay. Mặc
dù không trực tiếp so sánh với các số liệu về các khoản
cho vay chưa thanh toán, chúng đã góp phần vào bức
tranh hiện thực về các nguồn vốn nước ngoài. Các báo cáo
thực tế khác cho thấy dòng vốn chảy vào thị trường mới
nổi là 1,362 tỷ đô-la Mỹ trong tháng 9 năm 2009. Hai
thành phần chính là khoản tiền bảo lãnh đến 665 tỷ đô-la
Mỹ và cam kết tín dụng 546 tỷ đô-la Mỹ, với các hợp
đồng phái sinh chiếm phần còn lại trị giá 152 tỷ đô-la Mỹ.