Mục đích của bài nghiên cứu này là xem xét mức độ tác động của sự chuyển dịch tỷ giá
(ERPT) tới g iá cả tại 12 thị trường mới nổi ở châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Theo
kết quả của tác giả, dựa trên 3 mô hình vector tự hồi quy (VAR), phần nào trái ngược với
các nghiên cứu trước đây rằng ERPT tác động vào cả giá nhập khẩu và giá tiêu dùng ở các
nước mới nổi luôn cao hơn ở các nước phát triển.
Các thị trường mới nổi với mức lạm phát 1 con số (hầu hết là các nước Châu Á), sự chuyển
dịch đến giá nhập khẩu và giá tiêu dùng được tìm thấy là thấp và không quá khác biệt so
với những nền kinh tế phát triển. Bài nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng về sự tương
quan dương giữa mức độ ERPT và lạm phát, giống với giả thuyết của Taylor khi loại trừ 2
nước (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ) ra khỏi phân tích. Cuối cùng, về mặt lý thuyết thì có sự
tương quan dương giữa mở cửa nhập khẩu và ERPT, nhưng trên thực tế, tác giả chưa tìm
thấy những bằng chứng thực nghiệm vững chắc về vấn đề này.
33 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1873 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Exchange rate pass-Through in emerging markets, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
EXCHANGE RATE PASS-THROUGH IN
EMERGING MARKETS
Tóm tắt
Mục đích của bài nghiên cứu này là xem xét mức độ tác động của sự chuyển dịch tỷ giá
(ERPT) tới g iá cả tại 12 thị trường mới nổi ở châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Theo
kết quả của tác giả, dựa trên 3 mô hình vector tự hồi quy (VAR), phần nào trái ngược với
các nghiên cứu trước đây rằng ERPT tác động vào cả giá nhập khẩu và giá tiêu dùng ở các
nước mới nổi luôn cao hơn ở các nước phát triển.
Các thị trường mới nổi với mức lạm phát 1 con số (hầu hết là các nước Châu Á), sự chuyển
dịch đến giá nhập khẩu và giá tiêu dùng được tìm thấy là thấp và không quá khác biệt so
với những nền kinh tế phát triển. Bài nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng về sự tương
quan dương giữa mức độ ERPT và lạm phát, giống với giả thuyết của Taylor khi loại trừ 2
nước (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ) ra khỏi phân tích. Cuối cùng, về mặt lý thuyết thì có sự
tương quan dương giữa mở cửa nhập khẩu và ERPT, nhưng trên thực tế, tác giả chưa tìm
thấy những bằng chứng thực nghiệm vững chắc về vấn đề này.
1. Giới thiệu:
Việc xem xét ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá hối đoái lên giá cả là rất quan trọng để đo
lường sự phản ứng của chính sách tiền tệ lên những biến động tiền tệ. Nghiên cứu thực
nghiệm đã chỉ ra rằng các biến động trong tỷ giá và giá cả không là một - một trong ngắn
hạn tới trung hạn. Một học thuyết mở rộng đã được phát triển hơn 3 thập kỷ qua đã đưa ra
những giải thích khác nhau rằng tại sao sự chuyển dịch tỷ giá hối đoái (ERPT) đến giá
nhập khẩu và giá tiêu dùng là không hoàn toàn. Phân tích thực nghiệm cũng đã cung cấp
bằng chứng về sự khác biệt giữa các quốc gia đối với ERPT. Taylor (2000) đã đưa ra tranh
luận trong khía cạnh này rằng độ nhạy của giá cả tới sự biến động của tỷ giá hối đoái phụ
thuộc hoàn toàn vào lạm phát.
Bài nghiên cứu này kiểm định mức độ ERPT tới giá cả tại 12 thị trường mới nổi ở châu Á,
Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Tác giả sử dụng chiến lược mô phỏng cho các nước tiên
tiến của McCarthy (2000) và được ứng dụng bởi Hahn (2003) cho khu vực sử dụng đồng
euro. Tác giả ước lượng bằng mô hình vector tự hồi quy (VAR), trong đó bao gồm các yếu
tố cơ bản như : biến đầu ra, tỷ giá hối đoái, giá nhập khẩu và giá tiêu dùng, lãi suất ngắn
hạn, và giá dầu.
Phương pháp vector tự hồi quy này chấp nhận sự nội sinh giữa các biến đang xem xét.
Những cú sốc tỷ giá được xác định bởi sự sắp xếp thích hợp các biến và việc áp dụng một
phương pháp đệ quy. Khi xếp thứ tự của các biến, tác giả tiến hành phân tích độ nhạy cho
thứ tự thay thế khác nhau của các biến. Tác giả đã ước lượng các mô hình so sánh với một
chuẩn mực của các nền kinh tế phát triển, cụ thể là khu vực đồng Euro, Hoa Kỳ và Nhật
Bản.
Kết quả của tác giả xác nhận ERPT suy giảm qua chuỗi giá cả, tức là ERPT tác động lên
giá tiêu dùng thấp hơn so với tác động lên giá nhập khẩu. Cũng có bằng chứng về ERPT
lên giá tiêu dùng thấp ở các nền kinh tế phát triển, đặc biệt trong trường hợp của Mỹ và
Nhật Bản. Trong nghiên cứu trước đây, ERPT tác động lên cả giá tiêu dùng và giá nhập
khẩu ở khu vực Châu Âu là hơi cao hơn so với ở Mỹ.
Phân tích của tác giả phần nào trái ngược với các thông lệ trước đây là ERPT của "các nền
kinh tế mới nổi" luôn luôn cao hơn "các nền kinh tế phát triển". Đối với các nền kinh tế
mới nổi có mức lạm phát là một con số (nhất là các nước châu Á trong mẫu của tác giả),
ERPT thấp và không mấy khác biệt so với mức độ hiện tại của các nền kinh tế phát triển.
Nói chung, nghiên cứu thừa nhận sự tương quan dương giữa mức độ ERPT và lạm phát,
phù hợp với giả thuyết của Taylor. Kết quả này chỉ trở nên rõ ràng sau khi loại trừ 2 nước
(Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ), vì những khó khăn áp dụng trong thực nghiệm liên quan đến
sự bất ổn nghiêm trọng kinh tế vĩ mô ở hai nước này. Cuối cùng, về mặt lý thuyết thì có
tương quan dương giữa mở cửa nhập khẩu và ERPT, nhưng trên thực tế, tác giả chưa tìm
thấy những bằng chứng thực nghiệm vững chắc về vấn đề này.
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây:
Hai thập kỷ qua, một lượng lớn tài liệu kinh tế về ERPT đã được nghiên cứu. Bắt đầu từ
những quan điểm khác nhau, nghiên cứu thực nghiệm kiểm tra vai trò của ERPT ở các nền
kinh tế nhỏ và lớn. Các nghiên cứu đã được tiến hành ở các nước phát triển bao gồm:
Anderton (2003): “Extra-Euro Area Manufacturing Import Prices and Exchange Rate
Pass-Through”
Sự dịch chuyển trong việc thay đổi tỷ giá có ảnh hưởng đến tỷ giá
đồng euro tới giá sản phẩm nhập khẩu trong khu vực ngoài châu Âu thì dao động
khoảng 50%-70%. Trong khi giá thị trường thì ước tính dao động từ 30%-50%.
Các quốc gia thành viên châu âu nhưng không phải trong khu vực
chung châu âu áp một mức lớn hơn lên giá thị trường trong khi khu vực chung châu âu
nhập khẩu từ Mỹ chịu mức độ ảnh hưởng lớn của ERPT.
Campa và Goldberg (2004): “Exchange Rate Pass-Through into Import Prices”
Đánh giá mức độ chuyển dịch tỷ giá vào giá nhập khẩu của 23 nước
OECD.
Các nước có tỷ giá hối đoái và lạm phát biến động ít hơn có thể sẽ có
tỷ lệ chuyển dịch tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu thấp hơn.
Điều quan trọng cho sự thay đổi chuyển dịch là một thay đổi đáng kể
trong thành phần của gói nhập khẩu quốc gia.
Campa, Goldberg và González-Mínguez (2005): “Exchange Rate Pass-Through to
Import Prices in the Euro Area”
Phân tích thực nghiệm sự chuyển dịch của tỷ giá hối đoái đến giá nhập
khẩu, giữa các nước và các loại sản phẩm, trong khu vực đồng Euro.
Không tìm thấy bằng chứng thuyết phục rằng sự ra đời của đồng euro
gây ra một sự thay đổi trong sự chuyển dịch của tỷ giá vào giá.
Hahn (2003): “Pass-Through of External Shocks To Euro Area Inflation”
Nghiên cứu tác động chuyển dịch của cú sốc bên ngoài đến lạm phát
khu vực sử dụng đồng Euro.
Cú sốc bên ngoài giải thích phần lớn các biến trong các chỉ số giá và
góp phần lớn hơn đến lạm phát trong khu vực Euro khi bắt đầu sử dụng đồng tiền chung
Châu Âu.
Ihrig và cộng sự (2006): “Exchange Rate Pass-Through in the G-7 countries”
Có sự sụt giảm giá nhập khẩu và biến động giá tiêu dùng gần như tất
cả các nước G7. Khoảng một nửa các quốc gia này có sự biến động sụt giảm đáng kể.
Biến động tỷ giá hối đoái cho cả hai giá tiêu dùng và nhập khẩu đã
giảm trong cùng một khung thời gian. Phần lớn biến động giá tiêu dùng được giải thích
bởi sự suy giảm trong biến động tỷ giá hối đoái.
Những nước mà sự suy giảm trong giá cả nhập khẩu và biến động giá
tiêu dùng cũng tương đối lớn, cho thấy giảm biến động giá nhập khẩu có thể giải thích
sự thay đổi trong biến động giá tiêu dùng.
McCarthy (2000): “Pass-Through of Exchange Rates and Import Prices to Domestic
Inflation in Some Industrialized Economies”
Kiểm định sự chuyển giá của các nhân tố bên ngoài vào lạm phát
trong nước ở một số nền kinh tế công nghiệp hóa.
TGHĐ có ảnh hưởng không đáng kể đến lạm phát giá cả trong nước
trong khi giá nhập khẩu có tác động mạnh mẽ hơn.
Sự chuyển dịch có mức độ lớn hơn ở những nước có nhập khẩu lớn và
phụ thuộc nhiều vào tỷ giá và giá nhập khẩu.
Ngoài ra còn có một nguồn tài liệu áp dụng cho các nền kinh tế mới nổi bao gồm:
Choudri và Hakura (2006): “Exchange Rate Pass-Through to Domestic Prices : Does
the Inflationary Environment Matter?”
Sử dụng số liệu của 71 nước phát triển và mới nổi trong giai đoạn
1979 – 2000 để kiểm chứng mức độ của sự phá giá lên lạm phát.
Mức độ chuyển dịch mạnh hay yếu phụ thuộc vào mức độ lạm phát
ban đầu của nước phá giá. Sự chuyển dịch yếu đối với nước có mức lạm phát ban đầu
thấp và cao đối với nước có mức lạm phát ban đầu cao.
Frankel và cộng sự (2005): “Slow Pass-Through Around the World: A New Import for
Developing Countries?”
ERPT ở các nước đang phát triển là cao hơn và ở các nước phát triển
là thấp hơn.
Trong thập niên 90, sự ảnh hưởng bởi ERPT này yếu đi đối với các
nước đang phát triển và được giải thích bởi những thay đổi trong môi trường tiền tệ.
Mihaljek và cộng sự (2000): “A Note On The Pass-Through From Exchange Rate And
Foreign Price Changes To Inflation In Selected Emerging Market Economies”
Nguyên cứu sự dịch chuyển thông qua các thay đổi của tỷ giá hối đoái và thay đổi giá
nhập khẩu (tính bằng ngoại tệ) vào lạm phát trong nước của nhóm 13 nước có nền kinh
tế thị trường mới nổi và đưa ra các nhận định sau:
Sự thay đổi của tỷ giá hối đoái mạnh mẽ và cũng tương quan đồng
thời với lạm phát nhiều hơn là với sự thay đổi của giá nhập khẩu.
Giá nhập khẩu và độ co giãn tỷ giá của lạm phát là như nhau ở 4 quốc
gia trong mẫu. 2 nước có độ co giãn giá nhập khẩu cao hơn, và 7 nước độ co giãn tỷ giá
cao hơn.
Sự khác biệt về hệ số dịch chuyển giữa các quốc gia là lớn và có liên
quan đến biến động của lạm phát.
Sự dịch chuyển từ thay đổi tỷ giá hối đoái vào lạm phát mạnh hơn sự
dịch chuyển từ giá nhập khẩu, nhưng đã giảm kể từ giữa những năm 1990, có thể là do
kết quả của nhiều điều kiện ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện cải cách cơ cấu trong các
nền kinh tế mới nổi.
Để đơn giản hóa, các nhà kinh tế truyền thống đã giả định rằng giá cả hàng hóa mậu dịch –
được tính trong cùng một loại tiền tệ - là ngang nhau giữa các quốc gia, ví dụ như điều kiện
ngang giá sức mua PPP. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm, giả định này hầu như không có sự
ủng hộ, ít nhất là trong trường hợp mẫu nhỏ và kiểm tra trong ngắn hạn đến trung bình.
Cùng với các bằng chứng này, tài liệu lý thuyết đã phát triển hơn hai thập kỷ qua cung cấp
những giải thích khác nhau rằng tại sao ERPT là không hoàn toàn. Trong bài báo chuyên
đề của ông, Dornbusch (1987) chỉ ra sự chuyển dịch không hoàn toàn là do các công ty
hoạt động trong một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và điều chỉnh tăng giá để phản
ứng với một cú sốc tỷ giá. Burstein et al. (2003) nhấn mạnh vai trò (phi mậu dịch) đầu vào
trong nước trong chuỗi phân phối hàng hóa mậu dịch. Burstein et al. (2005) chỉ ra vấn đề
đo lường CPI mà bỏ qua điều chỉnh lớn chất lượng tỷ giá hối đoái hàng hóa mậu dịch cụ
thể như sau:
Dornbusch (1987): “Exchange Rates and Prices”
Sự thay đổi của tỷ giá ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa.
Nghiên cứu xem những lĩnh vực bị ảnh hưởng nhiều và những lĩnh
vực bị ảnh hưởng ít khi tỷ giá thay đổi.
Sự thay đổi của tỷ giá làm cho các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng
mạnh.
Dự đoán về sự di chuyển quốc tế của các công ty và sự mất cân bằng
tỷ giá hối đoái trong tương lai.
Burstein và cộng sự (2003): “Distribution Cos ts And Real Exchange Rate Dynamics
During Exchange-Rate-Based-Stabilizations”
Nghiên cứu vai trò của các lĩnh vực phân phối trong việc hình thành
hành vi của tỷ giá hối đoái thực tế trong quá trình thay đổi tỷ giá.
Chi phí phân phối là một trong những lý do tại sao PPP thất bại vì chi
phí phân phối thường không được coi là yếu tố quyết định quan trọng của RER.
Burstein và cộng sự (2005): “Large Devaluations and the Real Exchange Rate”
Nguyên nhân chính đằng sau sự sụp đổ lớn trong tỷ giá hối đoái thực
xảy ra sau khi phá giá lớn là sự điều chỉnh giảm trong giá hàng hóa phi mậu dịch và
dịch vụ chứ không phải là sự thất bại của tương quan PPP đối với hàng hoá mậu dịch.
Việc sử dụng giá bán lẻ hàng hoá mậu dịch dẫn đến sự phóng đại các
phần nhỏ của sự suy giảm trong RER mà điều này là do sự thay đổi trong giá cả hàng
hoá mậu dịch qua các nước.
Một hướng khác của lập luận nhấn mạnh hơn vai trò của chính sách tiền tệ, bằng cách bù
đắp một phần những tác động của thay đổi tỷ giá lên giá (Gagnon và Ihrig, 2004).
Devereux và Engel (2001) và Bacchetta và Van Wincoop (2003) đã khám phá vai
trò của giá cả nội tệ trong việc giảm mức độ ERPT như sau:
Gagnon và Ihrig (2004): “Monetary Policy And Exchange Rate Pass-Through”
Chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến tỷ giá kỳ vọng và sự chuyển dịch
của tỷ giá. Khi doanh nghiệp tín nhiệm và tin vào việc ổn định lạm phát của ngân hàng
trung ương thì ít có sự biến động sẽ làm giảm sự chuyển dịch của tỷ giá vào giá trong
nước.
Devereux và Engel (2001): “Endogenous Currency Of Price Setting In A Dynamic
Open Economy Model”
Các doanh nghiệp xuất khẩu có thể lựa chọn đồng tiền mà họ định
được giá cho việc bán hàng ra thị trường nước ngoài.
Một quốc gia có chính sách tiền tệ có nhiều biến động sẽ thấy rằng giá
nhập khẩu sẽ được thiết lập lại bằng ngoại tệ (theo đồng tiền của người bán), và có sự
chuyển dịch mạnh mẽ từ tỷ giá hối đoái sang giá nhập khẩu .
Một đất nước có chính sách tiền tệ ít biến đổi và thị trường tài chính
quốc tế hoàn hảo có nhiều khả năng thiết lập giá hàng hóa nhập khẩu theo đồng nội tệ
và sự chuyển dịch của tỷ giá là rất thấp.
Bacchetta và Van Wincoop (2003): “Why Do Consumer Prices React Less Than
Import Prices To Exchange Rates?”
Mức độ biến động của tỷ giá lên giá tiêu dùng thấp hơn nhiều so với
giá nhập khẩu. Doanh nghiệp xuất khẩu có xu hướng định giá bằng đồng tiền của nước
xuất khẩu và nhà sản xuất định giá bằng nội tệ, trong trường hợp này sự chuyển dịch
hoàn toàn lên giá nhập khẩu và không có sự chuyển dịch lên giá tiêu dùng.
Các nhà sản xuất hàng hóa cuối cùng phải đối mặt với rủi ro tỷ giá bên
cạnh chi phí sản xuất, nên họ muốn đặt giá bằng nội tệ để tránh biến động giá lớn so với
hàng tiêu dùng khác.
Thực vậy các cách tiếp cận lý thuyết khác nhau, nghiên cứu thực nghiệm cho cả những nền
kinh tế phát triển và mới nổi đã phát hiện bằng chứng về ERPT không hoàn toàn. Những
nghiên cứu này cũng tìm thấy bằng chứng về sự khác biệt đáng kể giữa các nước, đương
nhiên dẫn đầu với câu hỏi cái gì đã quyết định cơ bản của sự chuyển dịch. Riêng Taylor
(2000) đã đưa ra giả thuyết độ nhạy giá cả đến sự biến động tỷ giá hối đoái phụ thuộc hoàn
toàn vào lạm phát. Lý do cho điều này liên quan đến sự tương quan dương giữa mức độ và
sự tồn tại lâu dài của lạm phát, kết hợp với mối quan hệ giữa sự tồn tại lâu dài của lạm phát
và sự chuyển dịch. Liên kết thứ hai có thể được nói rõ như sau: Càng lạm phát liên tục, thì
tỷ giá hối đoái càng ít biến động được hiểu là tạm thời và các công ty càng có thể đối phó
thông qua điều chỉnh giá.
Bằng chứng qua các nghiên cứu khác nhau đã ủng hộ toàn bộ giả thuyết của Taylor. SỰ
tương quan dương giữa mức độ chuyển dịch và lạm phát mạnh mẽ hơn, tuy nhiên, khi các
thị trường mới nổi được bao gồm trong mẫu được xem xét (xem riêng bảng dữ liệu bằng
chứng trong Choudhri và Hakura, 2006). Điều này có thể không ngạc nhiên, khi các tranh
luận của Taylor trở nên có ý nghĩa hơn cho tỷ lệ lạm phát cao.
Taylor (2000): “Low Inflation, Pass-Through, and the Pricing Power of Firms”
Phá giá đồng tiền không phải lúc nào cũng gây ra lạm phát. Những
nước có tỷ lệ lạm phát thấp sẽ ít bị lạm phát sau khi phá giá.
Với lạm phát ổn định ở mức thấp, khi doanh nghiệp định giá sản phẩm
trước một thời hạn nào đó sẽ định giá theo kỳ vọng là giá sẽ không biến đổi nhiều.
Trong môi trường lạm phát cao thì sự chuyển dịch này sẽ từ thấp thành cao vì doanh
nghiệp biết rằng lạm phát sẽ lên cao, do đó cũng sẽ định giá trước cho sản phẩm cao
theo.
Yếu tố quyết định quan trọng khác của ERPT từ một quan điểm lý thuyết là mức độ mở
cửa thương mại của một quốc gia. Hầu hết các kết nối tức thì giữa 2 biến là dương: Quốc
gia càng mở cửa giao thương, sự biến động tỷ giá hối đoái chuyển dịch vào CPI thông qua
giá nhập khẩu càng nhiều. Tuy nhiên, bức tranh trở nên phức tạp hơn khi tác giả đưa vào
nghiên cứu rằng lạm phát có thể tương quan âm với sự mở cửa, như thực nghiệm phát hiện
bởi Romer (1993).
Romer (1993): “Openness and Inflation: Theory and Evidence”
Mối quan hệ giữa mở cửa và lạm phát sẽ mạnh hơn trong các quốc gia
có chính trị bất ổn và ngân hàng trung ương ít độc lập.
Việc mở rộng chính sách tiền tệ không được dự đoán trước sẽ làm cho
tỷ giá hối đoái thực sụt giảm và trên thực tế những thiệt hại của sự sụt giảm này sẽ lớn
hơn trong nền kinh tế mở cửa nhiều hơn.
Điều này đưa đến một kênh gián tiếp, theo đó sự mở cửa tương quan âm với lạm phát và
mức độ của sự chuyển dịch khi đưa vào tài khoản giả thuyết của Taylor. Các kênh trực tiếp
và gián tiếp đi theo chiều ngược nhau và dấu hiệu chung của sự tương quan giữa sự chuyển
dịch và sự mở cửa do đó có thể dương hay âm.
Bài v iết này xem xét lại các kết quả từ các nghiên cứu trước, tìm ra độ lớn của ERPT và sự
khác biệt giữa các quốc gia bằng mô hình VAR cho các nước mới nổi và cho nền kinh tế
các nước công nghiệp hóa, ví dụ như: Khu vực sử dụng đồng Euro, Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Cách tiếp cận phương trình song song được sử dụng để tính đến khả năng nội sinh cao và
tiềm năng giữa các biến xem xét. Đơn giản, chỉ cần bỏ qua sự đồng thời đó, như thường
được thực hiện trong các phương trình đơn, sẽ cho kết quả sai lệch với phương trình song
song. Hơn nữa, khung mô hình được lựa chọn thì hấp dẫn vì nó chỉ ra các phản ứng năng
động của các biến với những cú sốc ngoại s inh qua thời gian. Công trình nghiên cứu cho
đến nay đã ước tính các mô hình phương trình đơn lẻ hoặc hệ thống các mô hình phương
trình cho từng quốc gia riêng biệt, hoặc thiết lập các mô hình phương trình đơn khác cho
một hệ thống các quốc gia lớn (trích theo Choudhri và Hakura, 2006, và Mihaljek v.v…,
2000). Thay vào đó, trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng phương pháp hệ thống một số
nước đáng kể trong 3 khu vực thị trường mới nổi chính của thế giới, cụ thể là Châu Á, Mỹ
Latinh, Trung và Đông Âu. Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp tương tự với ba nền
kinh tế công nghiệp lớn, đảm bảo tính so sánh thông qua các kết quả nghiên cứu của các
quốc gia này. Bằng cách đánh giá từng mô hình của mỗi quốc gia trong khoảng thời gian
dài nhất, hơn nữa tác giả hướng tới độ chính xác cao nhất có thể trong ước lượng sự chuyển
dịch cho mỗi quốc gia. Về mặt này, thành phần quan trọng để phân tích là việc thiết lập cơ
sở dữ liệu có thể so sánh được và phù hợp với mỗi quốc gia theo định kỳ hàng quý, mà tiêu
biểu cho thách thức chủ yếu cho các dữ liệu sẵn có và chất lượng cho các nước thị trường
mới nổi. Điều này cũng đã giúp tác giả đáp ứng những yêu cầu của một hệ thống phương
pháp nghiên cứu dựa trên số lượng biến tương đối cao để cho phép xem xét động lực đủ
phong phú và để tránh sự thiên lệch biến bị bỏ sót.
Sau khi tác giả sử dụng những kết quả của các quốc gia tác giả xem xét để nghiên cứu các
thông lệ trước đây rằng ERPT ở thị trường mới nổi cao hơn trong nền kinh tế công nghiệp
hóa và nghiên cứu các mô hình sự chuyển dịch tỷ giá trong mối tương quan của chúng,
trích dẫn theo McCarthy (2000) và Choudhri và Hakura (2006). Dù ERPT cao hay không
cao ở thị trường mới nổi có đặt thành vấn đề để xác định cán cân thương mại cũng như sự
lựa chọn chế độ tỷ giá của một quốc gia. Mức độ tương đối cao của sự chuyển dịch cho các
nước đang phát triển cũng đã được xem như là một nhân tố cơ bản chứng minh rõ ràng
"khuynh hướng tránh dao động tỷ giá" của các nước đang phát triển. Nó cũng có ý nghĩa
bởi vì sự chuyển dịch thấp ở thị trường mới nổi có thể khiến năng lực thị trường của các
công ty ở những quốc gia này gia tăng không ngừng, như là xu hướng toàn cầu hoá. Tuy
nhiên, những quốc gia thị trường mới nổi bộc lộ những nét đặc trưng quan trọng gây khó
khăn trong việc ước lượng ERPT. Một số nước châu Á thường xuyên theo đuổi các chính
sách tích cực nhằm kiểm soát tỷ giá hối đoái. Các quốc gia Trung và Đông Âu đã trải qua
một sự chuyển biến căn bản nền kinh tế của họ trong những năm 1990. Cuối cùng, Thổ Nhĩ
Kỳ và các nước Mỹ Latinh đã trải qua những bất ổn kinh tế vĩ mô mạnh được đặc trưng bởi
tỷ lệ lạm phát rất cao và / hoặc biến động tỷ giá và lãi suất mạnh.
Kết quả của tác giả chỉ hỗ trợ một phần quan điểm phổ biến rằng mức độ ERPT ở thị
trường mới nổi cao hơn ở các nước phát triển (sử dụng như một chuẩn mực của Mỹ, khu
vực sử dụng đồng Euro và Nhật Bản). Cụ thể hơn, tác giả