Lịch sử đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng từ trước đến nay các học thuyết triết
học có ảnh hưởng nhất vốn là kết quả của sự sáng tạo cá nhân của những nhà triết học
kiệt xuất bằng cách này hay cách khác ở mức độ này hay mức độ khác đều được phục
hồi ở các thời đại sau đó dù cho điều kiện lịch sử đã có những thay đổi rất lớn chẳng
hạn đó là học thuyết Platôn. học thuyết Arixtốt học thuyết R.Đêcáctơ học thuyết
I.Cantơ học thuyết G.Hêgen.v.v.
Trong nghiên cứu triết học cần hết sức chú ý một điều là không nên đi tìm hoặc
quy ảnh hưởng của một học thuyết triết học nào đó chỉ ở hoặc về một nhóm các đồ đệ
trực tiếp của nó nghĩa là vào một trường phái xác định nào đó. Và điều này cũng hoàn
toàn đúng với học thuyết của Hêgen. Chúng ta không cần phải mất công sức chứng
minh việc triết học Hêgen đã có ảnh hưởng vượt ra khỏi khuôn khổ của thuyết Hêgen
ra sao tức là khuôn khổ của một trường phái đã thừa nhận các tiền đề xuất phát của hệ
thống triết học Hêgen.
Xét một cách thật chặt chẽ thì học thuyết Hêgen hiện nay không phải là một
trào lưu tư tưởng triết học đáng kể. Mặc dù vậy sự quan tâm tới triết học Hêgen đặc
biệt là số lượng các công trình nghiên cứu về triết học không những không hề giảm
bớt mà trái lại còn tăng lên liên tục. Hơn thế nữa có một điều khá đặc biệt là các nhà
nghiên cứu về di sản triết học của Hêgen thường lại không phải là những người theo
trường phái Hêgen. Một điều nổi bật khác ở đây là cả các nhà duy tâm lẫn các nhà
duy vật, cả những người bảo vệ chủ nghĩa duy lý lẫn những người ủng hộ chủ nghĩa
phi duy lý đều tích cực nghiên cứu triết học Hêgen. Trong số các nhà triết học duy
tâm lý giải triết học Hêgen và cố gắng đồng hoá các tư tưởng của ông thì thậm chí
chúng ta lại bắt gặp những người cố gắng bảo vệ các khuynh hướng triết học hết sức
xa lạ với học thuyết Hêgen chẳng hạn chủ nghĩa hiện s inh. chủ nghĩa nhân cách triết
học phân tích thần học biện chứng.v.v.
28 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3047 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giá trị và hạn chế trong phép biện chứng của Hegel, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Gá trị và hạn chế trong phép biện chứng của Hegel Tôn Nữ Cảnh Phương
Tiểu luận
Giá trị và hạn chế trong phép biện
chứng của Hegel
1
Gá trị và hạn chế trong phép biện chứng của Hegel Tôn Nữ Cảnh Phương
LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng từ trước đến nay các học thuyết triết
học có ảnh hưởng nhất vốn là kết quả của sự sáng tạo cá nhân của những nhà triết học
kiệt xuất bằng cách này hay cách khác ở mức độ này hay mức độ khác đều được phục
hồi ở các thời đại sau đó dù cho điều kiện lịch sử đã có những thay đổi rất lớn chẳng
hạn đó là học thuyết Platôn. học thuyết Arixtốt học thuyết R.Đêcáctơ học thuyết
I.Cantơ học thuyết G.Hêgen.v.v..
Trong nghiên cứu triết học cần hết sức chú ý một điều là không nên đi tìm hoặc
quy ảnh hưởng của một học thuyết triết học nào đó chỉ ở hoặc về một nhóm các đồ đệ
trực tiếp của nó nghĩa là vào một trường phái xác định nào đó. Và điều này cũng hoàn
toàn đúng với học thuyết của Hêgen. Chúng ta không cần phải mất công sức chứng
minh việc triết học Hêgen đã có ảnh hưởng vượt ra khỏi khuôn khổ của thuyết Hêgen
ra sao tức là khuôn khổ của một trường phái đã thừa nhận các tiền đề xuất phát của hệ
thống triết học Hêgen.
Xét một cách thật chặt chẽ thì học thuyết Hêgen hiện nay không phải là một
trào lưu tư tưởng triết học đáng kể. Mặc dù vậy sự quan tâm tới triết học Hêgen đặc
biệt là số lượng các công trình nghiên cứu về triết học không những không hề giảm
bớt mà trái lại còn tăng lên liên tục. Hơn thế nữa có một điều khá đặc biệt là các nhà
nghiên cứu về di sản triết học của Hêgen thường lại không phải là những người theo
trường phái Hêgen. Một điều nổi bật khác ở đây là cả các nhà duy tâm lẫn các nhà
duy vật, cả những người bảo vệ chủ nghĩa duy lý lẫn những người ủng hộ chủ nghĩa
phi duy lý đều tích cực nghiên cứu triết học Hêgen. Trong số các nhà triết học duy
tâm lý giải triết học Hêgen và cố gắng đồng hoá các tư tưởng của ông thì thậm chí
chúng ta lại bắt gặp những người cố gắng bảo vệ các khuynh hướng triết học hết sức
xa lạ với học thuyết Hêgen chẳng hạn chủ nghĩa hiện sinh. chủ nghĩa nhân cách triết
học phân tích thần học biện chứng.v.v..
2
Gá trị và hạn chế trong phép biện chứng của Hegel Tôn Nữ Cảnh Phương
Khi xem xét các quan điểm của những nhà triết học nổi tiếng của các thời đại
trước đây tuyệt nhiên chúng ta không được tô vẽ không được hiện đại hoá các quan
điểm đó của họ.
Đồng thời chúng ta cũng không được ca ngợi không được biện hộ một chiều
các quan điềm đã lỗi thời hoặc bị hạn chế bởi nhừng điều kiện lịch sử hoặc những
thiên kiến đương thời. Muốn vậy phải biết phận biệt những gì là giá trị trong di sản
triết học với những sự xuyên tạc hoặc lý giải tuỳ tiện về di sản đó. Một mặt, khi xem
xét di sản của một nhà tư tưởng thì không bỏ qua những hạn chế lịch sử những khiếm
khuyết và sai lầm của nhà tư tưởng đó: những mặt khác chúng ta cần rút ra và nhấn
mạnh những gì trong di sản đó đã vượt qua được thử thách ngặt nghèo của thời gian
đã trở thành một khâu hữu ích trong quá trình phát triển của tư tưởng triết học.
Làm tốt được điều trên đây đối với triết học Hêgen không phải là dễ dàng. Bởi
vì triết học Hêgen không những quá đồ sộ quá bách khoa quá uyên bác về nhiều mặt
mà còn chứa đựng trong mình nó không ít những mâu thuẫn những xu hướng khác
nhau kể cả các xu hướng bài trừ nhau. Những cái đó một phần là nguyên cớ một phần
cũng là căn cứ cho những cách lý giải hết sức khác nhau đối với học thuyết, Hêgen.
3
Gá trị và hạn chế trong phép biện chứng của Hegel Tôn Nữ Cảnh Phương
1. NHỮNG GIÁ TRỊ TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG CỦA HEGEL
Việc vai trò của phép biện chứng tăng lên một cách đặc biệt không phụ thuộc
vào bản thân triết học Hêgen. Tuy nhiên chính học thuyết của Hêgen là thứ triết học
đã biến phép biện chứng thành trung tâm, thành hạt nhân đích thực của toàn bộ hệ vấn
đề triết học. Phép biện chứng được Hêgen lý giải là phương pháp đúng đắn để nhận
thức các vấn đề triết học. Phương pháp tư duy biện chứng được ống nghiên cứu một
cách đầy đủ nhất và có căn cứ vững chắc là phương pháp chưa từng thấy trong lịch sử
triết học trước Mác. Trong triết học Hêgen phép biện chứng biểu hiện ra là lý luận
nhận thức và là hình thức cao nhất của lôgíc học của tư duy lôgíc. Đồng thời nó cũng
chế định một thế giới quan đặc biệt cần đặt trên niềm tin vào tính tất yếu của sự tiến
bộ với tư cách là kết, quả của sự phát triển hợp quy luật.
Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng động hoà với trật tự
xã hội phổ hiện tồn thời đó mà Hêgen đã có những kết luận mâu thuẫn và không nhất
quán. Trái với các nguyên tắc xuất phát của mình. Hêgen đã đặt ra một giới hạn cho
sự phát triển của nhân loại kể cả cho sự phát triển của triết học sau khi tuyên bố rằng
học thuyết của mình là sự kết thúc tuyệt đối hoàn thiện của tư tưởng triết học.
Nhưng ngay cả những điều ấy cũng không làm mất đi ý nghĩa tiến bộ của các
nguyên tắc biện chứng xuất phát của Hêgen. Phù hợp với chúng Hêgen quan niệm
lịch sử toàn cầu là sự tiến bộ trong nhận thức về tự do. Cho dù bản chất của tự do có
được hiểu khác nhau xong việc thừa nhận nó vẫn trở thành một trong những tiêu
chuẩn quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo và về sự công bằng xã hội. Đó chính là lý
do tại sao sự quan tâm của nhiều nhà triết học hiện đại đến học thuyết Hêgen trở
thành sự quan tâm có cơ sở sâu sắc và mang ý nghĩa thiết thực.
Nhưng trong lúc trình bày cuộc tiến hóa một cách trái ngược như thế, Hegel lại
phát triển một cách có hệ thống và đến một mức chưa từng có trong lịch sử, phương
pháp phân tích mâu thuẫn và hình thái biến chuyển, tức là phương pháp biện chứng.
Chính phương pháp này Karl Marx đã xây dựng lại trên cơ sở duy vật, và đặt thành
4
Gá trị và hạn chế trong phép biện chứng của Hegel Tôn Nữ Cảnh Phương
phương pháp tư tưởng của chủ nghĩa duy vật mới. Như Marx nói: “Tuy biện chứng
pháp trong tay Hegel đã bị thần bí hóa, nhưng chính Hegel là người đầu tiên đã trình
bày một cách tổng quát và có ý thức những hình thái biện chứng phổ cập của sự biến
chuyển. Với Hegel biện chứng pháp đi đường đầu. Chúng ta phải lộn nó lại, để bóc
trần cái hạt nhân duy lý ẩn trong cái vỏ thần bí”.
Nhưng vì sao với một lý luận duy tâm triệt để, Hegel lại xây dựng được một
phương pháp tư tưởng xét theo thực chất là chân chính và cách mạng, tuy có bị sử
dụng một cách lộn ngược? Chúng ta biết rằng lập trường duy tâm là lập trường bảo
thủ của những giai cấp áp bức bóc lột: nó quy định tính chất duy tâm của biện chứng
pháp Hegel, nó không thể nào giải thích thực chất biện chứng của phương pháp ấy.
Nghĩa là biện chứng pháp duy tâm của Hegel, phần nào mà nó đã nắm được thực sự
những hình thái mâu thuẫn và biến chuyển, dù chỉ có trong phạm vi tinh thần, thì
cũng không thể nào xuất phát từ lập trường duy tâm. Vì nguồn gốc mâu thuẫn, lý do
biến chuyển trong tinh thần căn bản vẫn là ở thực tế khách quan, không phải là ở tinh
thần thuần túy. Thực chất tinh thần là phản ánh thực tế khách quan, vậy nếu không có
mâu thuẫn và biến chuyển trong thực tế khách quan, thì cũng không thể nào có mâu
thuẫn và biến chuyển trong tinh thần. Trên cơ sở tinh thần thuần túy chỉ có thể có hiện
tượng tĩnh và bảo thủ, không thể nào có động và tiến. Nghĩa là tuy biện chứng pháp
của Hegel xuất hiện với một hình thức triệt để duy tâm, nhưng cái mặt chân chính của
nó - nêu mâu thuẫn trong nội bộ sự việc và tính chất tất nhiên của sự biến chuyển - lại
là đối lập với chủ nghĩa duy tâm, và chỉ có thể bắt nguồn từ một cơ sở duy vật nào
đấy. Thực ra thì ngược hẳn với lập trường duy tâm, nhờ ảnh hưởng của phong trào
cách mạng đương thời ở Âu châu, Hegel đã tiếp thu trong tư tưởng một nội dung duy
vật phong phú, tuy nội dung ấy cũng như phương pháp đã bị hoàn toàn đảo lộn, do
tình trạng lạc hậu của giai cấp tư sản Đức mà Hegel đại diện. Engels nhận định: “Xét
tới cùng, hệ thống triết học của Hegel chỉ là một chủ nghĩa duy vật lộn ngược chân
lên đầu theo kiểu duy tâm”. Trong tập Bút ký về triết học, Lênin phê đoạn cuối của
cuốn Luận lý học của Hegel như sau đây: “Ý niệm luận lý chuyển thành tự nhiên. Chủ
5
Gá trị và hạn chế trong phép biện chứng của Hegel Tôn Nữ Cảnh Phương
nghĩa duy vật đã gần đây rồi. Theo như quan điểm của Engels hệ thống triết học
Hegel là một chủ nghĩa duy vật lộn ngược”.
Vì nội dung tư tưởng Hegel căn bản xuất phát từ thực tế khách quan, xét tới
cùng thì cũng có tính chất duy vật, mà nội dung ấy lại bao quát hầu như toàn bộ lịch
sử thế giới, Hegel đã xây dựng được quan điểm tiến hóa và phương pháp luận lý biện
chứng, quan điểm và phương pháp ấy tuy có bị lập trường duy tâm đảo lộn, nhưng
cũng đã làm tiền đề cho chủ nghĩa Marx. Giới thiệu cuốn Góp phần phê phán kinh tế
chính trị học của Karl Marx, Engels đã viết: “Đặc điểm của phương thức tư tưởng của
Hegel đối với các triết gia khác là quan điểm lịch sử lớn lao làm cơ sở cho nó. Dù
hình thức có trừu tượng và duy tâm đến đâu chăng nữa, quá trình phát triển tư tưởng
bao giờ cũng đi song song với quá trình lịch sử thế giới, lịch sử thế giới hình như
kiểm tra cuộc diễn biến tư tưởng. Và tuy do đấy quan hệ chân chính giữa thực tại và
tư tưởng đã bị đảo ngược đầu xuống chân, nhưng nội dung thực tế của nó cũng đã
thấm nhuần toàn bộ triết học... Hegel là người đầu tiên đã cố gắng chứng minh rằng
lịch sử có đường lối phát triển, có quan hệ liên kết bên trong. Và dù bây giờ chúng ta
có cho nhiều điểm trong triết học lịch sử của ông ta là kỳ quái, nhưng tính chất vĩ đại
của quan niệm cơ bản của triết học ấy, đến ngày nay vẫn còn đáng phục... Cái quan
niệm lịch sử ấy đã đánh dấu một thời đại, và đã làm tiền đề lý luận trực tiếp cho quan
điểm duy vật mới, và do đấy cũng là một khởi điểm cho phương pháp luận lý”.
Marx là người độc nhất có năng lực nêu lên trong triết học Hegel cái hạt nhân
bao gồm những phát kiến chính đáng của Hegel, gạt bỏ cái màn duy tâm và thiết lập
phương pháp biện chứng với hình thức đơn giản và độc nhất đứng đắn để phát triển tư
tưởng”. Và như vậy phép biện chứng Hegel là cơ sở để Max sáng tạo nên công trình
phép biện chứng duy vật. Nói một cách khác Max đã “lộn lại” phép biện chứng duy
tâm của Hegel, thiết lập biện chứng pháp duy vật.
6
Gá trị và hạn chế trong phép biện chứng của Hegel Tôn Nữ Cảnh Phương
2. ĐIỂM HẠN CHẾ TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG CỦA HEGEL
Triết học của Hegel là hệ thống phong phú nhất trong lịch sử triết học trước
Marx. Hegel đã tổng kết hầu như toàn bộ tư tưởng cũ ở Tây phương, trình bày mọi
chủ nghĩa với ý nghĩa lịch sử của nó, bộc lộ những mâu thuẫn nội bộ xuất hiện trong
tư tưởng ở mỗi giai đoạn, những mâu thuẫn ấy bắt phải thủ tiêu hình thái cũ và tiến
lên một trình độ cao hơn. Tuy nhiên, Hegel lại diễn tả quá trình đó một cách trừu
tượng trong phạm vi tinh thần, và do đấy xây dựng chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Quá
trình diễn biến tư tưởng trong tinh thần được coi như là một vận động hoàn toàn độc
lập và tự túc, tách rời cơ sở thực tế khách quan, thậm chí lại phủ định thực tế khách
quan. Theo quan niệm ấy, những sự vật trong tự nhiên và xã hội mất tính chất thực tại
vật chất của nó, và chỉ còn là những hiện tượng bề ngoài phản ánh công cuộc phát
triển thần bí của cái mà Hegel gọi là “Ý niệm tuyệt đối”. Trong cuốn Chống Dühring,
Engels viết: “Hegel là duy tâm, nghĩa là theo ông thì những ý kiến trong đầu óc của
ông không phải là phản ánh một phần nào những thực thể và hiện tượng khách quan,
mà trái lại, chính những thực thể và biến chuyển của chúng, theo ý ông, chỉ là hình
ảnh thể hiện ý niệm, cái ý niệm này đã có ở đâu đâu ấy, trước khi có trần gian”. Nghĩa
là quá trình lịch sử có thật, đi từ tự nhiên lên xã hội, xây dựng tư tưởng trên cơ sở hoạt
động thực tế, bị Hegel đảo lộn thành một quá trình tư tưởng phát sinh thực tại, tinh
thần sáng tạo vật chất: nguyên nhân biến thành kết quả, kết quả trở thành nguyên
nhân, thực chất biến thành ngoại diện, ngoại diện trở thành thực chất, biến tâm trạng
bản ngã chủ quan trong mấy bước đầu của lịch sử tiến hóa nhân loại, từ đời sống động
vật lên xã hội nhân loại nguyên thủy, rồi đến chế độ chiếm hữu nô lệ và sự tan rã của
nó.
3. PHÂN TÍCH NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TRONG TRIẾT HỌC
HEGEL
Để thấy rõ sự khác nhau sâu sắc giữa biện chứng pháp duy vật và biện chứng
pháp duy tâm và tính chất ưu việt tuyệt đối của biện chứng pháp duy vật, đồng thời
nội dung phong phú và tác dụng xây dựng của biện chứng pháp Hegel, chúng ta có
7
Gá trị và hạn chế trong phép biện chứng của Hegel Tôn Nữ Cảnh Phương
thể đi vào từng vấn đề đặc biệt của triết học Hegel và phân tích cụ thể cái căn bản
khoa học chân chính cùng với cái tình trạng lộn ngược của nó. Chúng ta sẽ thấy rằng
chính cái phần chân lý trong ấy cũng phải có vận dụng phương pháp biện chứng duy
vật mới có thể nêu rõ, nhưng mặt khác thì biện chứng pháp Hegel, một khi đã được
lộn lại, lại cung cấp những tài liệu tốt để học tập chủ nghĩa Marx.
Dưới đây là phần giới thiệu đồng thời nên lên những giá trị và phê phán phần
đầu của một chương nổi tiếng rất nhiều, chương IV nhan đề là: “Ý thức Bản ngã -
Chân lý của sự tin tưởng ở mình”. Ý thức bản ngã là ý thức về mình, tin tưởng ở
mình. Ở trình độ cảm tính nó trải qua ba hình thái, theo danh từ Hegel, là: Lòng ham
muốn, Chiến đấu sống chết, Chủ nô và Nô lệ.
3.1 Lòng ham muốn
Theo Hegel: “Ý thức bản ngã chỉ có thể được thỏa mãn trong một ý thức bản
ngã khác” nghĩa là ý thức bản ngã chỉ thấy mình, tin tưởng ở mình, tức là phủ định
tính chất độc lập của đối tượng khách quan. Sự phủ định ấy ở trình độ thấp nhất, trình
độ động vật, thể hiện trong sự ham muốn vật bên ngoài. Lòng ham muốn không thấy
đối tượng khách quan, tức là vật làm mồi, trong cái thực tại độc lập của nó, mà lại cho
nó cũng là mình, rồi lôi cuốn, hấp thu nó vào mình. Nghĩa là ý thức nhằm đối tượng
ham muốn chính là ý thức về mình, ý thức bản ngã, vì chỉ thấy mình trong con vật
kia. Hoạt động thủ tiêu vật làm mồi và đồng hóa nó với mình là bước đầu thực hiện
cái ý nghĩ duy tâm vốn có trong ý thức bản ngã: đối tượng không có thực tại độc lập
mà chỉ là mình thôi.
Do tính chất độc lập của thực tại khách quan, ý thức bản ngã có thể được thỏa
mãn nếu đối tượng tự nó phủ định nó. Nhưng chỉ có một vật có ý thức đầy đủ, tức là
một người, mới có thể tự mình phủ định mình, cụ thể trong lúc công nhận một người
khác. Vì công nhận một người khác chính là hạn chế, có khi thủ tiêu phần của mình.
Phải chuyển lên quan hệ giữa người với người, công nhận cho nhau quyền làm người,
mới có thể giải quyết mâu thuẫn xuất hiện trong lòng ham muốn và thực hiện cái thỏa
8
Gá trị và hạn chế trong phép biện chứng của Hegel Tôn Nữ Cảnh Phương
mãn đầy đủ mà sự ham muốn trực tiếp, ở trình độ động vật, không thể nào đạt được.
Nói tóm lại, người chỉ có thể được thỏa mãn trong một người khác
3.1.1 Giá trị
Chủ nghĩa duy tâm của Hegel cũng không phải là hoàn toàn không có căn cứ.
Vì một khi đối tượng ham muốn đã được xây dựng trên cơ sở kinh nghiệm hưởng thụ
tự phát, do quan hệ thực tế giữa cơ thể và hoàn cảnh gây nên, thì con vật tự nó đi tìm
mồi, bắt và hấp thu: hình như là ý thức chủ quan đây đã quy định sự hoạt động của cơ
thể thủ tiêu đối tượng khách quan. Và xét theo hiện tượng tâm lý bản thân, thì trong
lúc ham muốn, ta cho đối tượng bên ngoài như đã đồng hóa với mình, không đếm xỉa
gì đến tính chất độc lập khách quan của nó, rồi lôi cuốn nó về mình, hấp thu nó vào
mình. Đây là ý thức chủ quan căn bản của lòng ham muốn, mà Hegel đã tiếp thu một
cách trung thành và đem vào công thức triết học. Cái ý thức chủ quan ấy là một hiện
tượng tất yếu trong quá trình phát triển tâm sinh lý. Nó phản ánh hoạt động trực tiếp
tiêu thụ ở trình độ động vật. Lòng ham muốn phủ định tính chất độc lập khách quan
của đối tượng và cho nó cũng là mình, chính là lập lại trong ý thức cái kinh nghiệm
động vật thủ tiêu đối tượng và hấp thu nó vào mình
Tuy nhiên, một khi quan hệ “công nhận” lẫn nhau đã được xây dựng trong xã
hội loài người, cái biện chứng pháp mà Hegel trình bày xuất hiện như một “kinh
nghiệm” chủ quan trong tinh thần: người ta thấy rằng vấn đề căn bản không phải là
theo đuổi liên miên những đối tượng ham muốn, mà là được công nhận giá trị làm
người. Chính các kinh nghiệm này là cơ sở trên ấy các triết gia đời xưa đã phát triển
tư tưởng chán nản sự đời, đòi vượt ra khỏi phạm vi thế giới ham muốn của người
phàm tục, vì lòng ham muốn là vô cùng tận, vậy không bao giờ có thể thực sự được
thoả mãn. Theo họ, thì người ta chỉ có thể được thoả mãn hoàn toàn nếu được công
nhận một giá trị tuyệt đối, ngoài trần gian. Trước cái giá trị tuyệt đối ấy thì những
người khác phải quy phục, “tự mình phủ định mình”. Lịch sử tôn giáo và huyền học
chứng minh rằng các hiện tượng lộn ngược diễn tả trong biện chứng pháp duy tâm của
Hegel là một hiện tượng có thật.
9
Gá trị và hạn chế trong phép biện chứng của Hegel Tôn Nữ Cảnh Phương
3.1.2 Hạn chế
Trên đây Hegel đã mô tả tâm trạng một cách hoàn toàn chủ quan, do đấy quá
trình biện chứng chân chính xuất hiện với một hình thức lộn ngược.
Vì theo cách Hegel trình bày, hoạt động sinh vật, thủ tiêu vật làm mồi và đồng
hóa nó với mình, chỉ là thực hiện cái ý nghĩa vốn có trong ý thức bản ngã, phủ định
đối tượng bên ngoài và cho nó cũng là mình. Tức là hiện tượng sinh vật khách quan,
theo Hegel, lại xuất phát từ tâm trạng chủ quan của lòng ham muốn: sở dĩ con vật bắt
và hấp thu một thức ăn, chính là vì nó muốn cái thức ăn ấy. Rõ ràng như thế là đảo lộn
thứ tự thực tế. Vì thực ra thì trước khi ham muốn, cũng đã phải có kinh nghiệm hưởng
thụ. Nếu chưa có kinh nghiệm hưởng thụ, thì cũng chưa biết đối tượng nào mà ham
muốn. Mà kinh nghiệm hưởng thụ xét tới cùng là bắt nguồn từ một quá trình tự phát
trong vật thể, trong những quan hệ khách quan hỗ tương tác dụng giữa cơ thể và hoàn
cảnh. Một con vật gặp một thức ăn, buổi đầu thì vì đói mà ăn, sau kinh nghiệm ấy rồi
mới biết đi tìm thức ăn kia. Nghĩa là điều kiện sinh sống khách quan, gây nên kinh
nghiệm hưởng thụ, là cơ sở thực tế trên ấy phát triển những phản xạ có điều kiện quy
định đối tượng làm mồi, tức là đối tượng ham muốn. Vậy lòng ham muốn xuất phát từ
quan hệ sinh vật khách quan chứ không phải là quan hệ sinh vật xuất phát từ lòng ham
muốn.
Tuy nhiên, chủ nghĩa duy tâm của Hegel cũng không phải là hoàn toàn không
có căn cứ. Vì một khi đối tượng ham muốn đã được xây dựng trên cơ sở kinh nghiệm
hưởng thụ tự phát, do quan hệ thực tế giữa cơ thể và hoàn cảnh gây nên, thì con vật tự
nó đi tìm mồi, bắt và hấp thu: hình như là ý thức chủ quan đây đã quy định sự hoạt
động của cơ thể thủ tiêu đối tượng khách quan. Và xét theo hiện tượng tâm lý bản
thân, thì trong lúc ham muốn, ta cho đối tượng bên ngoài như đã đồng hóa với mình,
không đếm xỉa gì đến tính chất độc lập khách quan của nó, rồi lôi cuốn nó về mình,
hấp thu nó vào mình. Đây là ý thức chủ quan căn bản của lòng ham muốn, mà Hegel
đã tiếp thu một cách trung thành và đem vào công thức triết học. Cái ý thức chủ quan
ấy là một hiện tượng tất yếu trong quá trình phát triển tâm sinh lý. Nó phản ánh hoạt
10
Gá trị và hạn chế trong phép biện chứng của Hegel Tôn Nữ Cảnh Phương
động trực tiếp tiêu thụ ở trình độ động vật. Lòng ham muốn phủ định tính chất độc lập
khách quan của đối tượng và cho nó cũng là mình, chính là lập lại trong ý thức cái
kinh nghiệm động vật thủ tiêu đối tượng và hấp thu nó vào mình. Nhưng một khi cái
cơ cấu tâm lý đã được xây dựng, nó lại phát triển một cách tương đối tự chủ trong
phạm vi của nó, và hình như là chính cái ý thức chủ quan, phủ định tính chất độc lập
khách quan của đối tượng, lại gây ra cái hoạt động sinh vật thực tế thủ tiêu vật làm
mồi. Vì thế mà Hegel cho rằng hoạt động sinh vật khách quan chỉ là thực hiện cái ý
nghĩa sẵn có từ trước trong ý thức bản ngã c