Chính sách được xác định như là đường lối hành động mà Chính phủ lựa chọn
đối với một lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả các mục tiêu mà Chính phủ tìm kiếm và sự
lựa chọn các phương pháp để theo đuổi các mục tiêu đó. [3; trang 10]
Chuyên đề này đề cập tới những vấn đề lý luận cơ bản về hoạch định chính sách
như bản chất của hoạch định ch ính sách, cơ sở của hoạch định chính s ách, yêu cầu
và điều kiện hoạch định chính s ách, phân loại chính sách, côn g cụ và trình tự hoạch
định chính s ách, trong đó có đi sâu vào lĩnh vực nông nghiệp. Đây là n hững vấn đề
lý luận không thể thiếu, giúp cho người nghiên cứu có những nhận thức đầy đủ và
chuẩn mực về bản chất hoạch định chính sách kinh tế nói chung và chính s ách nông
nghiệp nói riêng .
22 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2789 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hoạch định chính sách nông nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề 2: Hoạch định chính sách nông nghiệp
Tiểu luận
Hoạch định chính sách
nông nghiệp
1
Chuyên đề 2: Hoạch định chính sách nông nghiệp
PHẦN 1: GIỚI THIỆU
Chính sách được xác định như là đường lối hành động mà Chính phủ lựa chọn
đối với một lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả các mục tiêu mà Chính phủ tìm kiếm và sự
lựa chọn các phương pháp để theo đuổi các mục tiêu đó. [3; trang 10]
Chuyên đề này đề cập tới những vấn đề lý luận cơ bản về hoạch định chính sách
như bản chất của hoạch định chính sách, cơ s ở của hoạch định chính sách, yêu cầu
và điều kiện hoạch định chính sách, phân loại chính sách, công cụ và trình tự hoạch
định chính sách, trong đó có đi sâu vào lĩnh vực nông nghiệp. Đây là những vấn đề
lý luận không thể thiếu, giúp cho người nghiên cứu có những nhận thức đầy đủ và
chuẩn mực về bản chất hoạch định chính sách kinh tế nói chung và chính sách nông
nghiệp nói riêng.
Hoạch định chính sách là khâu thứ hai trong một chu trình chính sách, là cầu
nối trung gian đưa ra những giải pháp để thực thi chính sách từ vấn đề đã được xác
định trong thực tế cần giải quyết, ta có thể hình dung theo sơ đồ cơ bản sau đây:
Xác định vấn đề
Hoạch định Thực thi
chính sách
chính sách chính sách
Phát Duy trì
hiện mâu Phân tích chính
thuẫn chính sách sách
Đánh giá chính sách
Sơ đồ chu trình chính sách [7; trang 9]
2
Chuyên đề 2: Hoạch định chính sách nông nghiệp
PHẦN 2: NỘI DUNG
Ở phần này có 7 nội dung chính cần nghiên cứu, nhóm chúng tôi lược
khảo chủ yếu từ Giáo trình Chính sách nông nghiệp của tác giả Phạm Vân
Đình (2009 ) và một số tài liệu liên quan, trong đó có đưa ra một số ví dụ minh
chứng để trình bày, từ đó giúp chúng ta có một nhận định chi tiết hơn về vấn
đề hoạch định chính sách nông nghiệp.
2.1. KHÁI NIỆM VỀ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP [2;
trang 14-15]
Hoạch định chính sách có thể hiểu là quá trình hình thành và cho ban hành một
chính sách. Quá trình đó phải trải qua một loạt hoạt động kế tiếp có liên quan mật thiết
với nhau từ những ý tưởng cho ra đời một chính sách đến việc lựa chọn các nội dung
cần thiết trong văn bản chính sách, xây dựng các quy định trong văn bản chính sách và
tổ chức triển khai thực hiện chính sách. Tập hợp các hoạt động đó chính là hoạch
định chính sách.
Các hoạt động trong hoạch định chính sách được chia thành các nhóm sau:
- Nhóm hoạt động để hình thành những ý tưởng cho ra đời một chính sách.
- Nhóm hoạt động về soạn thảo những nội dung cụ thể của chính sách (những
quy định trong văn bản chính sách).
- Nhóm hoạt động tổ chức ban hành chính sách.
Những ý tưởng của một chính sách được hình thành rõ nét dần, đầy đủ và hoàn
chỉnh dần. Để đạt được điều đó cần trả lời một loạt câu hỏi sau:
- Cần đưa ra chính sách gì?
- Tại sao lại phải đưa ra chính sách đó trong lúc này?
- Mức độ cấp thiết của việc ban hành chính sách đó?
- Đối tượng chịu tác động của chính sách đó là ai?
- Ý nghĩa và tác dụng của chính sách đó?
- Những mặt được hoặc mất khi ban hành chính sách đó?
- Vị trí của chính sách đó trong hệ thống chính sách chung như thế nào?
3
Chuyên đề 2: Hoạch định chính sách nông nghiệp
- Đó là chính sách mục tiêu hay hỗ trợ? …
Thực chất mọi câu hỏi trên đều tập trung vào việc giải thích về tính cần thiết
của chính sách đó. Trên cơ s ở hình thành thực tế phát triển nông nghiệp, cần đưa ra
được các chính sách nhằm cải thiện tình hình, thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp.
Từ một khía cạnh khác, cần thấy được các điều kiện đảm bảo cho việc thực thi chính
sách đó. Các ý tưởng cho ra đời một chính sách thường bắt nguồn từ chiến lược phát
triển kinh tế nói chung, định hướng và tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát
triển trong guồng máy vận hành chung của nền kinh tế. Khi đưa ra những ý tưởng bao
giờ người ta đã cân nhắc đến sự thành công và rủi ro của một chính sách.
Nội dung cụ thể của một chính sách bao gồm các vấn đề s au: Những mục
tiêu cần đạt được của Chính sách (bao gồm cả mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn)
và các điều khoản quy định trong văn bản. Đó là các quy định mang tính pháp lý trong
khuôn khổ chính sách, là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong
thực tiễn. Bên cạnh các quy định về định tính, trong một số điều khoản cụ thể có thể
có các quy định về định lượng. Các quy định này phải thực sự chuẩn mực, đại diện vì
một lợi ích chung và được sắp xếp một cách logic. Vì các quy định này ảnh hưởng trực
tiếp đến các lợi ích kinh tế của các đối tượng thực hiện chính sách nên cần hết sức thận
trọng trong việc cân nhắc, không được tùy tiện trong việc đưa ra các quy định và mức
độ định lượng trong các quy định.
Trong khi lựa chọn, tính toán cần có những dự tính cho tương lai sau khi ban
hành chính sách. Điều quan trọng là phải dự báo được phản ứng nhạy cảm của các đối
tượng thực hiện chính sách đối với các quy định đó, tức là phải đưa ra các quy định có
tính chất thiết thực để chính sách đi vào cuộc sống. Ngoài ra trong các văn bản chính
sách còn có các quy định về đối tượng chịu tác động của chính sách và điều khoản thi
hành, nói rõ cách tổ chức thực hiện chính sách. Trong một số chính sách có thể có quy
định về bãi bỏ một số quy định không thích hợp đã ban hành trước đó.
Sau khi đã có văn bản chính sách, việc làm tiếp theo không kém phần quan
trọng là tổ chức ban hành và chỉ đạo thực hiện chính sách đó như thế nào. Hoạt
động này sẽ đưa chính sách vào cuộc sống. Làm cho các đối tượng hiểu được tinh thần
của chính sách và làm đúng chính sách là yêu cầu cuối cùng của hoạt động này. Trong
chừng mực nhất định có thể thấy ngay được tác động của chinh sách qua phản ứng
4
Chuyên đề 2: Hoạch định chính sách nông nghiệp
nhạy cảm của các đối tượng thực hiện chính sách. Đương nhiên hoạt động này liên
quan tới sự hiểu biết và trình độ chỉ đạo thực hiện chính sách của người chỉ đạo.
Nhóm hoạt động này bao gồm một loạt công việc cụ thể sau:
- Xác định vị trí của chính sách mới công bố trong hệ thống chính sách nói chung;
- Xác định hiệu lực của chính sách về mặt thời gian;
- Xác định đối tượng chịu tác động của chính sách;
- Quy định nhiệm vụ của các Bộ/ Ngành chức năng trong việc chỉ đạo thực hiện
chính sách;
- Tổ chức mạng lưới các cơ quan chức năng trong việc chỉ đạo thực hiện
chính sách;
- Tổ chức triển khai các đối tượng của chính sách hiểu biết và thực h iện
chính sách;
- Chế tài xử lý các trường hợp vi phạm chính sách,…
2.2. CĂN CỨ ĐỂ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP
2.2.1. Định hướng phát triển lâu dài của nông nghiệp
Chính sách là một công cụ đắc lực của Chính phủ trong việc tổ chức quản lý
điều khiển sự phát triển nền kinh tế (trong đó có lĩnh vực nông nghiệp). Như vậy,
thông qua hệ thống chính sách, Nhà nước can thiệp vào việc phát triển nông nghiệp,
nông thôn theo những mục tiêu nhất định. [6; trang 33]
Cơ sở trước tiên và là mục tiêu theo đuổi của chính sách nông nghiệp là nông
nghiệp cần được phát triển theo những mục tiêu dài hạn. Tùy thuộc vào quan điểm
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia mà có những mục tiêu chiến lược phát triển nông
nghiệp khác nhau.
Ở các nước đang phát triển, mặc dù hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp nhưng
Chính phủ vẫn theo đổi những mục tiêu rất khó khăn đối với nông nghiệp là an ninh
lương thực, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và đặc sản cho xuất khẩu.
5
Chuyên đề 2: Hoạch định chính sách nông nghiệp
Ở nước ta, tập trung sức lực thoát khỏi tình trạng lạc hậu, độc canh lúa, tự cấp
tự túc, tiến tới một nền nông nghiệp hàng hóa đa canh, chuyên môn hóa, hiện đại, hiệu
quả cao là chủ trương phát triển lâu dài cho ngành nông nghiệp. [2; trang 16]
Chính sách khuyến nông ở nước ta có từ rất sớm trong lịch sử phát triển nông
nghiệp. Từ khi có Chỉ thị 100/CT (1981) và đặc biệt là sau Nghị quyết 10-NQ/TW của
Bộ Chính trị khóa VI ngày 05 tháng 4 năm 1988 về đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp là bước quan trọng mở đầu thời kỳ đổi mới. Để thể hiện và đưa những tư tưởng
quan điểm của Nghị quyết này vào cuộc sống, hàng loạt các chủ trương và chính sách
của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã được ban hành. [6;
trang 47]
Và gần đây nhất, tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá X đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tiếp tục xác định nông nghiệp, nông dân
và nông thôn là chiến lược lâu dài của quốc gia.
2.2.2. Thực trạng về những vấn đề cần tháo gỡ đối với sản xuất nông nghiệp
Ngoài định hướng cho sự phát triển lâu dài, chính sách phải thường xuyên tháo
gỡ những khó khăn cản trở sự phát triển bình thường của nền kinh tế, nhất là đối với
nông nghiệp. Vì ngành nông nghiệp phải thường xuyên chịu tác động của tự nhiên và
thị trường do tính cung muộn của nó. Chính sách nông nghiệp vừa giải quyết các vấn
đề về kinh tế, vừa đụng đến các ngóc ngách trì trệ của đời sống kinh tế - xã hội nông
thôn như: phong tục tập quán sản xuất lạc hậu, tâm lý tư hữu của người tiểu nông. Vì
vậy, chính sách đưa ra phải dựa vào các vấn đề nảy sinh cần giải quyết để thúc đẩy sự
phát triển. [2; trang 16]
Thực tế phát triển nông nghiệp hàng hóa định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
từ một nền nông nghiệp lạc hậu, chưa có tiền lệ trong lịch sử, là một quá trình lâu dài
và phức tạp, khó khăn. Trong quá trình ấy, phải kết hợp chặt chẽ chính sách kinh tế
với chính sách xã hội. [1; trang 304]
2.2.3. Ảnh hưởng của các tác động khách quan [2; trang 16]
Nông nghiệp chịu tác động lớn của các điều kiện ngoại cảnh điển hình như:
điều kiện tự nhiên, chiến tranh và sản lượng nước ngoài.
6
Chuyên đề 2: Hoạch định chính sách nông nghiệp
- Điều kiện tự nhiên: ảnh hưởng đến kết quả thu hoạch mùa màng cùng với sự
bất lực của nông dân trước thiên tai hay rủi ro thị trường đều đòi hỏi sự có mặt của các
chính sách hỗ trợ nông nghiệp. Do vậy, diễn biến phức tạp của điều kiện tự nhiên là
một căn cứ không thể thiếu khi đưa ra các chính sách về nông nghiệp.
- Chiến tranh: chiến tranh đã gây ảnh hưởng lớn đến cục diện phát triển kinh tế
của đất nước. Chẳng hạn, hai cuộc chiến tranh chống Mỹ và Pháp đã làm tổn hại về
sức người, sức của và để lại những hậu quả nặng nề cho đất nước và sự phân tán về
nhiệm vụ và chiến lược,…là những mất mát mà VN phải gánh chịu.
- Ngoại thương: ngoại thương có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh
tế, nhất là đối với những nền kinh tế hội nhập cao, vì kinh tế của các nước hội nhập
đều là một mắc xích trong hệ thống kinh tế thế giới. Từ đó, mỗi một biến động về kinh
tế, chính trị trên thế giới đều trực tiếp ảnh hưởng đối với một nền kinh tế mở. Do vậy,
việc đưa ra các chính sách phát triển kinh tế, trong đó có nông nghiệp cũng cần tính
đến ảnh hưởng của yếu tố ngoại thương.
2.2.4. Sức mạnh kinh tế của đất nước [2; trang 17]
Sức mạnh kinh tế của đất nước thể hiện ở sự vững mạnh về cơ sở hạ tầng, sự
dồi dào của ngân sách Nhà nước, nguồn dự trữ thực phẩm, vật tư và ngoại tệ mạnh
cũng như quy mô GDP của đất nước. Chính phủ sử dụng sức mạnh kinh tế như một
công cụ hữu hiệu trong việc cải biến nền kinh tế và thực hiện những nhiệm vụ
chiến lược (trong đó có nông nghiệp) nhằm hỗ trợ cho sản xuất, đặc biệt đối với
nông nghiệp.
2.2.5. Khả năng tiếp nhận chính sách của các đối tượng chịu tác động [2;
trang 17]
Mọi chính sách đưa ra đều nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất nên có thể
nói rằng, thành công của một chính sách thể hiện ở sự hưởng ứng tích cực của các đối
tượng chịu tác động. Trên thực tế có rất nhiều kiểu phản ứng với chiều hướng và mức
độ khác nhau của các đối tượng chịu tác động. Cụ thể, trình độ dân trí là một căn cứ
quan trọng trong quá trình hoạch định chính sách vì nó giúp người dân hiểu và có
những quyết định hợp lý đúng đắn đối với chính sách của Chính phủ. Vì vậy, cần tính
đến khả năng tiếp nhận chính sách của các đối tượng chịu tác động để đưa ra các chính
sách với nội dung và mức độ quy định phù hợp.
2.2.6. Trình độ phát triển của kỹ thuật và công nghệ [2; trang 18]
7
Chuyên đề 2: Hoạch định chính sách nông nghiệp
Yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sản xuất trong nông nghiệp là kỹ thuật. Vì vậy, hệ
thống chính sách đương thời phải tiếp cận được trình độ kỹ thuật và công nghệ.
2.3. YÊU CẦU CỦA CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP
2.3.1. Tính khoa học [2; trang 18]
- Tính khoa học là yêu cầu trước tiên khi hoạch định chính sách nông nghiệp.
Bởi v ì:
+ Chính sách nông nghiệp thể hiện sự lựa chọn cân nhắc của Chính phủ nhằm
hướng nền nông nghiệp phát triển theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
+ Chính sách nông nghiệp chứa đựng các quy định nhằm giải quyết các vấn đề
đặt ra trong thực tiễn.
+ Văn bản chính sách là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp giữa các
đối tượng chịu tác động của chính sách,… Với phạm vi tác động rộng rãi, liên quan
đến lợi ích của đông đảo dân cư, các chính sách nông nghiệp càng cần bảo đảm tính
khoa học.
- Trước hết tính khoa học của chính sách thể hiện ở quan điểm tiến bộ trong văn
bản chính sách.
Tính khoa học yêu cầu chính sách phải đáp ứng xu hướng phát triển tiến bộ của
nông nghiệp, phải hướng nền nông nghiệp vào “quỹ đạo” phát triển theo quy luật
khách quan của nó, tránh áp đặt của các ý tưởng chủ quan duy ý chí không dựa trên cơ
sở khoa học đúng đắn. Thực tế đã chứng tỏ rằng mọi việc làm trái quy luật đều gây
nên những hậu quả khôn lường.
- Tính khoa học còn thể hiện ở sự chặt chẽ trong các văn bản chính sách. Các
điều khoản trong văn bản phải được trình bày rõ ràng, được sắp xếp theo một trật tự
logic và đặc biệt là phải ngắn gọn, dễ hiểu.
Nếu văn bản không rõ ràng, người ta có thể vì hiểu sai mà vô tình vi phạm
chính sách và cũng không loại trừ khả năng một số người cố tình lợi dụng các “kẻ hở”
trong văn bản chính sách để mưu cầu lợi ích riêng của mình, làm phương hại đến lợi
ích cộng đồng.
8
Chuyên đề 2: Hoạch định chính sách nông nghiệp
Tóm lại, tính khoa học có thể được coi là định hướng ý tưởng của một chính
sách và chi phối toàn bộ các khâu trong quá trình hoạch định chính sách.
2.3.2. Tính thực tiễn [2; trang 19]
Một chính sách đưa ra không thể tách rời với thực tiễn cuộc sống. Chính
sách phải phù hợp với tình hình thực tiễn là một yêu cầu bảo đảm cho tính khả thi
của nó.
Tính thực tiễn đòi hỏi phải vận dụng s áng tạo những kinh nghiệm phong phú
từ những hoàn cảnh thực tế khác nhau, không thể rập khuôn máy móc trong khi giải
quyết vấn đề.
Xa rời thực tế (hay lý thuyết suông) sẽ gây khó khăn trong chỉ đạo thực
hiện và không mang lại kết quả hoạt động thiết thực. Trong điều kiện kinh tế hội
nhập phải rất chú ý khi vận dụng kinh nghiệm từ bên ngoài và trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường phải kiên quyết đoạn tuyệt với tư tưởng chủ
quan duy ý chí.
Ví dụ: Xuất phát từ thực tiễn một số địa phương đầu nguồn vùng đồn g
bằng song Cửu Long hàng năm đều bị ngập lũ, để giúp cho người dân sống
trong vùng lũ ổn định cuộc sống, an tâm sản xuất, tạo điều kiện phát triển kinh
tế, Thủ tướng Chính phủ đã chủ trương triển khai Chương trình cụm tuyến dân
cư và nhà ở vùng ngập lũ, trong đó đã ban hành Quyết định 105/2002/QĐ-TTg
về chính sách hỗ trợ các hộ dân mua nền nhà trong các cụm, tuyến dân cư.
Chính sách này đã tạo điều kiện cho các hộ dân thường trú tại vùng ngập lũ
thường xuyên thuộc các tỉnh: An Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang,
Kiên Giang , Cần Thơ, Vĩnh Long được mua trả chậm nền nhà và nhà ở trong
các cụm, tuyến dân cư theo quy hoạch để đảm bảo có cuộc sống an toàn, ổn định
lâu dài.
2.3.3. Tính quần chúng [6; trang 46]
Chính sách đóng vai trò quan trọng và là yếu tố bao trùm có tác động mạnh mẽ
bảo đảm sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và phát
triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Chính sách đưa ra vì lợi ích của quần chúng,
9
Chuyên đề 2: Hoạch định chính sách nông nghiệp
cần được sự hưởng ứng của đông đảo quần chúng. Quần chúng sẽ hưởng ứng cao khi
nguyện vọng của họ được đáp ứng và từ chối tiếp nhận khi thấy chính sách đó không
đem lại lợi ích gì cho họ.
Tập hợp được sức mạnh của quần chúng là mong muốn của Chính phủ. Với các
phản ứng tích cực, sức mạnh đó có thể “dời non lấp biển”, nhưng sự hờ hững của quần
chúng cũng là những điều đáng sợ, tạo nên sức ỳ, làm kéo dài tình trạng trì trệ của nền
kinh tế. “Dân biết, dân đề xuất, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân hưởng” phải trở
thành phương châm hành động trong việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện chính sách.
[2; trang 19]
Chính sách đúng đắn, hợp lòng dân sẽ tạo ra động lực và phát huy nội lực của
người lao động, cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế tham gia tích cực vào
phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với nhịp độ
nhanh và ổn định. [6; trang 46]
2.3.4. Tính đồng bộ
Một vấn đề thực tế thường được giải quyết qua một hệ thống chính sách và việc
chỉ đạo thực hiện một chính sách thường liên quan tới nhiều Bộ/Ngành. Vì vậy, cần
nhìn nhận một cách toàn diện để có hệ thống chính sách phù hợp và cần có sự nhất
quán trong chỉ đạo của các Bộ/Ngành có liên quan đối với tất cả các nội dung, các
công đoạn trong từng thời điểm của một chính sách.
Từ đó ta nhận thấy sự cân nhắc kỹ lưỡng về một hệ thống chính sách ban
hành cũng như việc xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các Bộ/Ngành và cơ chế
kết hợp giữa các Bộ/Ngành trong quá trình hoạch định, chỉ đạo thực hiện chính sách là
những bảo đảm cần thiết cho tính đồng bộ của chính sách. [2; trang 19]
Đặc biệt, đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực rộng lớn, bao gồm
một tổ hợp ngành: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Bởi vậy,
chính sách nông nghiệp, nông thôn không chỉ là chính sách đơn thuần về nông nghiệp,
nông thôn mà là các chính sách, các biện pháp tác động vào tất cả các lĩnh vực, các
ngành có liên quan đến nông nghiệp, nông thôn. Do đó, phải có sự phối hợp đồng bộ
giữa các bộ ngành từ hoạch định, đến chỉ đạo thực hiện chính sách. [6; trang 34-35]
2.3.5. Tính thời điểm [2; trang 20]
10
Chuyên đề 2: Hoạch định chính sách nông nghiệp
Việc ban hành chính sách đúng thời điểm là một yêu cầu tình thế. Mỗi chính
sách dù tiến bộ đến đâu cũng chỉ thích hợp cho những thời kỳ nhất định và nó sẽ mất
đi tác dụng vào những thời gian không thích hợp (chính sách cho ra đời quá sớm, các
điều kiện thực hiện chính sách chưa có hoặc chậm cho ra đời một chính sách cần thiết
sẽ làm cho tình trạng trì trệ kéo dài, làm mất đi các cơ hội trong phát triển kinh tế).
Vậy thế nào là đúng thời điểm khi cho ra đời một chính sách? Yêu cầu ở đây
không phải là cần ban hành thường xuyên các chính sách mỗi khi có một hiện tượng
kinh tế xảy ra. Một chính sách mới chỉ xuất hiện khi các điều kiện ra đời của nó đã
chín muồi và chính sách mới ra đời sẽ có tác động làm xoay chuyển tình hình.
Sự đúng đắn về thời điểm ban hành chính sách chỉ được đánh giá sau khi chính
sách đó được ban hành, do đó cần xem xét thận trọng.
Mặc dù sự chuyển biến của nông nghiệp thường chậm hơn so với các lĩnh vực
khác, nhiều chính sách kinh tế không phát huy tức thì nhưng ban hành chính sách đúng
thời điểm sẽ đáp ứng kịp thời yêu cầu của sản xuất nông nghiệp; đặc biệt là các chính
sách giá trần đối với vật tư kỹ thuật nông nghiệp và chính sách giá sàn đối với nông sản.
2.3.6. Tính hoàn thiện [2; trang 20]
Hoàn thiện chính sách là một vấn đề tất yếu bởi vì:
- Một chính sách chỉ phát huy tác dụng trong những điều kiện cụ thể, khi điều
kiện kinh tế xã hội biến đổi cần có các chính sách khác thay thế. Như vậy, một chính
sách chỉ có thể giải quyết một khâu trong một chuỗi liên tiếp các khâu cần giải quyết.
- Có thể phải điều chỉnh những điều chưa thực sự chuẩn mực trong một s ố