Đất nước Việt Nam với một thời gian dài bị chiến tranh tàn phá, sau ngày thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhân dân ta bước vào công cuộc xây dựng đất nước đi lên Chủ nghĩa xã hội với một nền nông nghiệp lạc hậu và bao nhiêu là tàn tích của chiến tranh để lại, bên cạnh đó nước ta còn phải bị sự bao vây cấm vận của các thế lực thù địch hòng chống phá để làm suy yếu công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhìn lại qúa trình cách mạng Nhân dân ta đã cống hiến không biết bao nhiêu là công sức để đổi lấy lại Độc lập Tự do cho dân tộc.
Ngày nay từ quá độ đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội là một qúa trình dài có thể nói đầy gian nan thử thách với một nền kinh tế nhiều thành phần đang vận hành theo cơ chế thị trường và với xu thế hội nhập kinh tế thế giới có thể nói đây là thời cơ song nó cũng là nguy cơ thách thức.
Từ những vấn đề nêu trên trong khi đất nước ta đang trong quá độ và cũng là trong qúa trình xây dựng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Vì thế đòi hỏi khách quan đặc ra là phải có đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhà nước và sự đóng góp của Nhân dân từ mọi phương diện. Nhằm tạo thành một sức mạnh tổng hợp để thực hiện thành công định hướng đề ra. Vì thế trong mỗi công cuộc cách mạng thì vai trò quần chúng Nhân dân là vấn đề cực kỳ quan trọng.
Học thuyết Mác- Lênin là thế giới quan khoa học là phương pháp luận cho con người về thế giới. Với một phương pháp biện chứng và khoa học đã chỉ rõ quần chúng Nhân dân là một lực lựơng sản xuất vật chất sáng tạo. Các giá trị văn hoá tinh thần là lực lượng cơ bản cho mỗi cuộc cách mạng xã hội. Đó là cơ sở lý luận khoa học giúp cho các Đảng giai cấp vô sản nhận thức và xây dựng một đường lối đúng đắn trong mỗi công cuộc cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh Người sáng lập và tôi luyện Đảng ta lúc còn sống hoạt động cách mạng Người thường dạy “ Dễ trăm lần không dân cũng khó, khó vạn lần dân liệu cũng song”.
Ngày nay trong qúa trình đổi mới. Đường lối của Đảng ta nhất quán không định Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xác định mục tiêu đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội là vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Chính vì những vấn đề đã như nêu trên một lần nữa Đảng ta đã khẳng định con đường và mục tiêu cao cả mà Đảng ta và Nhân dân đã chọn. Xác định rõ sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân.
Xuất phát từ học thuyết Mác- Lênin về con người, về vai trò quần chúng Nhân dân là một vấn đề cực kỳ quan trọng có ý nghĩa cho việc đề ra các chủ trương nghị quyết của Đảng và nhà nước. Vấn đề cơ bản là phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân, do dân, vì dân. Và phải Xác định rằng Nhân dân là nền tảng là động lực là lực lượng cơ bản cho mỗi qúa trình cách mạng.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng như đã nêu trên. Từ nhận thức của bản thân tôi chọn đề tài này viết Tiểu luận nhằm nâng cao cho bản thân về tư duy nhận thức, hiểu rõ hơn nữa những quan điểm đường lối của Đảng ta về nguồn lực con người, về sự nghiệp cách mạng của quần chúng Nhân dân và khẳng định rằng Bài học “ Lấy dân làm gốc” của Đảng ta một quan điểm toàn diện có tác động to lớn cho trước mắt và lâu dài xuyên suốt trong qúa trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
23 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 15359 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Học thuyết Mác - Lênin về con người và vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỠ ĐẦU
Đất nước Việt Nam với một thời gian dài bị chiến tranh tàn phá, sau ngày thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhân dân ta bước vào công cuộc xây dựng đất nước đi lên Chủ nghĩa xã hội với một nền nông nghiệp lạc hậu và bao nhiêu là tàn tích của chiến tranh để lại, bên cạnh đó nước ta còn phải bị sự bao vây cấm vận của các thế lực thù địch hòng chống phá để làm suy yếu công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhìn lại qúa trình cách mạng Nhân dân ta đã cống hiến không biết bao nhiêu là công sức để đổi lấy lại Độc lập Tự do cho dân tộc.
Ngày nay từ quá độ đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội là một qúa trình dài có thể nói đầy gian nan thử thách với một nền kinh tế nhiều thành phần đang vận hành theo cơ chế thị trường và với xu thế hội nhập kinh tế thế giới có thể nói đây là thời cơ song nó cũng là nguy cơ thách thức.
Từ những vấn đề nêu trên trong khi đất nước ta đang trong quá độ và cũng là trong qúa trình xây dựng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Vì thế đòi hỏi khách quan đặc ra là phải có đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhà nước và sự đóng góp của Nhân dân từ mọi phương diện. Nhằm tạo thành một sức mạnh tổng hợp để thực hiện thành công định hướng đề ra. Vì thế trong mỗi công cuộc cách mạng thì vai trò quần chúng Nhân dân là vấn đề cực kỳ quan trọng.
Học thuyết Mác- Lênin là thế giới quan khoa học là phương pháp luận cho con người về thế giới. Với một phương pháp biện chứng và khoa học đã chỉ rõ quần chúng Nhân dân là một lực lựơng sản xuất vật chất sáng tạo. Các giá trị văn hoá tinh thần là lực lượng cơ bản cho mỗi cuộc cách mạng xã hội. Đó là cơ sở lý luận khoa học giúp cho các Đảng giai cấp vô sản nhận thức và xây dựng một đường lối đúng đắn trong mỗi công cuộc cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh Người sáng lập và tôi luyện Đảng ta lúc còn sống hoạt động cách mạng Người thường dạy “ Dễ trăm lần không dân cũng khó, khó vạn lần dân liệu cũng song”.
Ngày nay trong qúa trình đổi mới. Đường lối của Đảng ta nhất quán không định Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xác định mục tiêu đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội là vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Chính vì những vấn đề đã như nêu trên một lần nữa Đảng ta đã khẳng định con đường và mục tiêu cao cả mà Đảng ta và Nhân dân đã chọn. Xác định rõ sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân.
Xuất phát từ học thuyết Mác- Lênin về con người, về vai trò quần chúng Nhân dân là một vấn đề cực kỳ quan trọng có ý nghĩa cho việc đề ra các chủ trương nghị quyết của Đảng và nhà nước. Vấn đề cơ bản là phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân, do dân, vì dân. Và phải Xác định rằng Nhân dân là nền tảng là động lực là lực lượng cơ bản cho mỗi qúa trình cách mạng.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng như đã nêu trên. Từ nhận thức của bản thân tôi chọn đề tài này viết Tiểu luận nhằm nâng cao cho bản thân về tư duy nhận thức, hiểu rõ hơn nữa những quan điểm đường lối của Đảng ta về nguồn lực con người, về sự nghiệp cách mạng của quần chúng Nhân dân và khẳng định rằng Bài học “ Lấy dân làm gốc” của Đảng ta một quan điểm toàn diện có tác động to lớn cho trước mắt và lâu dài xuyên suốt trong qúa trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Trên cơ sở đó bản thân sẽ ra sức phấn đấu hơn nữa góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước nói chung và nói riêng là ở địa phương cơ sở. Trong việc phát triển kinh tế xã hội xây dựng đời sống Nhân dân.
PHẦN 1
HỌC THUYẾT MÁC- LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ.
1. Quan điểm học thuyết Mác- Lênin về con người.
Việc luận giải về con người cũng như vai trò quần chúng Nhân dân trong lịch sử nó đã trở thành vấn đề tranh luận giữa các trường phái triết học.
Sự tạo hoá con người được hình thành từ đâu, quan niệm thế nào về cuộc sống trong mối quan hệ giữa tư nhân và xã hội, con người có cải tạo được thế giới hay không và sự nhận thức của họ thế nào đấy là vấn đề mà các nhà triết học đặc ra và giải thích về con người với nhiều cách khác nhau. Sự ra dời của chủ nghĩa duy vật lịch sử lần đầu tiên đánh thức các quan niệm nhận thức sai lệch về con người. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về bản chất con người đã đạt được những thành tựu quan trọng. Song do những hạn chế về nhận thức về lịch sử con người không hiểu được sức mạnh của thiên nhiên vừa là sự sống của con người nhưng cũng gây tai họa cho con người như giông tố lụt lội , sấm sét. Vì thế mà các nhà triết học trước Mác chưa giải thích triệt để về nguồn gốc bản chất con người kể cả triết học phương Đông và phương Tây, điều xem xét con người từ nhiều góc độ khác nhau. Nhưng họ cùng chung một ý tưởng là tìm ra con người để giải phóng cho con người.
Quan điểm triết học phong kiến thì cho rằng con người người sống trong tâm trạng dằn xé giữa hai thái cực vừa muốn vươn lên cái tốt đẹp cái thánh thiện vừa muốn giữ lấy cái thần tục. Đối với thời kỳ phục hưng và cận đại thì triết học lúc ấy phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp để giải phóng con người thoát khỏi xiền xích của tôn giáo triết học đã ca ngợi vẽ đẹp và tính thuần khiết của mỗi con người. Từ đó ước mơ con người ở trong một xã hội lý tưởng cho đến triết họccổ điển Đức được coi là đỉnh cao của triết học Mác với những tư tưởng vĩ đại của Phơ bách, Hê ghis. Đã có những luận giải khác về con người và xem con người là chủ của giới tự nhiên và gắn liền với lịch sử. Trong xã hội với ý niệm tuyệt đối ấy còn có những vấn đề trái ngược.
Quan điểm học thuyết Mác- Lênin nói chung triết học Mác- Lênin nói riêng là xem xét vấn đề con người là trung tâm của khoa học xã hội. Học thuyết Mác- Lênin ra đời nó xuất phát từ con người và mục đích cuối cùng của nó là soi sáng cho sự nghiệp giải phóng con người và cả loài người. Với quan điểm duy vật biện chứng CácMác đả đưa ra một quan điểm hoàn chỉnh về khái niệm con người cũng như về bản chất con người. Chủ nghĩa Mác khẳng định con người mang tính hai mặt, một là một thực thể sinh vật, hai là tính xã hội cao trong mối quan hệ xã hội.
Mác không phủ nhận mặt tự nhiên mặt sinh học khi xem xét con người với tư cách là cá nhân sống Mác viết : “ Vì vậy điểu cụ thể đầu tiên cần phải xác định tổ chức cơ thể của cá nhân ấy và mối quan hệ của tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ vàphần còn lại của giới tự nhiên”. Trên cơ bản Mác thừa nhận con người là một loài động vật thượng đẳng là sản phẩm của sự biến hoá lâu dài của giới sinh vật. Không phải như các loài động vật khác. Con người là một bộ phận của tự nhiên có tiềm thức ăn uống .v.v. Tuy nhiên Mác cũng không thừa nhận quan điểm cho rằng cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính inh dục là bản năng của con người… Con người vốn là sinh vật có đầy đủ đặc trưng của sinh vật nhưng lại có điểm phân biệt với các loài sinh vật khác.
Trước Mác và cùng thời Ông đã có những nhà tư tưởng vốn đưa ra tiêu chí phân biệt người và động vật ở chỗ : Con người biết sử dụng công cụ lao động. Arix Tôt đã gọi con người là một động vật có tính xã hội. Pascl nhấn mạnh đặc điểm của con người là ở sức mạnh ở chổ con người biết biết suy nghĩ tất cả các nhận định trên điều đúng khi nêu lên một khía cạnh về bản chất con người nhưng vẫn còn phiến diện chưa nói lên được nguồn gốc đặc điểm và mối quan hệ biện chứng giữa chúng với nhau.
Về con người quan điểm Chủ nghĩa Mác đã đưa ra một cách nhận thức toàn diện về mọi mặt mang đầy đủ tính khoa học và biện chứng trong qúa trình vận động và phát triển của nó. Ông đã đưa ra phân tích ở góc độ vai trò lao động sản xuất ơ con người vàsự phân biệt con người với con vật là bằng ý thức và sự sáng tạo sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho mình và như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra đời sống vật chất. Con người là một bộ phận của tự nhiên nhưng trong mối quan hệ với tự nhiên thì con người hoàn toàn khác biệt với con vật.
CácMác phân biệt rõ : Về thể xác con người sống bằng sản phẩm tự nhiên ấy dù là dưới hình thức sản phẩm như nhiên liệu quần áo nhà ở. Song về thực tiễn tính phổ biến của con người biểu hiện ra chính cái phổ biến toàn bộ giới tự nhiên thành phân thể vô cơ của con người. Và vì thế Mác kết luận con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên câu nói này nêu lên tính tất yếu của sự hoà hợp giữa con người và thiên nhiên. Nhờ qúa trình hoạt động con người quan hệ với thiên nhiên cũng có ý nghĩa là con người quan hệ với bản thân mình bỡi lẽ tự nhiên là thân thể vô cơ của con người và tính con người nói nó không phải là trừu tượng mà là tính xã hội có mối quan hệ tương tác với nhau. Ơ đây con người nó khác với con vật là con người mang tính xã hội, xã hội với tự nhiên là điều kiện tồn tại cho con người tính xã hội của con người là thể hiện ở sự hoạt động giao tiếp, hoạt động có ý thức và tư duy con người phát triển trong hoạt động đó. Trước hết là trong lao động sản xuất với ý nghĩa đó có thể nói con người phân biệt với động vật ở chổ tư duy bỡi tư duy là hoạt động thực tiễn của xã hội. Như thế ta có thể thấy rắng con người khác với con vật về bản chất ở ba mặt đó là quan hệ thiên nhiên, quan hệ xã hội, quan hệ bản thân.
Các Mác viết : “ Trong tính thiện thực của nó bản chất con người là tổng thể các mối quan he xã hội” nói như thế con người là cụ thể hoạt động trong một xã hội nhất định trong một điều kiện lịch sử nhất định. Con người cùng với xã hội của mình khai thác thiên nhiên sinh hoạt hoạt động xã hội phát triển ý thức và chính trong toàn bộ quan hệ xã hội đó con người mới bộc lộ được bản chất chính thống của mình. Vì lẽ đó trong qúa trình vận động phát triển tính xã hội con người được hình thành từ thấp lên cao từ hoạt động bản năng sàng hoạt động ý thức và bản năng xã hội là động lực cơ bản quan trọng trong sự phát triển con người nó là bản năng có ý thức chính là chức năng cơ bản trên từng võ não của người đây là vốn duy truyền trong sự vận động tiến hoá từ tổ tiên vượn người đã được thông qua những bước nhảy vọt là kết quả của sự phát triển lao động sản xuất xã hội ở giai đoạn xa xưa trong qúa trình trở thành loài người mà cái lao động xã hội là yếu tố quyết định cho sự sống và tiến hoá.
Khác hẳng với quan điểm của Hêghes- Phơbach các ông đã nhìn nhận con người và đưa con người vào vị thế biệt lập tách ra ở một thể. Ngược lại Mác đã chỉ rõ và hướng giải vấn đề con người trên hai phương diện. Trong mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội. Nhìn nhận sự vật hiện tượng trong mối liên hệ toàn diện trong sự vận động và phát triển của nó chính những quan niệm cách nhìn nhận sự vật Mác đã khẳng định con người là cụ thể, nó được sinh ra trong sự vận động tiến hoácó sự sống và nhận thức với nhiều góc độ. Và ông đã phủ nhận các quan điểm của các nhà triết học duy tâm bỡi lẽ nhìn nhận con người bằng chính hình tượng hoá suy dưỡng bằng một cơ sở hết sức hoan đường ảo tưởng. Đẩy con người vào thế tuyệt đối, giải phóng con người bằng định mệnh, bằng thần linh thượng đế.
Xuất phát từ thế giới quan và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin về con người dựa trên những thành tựu khoa học. Những năm gần đây đã đề cập làm sáng tỏ khía cạnh chủ yếu con người là môt thực thể của xã hội mang bản chất xã hội cũng đồng thời là một thực thể của tự nhiên, một cấu trúc sinh vật học, vì thế con người có các yếu tố vật chất tinh thần cần thiết và những lợi ích cá nhân của chính nó. Khoa học ngày nay đã làm sáng tỏ những vấn đề thuộc các quy luật tự nhiên tác động trong con người như khám phá về gen là một ví dụ cụ thể . Và chính vì lẽ đó tìm ra những động cơ sâu xa để phát huy làm sáng tỏ nhận thức về vấn đề con người đó chính là hoạt động lao động của con người là nguồn gốc của nền văn minh vật chất và tinh thần, là nguồn gốc trực tiếp của sự hình thành ý thức trong lao động sản xuất sự quan hệ con người với sự phân công lao động, phân phối sản phẩm đó là những quan hệ nền tảng làm hình thành các quan hệ xã hội khác.
Từ những đặc điểm trên ta thấy không có một xã hội thuần tuý tồn tại độc lập bên ngoài cái bản tính sinh học của con người. Không có xã hội thuần tuý cũng như cái sinh học thuần tuý tồn tại độc lập tách rời nhau. Mà xã hội là một phương thức cho con người thỏa mái các nhu cầu về vật chất, tinh thần ngày càng cao hơn, văn mnh hơn làm cho sự tồn tại con người hợp lý hơn đó cũng lá mục đích hành vi của xã hội loài người.
Mối quan hệ trên nó đã biểu hiện bản chất sâu xa và bộc lộ thường xuyên trong mọi hành vi sống của con người. Chẳng hạn do nhận thức rõ mối quan hệ trên gần đây ở nhiều nước trên thế giới người ta đã đưa môn tình dục học vào giảng dạy ở các trưởng phổ thông nhằm tạo ra một định hướng giáo dục hợp lý khắc phục những mâu thuẫn nảy sinh do sự phát triển vượt trội của nhu cầu sinh lý của con người giúp họ xử lý đúng đắn vừa đáp ứng nhu cầu mang tính tự nhiên vừa phù hợp với các chừng mực xã hội xây dựng các giá trị đạo đức.
Với bản chất xã hội con người gắng bó chặt chẽ với nhau đến mức không thể tách rời nhau đồng thời lại là những cá nhân với ý nghĩa ngày càng đầy đủ những cá thể mang tính “ tự thị” ngày càng trọn vẹn lịch sử loài người đã phát triển trong sự thống nhất tác động qua lại lẫn nhau giữa các khuynh hướng giao lưu cộng đồng và tách biệt cá nhân ngày càng trở nên bền vững. Mặt khác mỗi con người càng tách biệt thành những cá nhân độc lập với nhau.
Ở thời kỳ nguyên thủy với tính sản xuất thấp kém các mối quan hệ xã hội đã làm cho con người trở thành những cá nhân chủ thể tự giác sự giao lưu thống trị, sự tách biệt làm cho cá nhân chưa nhận thức được. Trong xã hội thị tộc con người bị hoà tang trong cộng đồng quần cư theo huyết thống khi chế độ tư hữu ra đời xã hội phân chia giai cấp làm phân hoá chức năng xã hội ngày càng rõ rệt, vai trò từng người lại ngày càng khác nhau. Công việc được phân chia thành những đoạn những phần riêng biệt của qúa trình chung độc lập tương đối với cái chung cùng với sự phát triển văn hoá tư tưởng với mục độ tương ứng, khuynh hướng tách biệt tăng lên đã làm cho cá nhân được khẳng định. Tuy vậy cho đến xã hội phong kiến vị trí cá nhân vẫn chưa được có vị trí tự chủ đầy đủ, mỗi con người chỉ xem như một sở hữu nhỏ bé “ Thần dân lệ thuộc” gần như tuyệt đối vào đống tối cao. Ở chế độ tư bản lấy tự do cá nhân làm cơ sở do đó giai cấp Tư sản chống lại phong kiến đòi tự do cá nhân không phải trước đây mà ở Châu âu nhu cầu tự do cá nhân giải phóng cá nhân đã đem lại sinh khí mạnh mẽ cho các cuộc cách mạng tư sản. Mức độ giải phóng cá nhân đạt được trong xã hội Tư bản Chủ nghĩa khá cao nhưng khi chế độ tư hữu lên đỉnh cao của nó Chủ nghĩa Tư bản cũng đẩy nhanh cá nhân lên đỉnh cao cực đoan biến thành Chủ nghĩa cá nhân. Mâu thuẫn gây gắt với cộng đồng, tính trạng cạnh tranh gay gắt biểu hiện trong sự xung đột giữa cá nhân là nguyên nhân của sự mất ổn định thường xuyên và sớm hay muộn cũng sẽ đưa Chủ nghĩa tư bản đến đường diệt vong. Và như thế dẫn đến làm sai lệch vai trò cuộc sống con người. Bỡi lẽ học thuyết Mác khi phân tích sự hình thành và phát triển của con người đã chỉ ra cho chúng ta vai trò của con người, là một thành tựu của cộng đồng xã hội và với những mối quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau.
Với bản chất và mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội là khắc phục triệt để Chủ nghĩa cá nhân đồng thời có khả năng tạo ra những điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần cho sự phát triển toàn diện cá nhân về ý thức, danh dự, trách nhiệm, tài năng của mỗi cá nhân và những phẩm chất khác gắn với mỗi con người như là cá nhân bản chất con người xã hội chủ nghĩa.
Ở Chủ nghĩa xã hội nhân cách con người được hình thành do sự tác động qua lại giữa các cá nhân và xã hội, một mặt môi trường xã hội mà con người đang sống với chuẩn mực giá trị được xã hội nhận thức vế mặt thế giới quan lập thường công nhận lối sống là điều kiện khách quan mà trên cơ sở đó con người mới có thể hình thành nhân cách mặt khác thông qua hoạt động thực tiễn mỗi cá nhân sẽ tìm được con đường riêng để “ cá thể hoá” “ nội tâm hoá” các giá trị xã hội tạo thành của cải tinh thần riêng. Tức là tạo nên nhân cách riêng của mình. Khi đó xã hội cái hay được chuyển vào cái riêng, cái cá nhân, còn cái cá nhân, cái riêng được nâng lên hoà nhập vào cái chung, cái xã hội.
Vì lẽ đó mức đội giải phóng xã hội được biểu hiện ở sự tự do cá nhân là điều kiện cho sự tự do xã hội giải phóng cá nhân là tạo nên động lực cho công cuộc giải phóng xã hội, còn giải phóng xã hội là thiết lập một môi trường cho giải phóng cá nhân chỉ có Chủ nghĩa xã hội mới có thể thực hiện được điều này.
Trong mối quan hệ tương tác sự cấu trúc tinh thần của mỗi con người được tạo nên do tác động chồng chéo của hàng loạt các quan hệ xã hội và trong xã hội có giai cấp con người bao giờ cũng mang tính giai cấp. Sự đồng nhất giữa các cá nhân có cùng lợi ích mang ý nghĩa quyết dịnh nhất. Trong cuộc sống là cơ sở khách quan tập hợp các cá nhân thành lập giai cấp. Thông qua đấu tranh giai cấp từng bước nhận rõ lợi ích riêng chỉ được thực hiện khi lợi ích chung của giai cấp trở thành động lực chi phối từ trong cội nguồn sâu xa của mọi hành vi con người. Động lực ấy thôi thúc con người tham gia vào cuộc đấu tranh xoá bỏ áp bức bóc lột bất công trong xã hội. Ở mỗi con người việc không chấp nhận địa vị nô lệ ý chí vươn lên tới tự do bao giờ cũng là phần tối quan trọng tạo thành nhân cách, vì thế mà không thế tuyêt đối quá giai cấp làm lu mờ tính dân tộc bỡi lẽ tính dân tộc nó đã trở thành tâm tư thường thức trong cuộc sống của con người từ đó nó góp phần tạo nên định hướng đúng đắn cho mỗi con người trong trạng thái muôn màu của xã hội.
Chính vì thế , Chủ nghĩa xã hội là một thể chế ưu việt kết quả của đấu tranh giai cấp được thực hiện công cuộc cải tạo kinh tế xã hội. Sẽ làm dần dần cho giai cấp đó mất đi, các giai cấp, các tầng lớp xã hội xích lại gần nhau lợi ích chung , lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc. Đó chính là giá trị bền vững cho mỗi con người, mỗi dân tộc vươn lên đỉnh cao của sự hoàn thiện cuộc sống và nhân cách.
Con người sinh ra và lớn lên gắn liền với lịch sử ,xã hội và tính thời đại của chính nó. Vì thế phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tính thời đại và tính lịch sử là vấn đề cực kỳ quan trọng về phương pháp luận không thể đưa ra so sánh đối lập giữa con người mới và con người chế độ cũ mà phải xem xét trong mối quan hệ biện chứng đó và con người không trở thànhcon người mới nếu như không nếu như không bắt đầu từ những truyền thống đa được kết tinh trong lịch sử dân tộc. Khi nói đến vấn đề con người và xã hội Mác đã đưa ra luận điểm “xã hội tạo ra con người ở mức độ nào thì con người sẽ tạo ra xã hội ở mức độ ấy” .
Trong cách mạng xã hội , nhân tố con ngườu luôn là mục tiêu, là động lực. Song nó đòi hỏi phải có một lực lượng lảnh đạo cách mạng tác động thúc đẩy thực thi các biện pháp thực hiện hoá vai trò đó vai trò con người thì tất yếu phải giành thắng lợi.
Từ vấn đề nêu trên có ý nghĩa hết sức quan trọng với mục tiêu “tất cả vì con người” .Bởi vì con người là nhâ tố cơ bản quyết định cho mọi sự thành công hay thất bại. Vì thế trong quá trình đổi mới đất nướcta đi lên thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì nhân tố con người lại càng là vấn đề trung tâm với một môi trường xã hội thực sự dân chủ . Cuộc sống phải được không ngừng cải thiện về vật chất và tinh thần nhằm làm cho con người phát huy được tính độc lập sáng tạo góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đường lối đã đưa ra bên cạnh đó sẽ làm sáng tỏ về con người về vị trí vai trò của con người trong quá trình lịch sử xã hội.
2/ Lý luận học thuyết Mác Lênin về vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử:
Quan điểm học thuyếtv Mác xít đã chỉ rõ nguồn góc và bản chất con người dựa trên hai vấn đề cơ bản dó là: Một thực thể sinh học và tính xã hội . Chính vì thế Các Mác đã đưa ra luận điểm: “Xã hội tạo ra con người ở mức độ nào thì con người sẽ tạo ra xã hội ở mức độ đó…
* Như thế lịch sử tạo ra con người và con người trong quá trình vận động phát triển lại tạo ra xã hội hay nói bằng cách khác chính con người tạo ra lịch sử bởi lẽ con người sinh ra và lớn lên đã gắn liền với một quá trình lịch sử với những nấc thang thời đại của nó. Hoạt động lao động sản xuất, sáng