Địa hình của Liên Bang Nga chủ yếu là đồng bằng thấp và các miền đất cao. Phần lớn
đất đai của Liên Bang N ga là đồng bằng rộng lớn ở cả châu Âu và châu Á như đồng
bằng Đông Âu, đồng bằn g Tây Xibia. Các đồng bằng này chủ yếu là thảo nguyên về
phía nam và rừng rậm về phía Bắc, cùng với các lãnh nguyên dọc theo bờ biển phía
Bắc. Các dãi núi chủ yếu nằm ở biên giới phía nam và phía đông như dãi Cap ca, dãi
Antai, dãi Xian, dãi Veckhoian và đặc biệt là dãi Uran chạy dài từ Bắc xuống Nam,
tạo ra sự phận chia ranh giới giữa châu Âu và châu Á. Nhiều con sông chải qua nước
Nga, chủ yếu là những con s ông lớn như sông Enitxay, sông Vonga, sông Obi, Sông
Xibia
Sông Xiabia chia đất nước Nga thành hai phần: Phía Tây chủ yếu là đồng bằn g, bao
gồm đồng bằng Đông Âu cao, màu mỡ phù hợp phát triển lư ơng thực_thự c phẩm và
chăn nuôi, đồng bằng Tây Xiabia tuy nhiều đầm lầy như ng có nhiều dầu mỏ và khí
đốt, ngoài ra còn có dãy Uran có nguồn tài nguyên khoáng sản dồi dào. Phía Đông chủ
yếu là núi và cao nguyên, giàu tài nguy ên khoáng sản và lâm sản.
32 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4571 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khái quát chung về đất nước và con n gười nước Nga, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Khái quát chung về đất nước và
con n gười nước Nga
NƯỚC NGA
I. KHÁI QUÁT CHUNG Về ĐấT NƯớC VÀ CON NGƯờI NƯớC NGA
1. Vị trí đị a lý.
Liên Bang Nga là một đất nước có diện t ích lớn nhất Thế giới 17,1 triệu km2, trải dài
từ Đông Âu đến Bắc Á. Liên Bang Nga có 11 múi giờ, giáp với 14 quốc gia. Đặc biệt
Liên Bang Nga có đường bờ biển dài trên 37.000km dọc the Bắc Băng Dương, Thái
Bình Dương, biển Bantich, biển Caxpi và biển Đen.
2. Địa hình.
Địa hình của Liên Bang Nga chủ yếu là đồng bằng t hấp và các miền đất cao. Phần lớn
đất đai của Liên Bang Nga là đồng bằng rộng lớn ở cả châu Âu và châu Á như đồng
bằng Đông Âu, đồng bằng Tây Xibia. Các đồng bằng này chủ yếu là thảo nguyên về
phía nam và rừng rậm về phía Bắc, cùng với các lãnh nguyên dọc theo bờ biển phía
Bắc. Các dãi núi chủ yếu nằm ở biên giới phía nam và phía đông như dãi Cap ca, dãi
Antai, dãi Xian, dãi Veckhoian…và đặc biệt là dãi Uran chạy dài từ Bắc xuống Nam,
tạo ra sự phận chia ranh giới giữa châu Âu và châu Á. Nhiều con sông chải qua nước
Nga, chủ yếu là những con sông lớn như sông Enitxay, sông Vonga, sông Obi, Sông
Xibia…
Sông Xiabia chia đất nước Nga thành hai phần: Phía Tây chủ yếu là đồng bằng, bao
gồm đồng bằng Đông Âu cao, màu mỡ phù hợp phát triển lương thực_thực phẩm và
chăn nuôi, đồng bằng Tây Xiabia tuy nhiều đầm lầy nhưng có nhiều dầu mỏ và khí
đốt, ngoài ra còn có dãy Uran có nguồn tài nguyên khoáng sản dồi dào. Phía Đông chủ
yếu là núi và cao nguyên, giàu tài nguy ên khoáng sản và lâm sản.
3. Điều kiện tự nhiên.
Đất nước N ga có nguồn tài nguyên khoáng sản rất đa dang và dồi dào như: dầu mỏ,
than đá, sắt, đồng, khí tự nhiên...N ga được xem là s iêu cường năng lượng, có dự trữ
khí tự nhiên lớn nhất Thế giới, đứng thứ hai về trữ lượng than, thứ tám về trữ lượng
dầu mỏ.
Nga có diện tích rừng lớn nhất Thế giới với 886 triệu ha, chủ yếu là rừng taiga, rừng lá
kim…vì thế Nga còn được xem là “lá phổi của châu Âu”, đứng thứ hai sau rừng
Amazon về khả năng hấp thụ carbon dioxide, những cánh rừng của N ga đã sản xuất ra
một khối lượng lớn O xy không chỉ cho châu Âu mà cho toàn Thế Giới, vì thế mà động
thực vật ở N ga rất phong phú và đa dạng.
Khí hậu ở Nga được hình thành dưới nhiều y ếu tố xác định. Khí ôn đới chiếm phần lớn
diện tích, phía Bắc có khí hậu cận cực, phía Nam có khí hậu cận nhiệt, sự xa tách khỏi
biển của một số vùng dẫn đến khí hậu lục địa ấm. T rên hầu khắp lãnh thổ chỉ có hai
mùa riêng biệt là mùa Đông và mùa Hè, mùa Xuân và mùa Thu chỉ là những giai đoạn
thay đổi ngắn giữa thời tiết cực thấp và cực cao. Tháng lạnh nhất và tháng 1 (tháng 2 ở
bờ biển), tháng nóng nhất thường là tháng 7. Vào mùa Đông nhiệt độ lạnh đi từ phía
Nam tới phía Bắc, mùa hè có thể khá nóng và ẩm, thậm chí tại vùng Xibia và một phần
nhỏ của bờ biển Đen có khí hậu nhiệt đới.
Với những điều kiện tự nhiên như thế, Liên Bang Nga có nhiều thuận lợi để phát triển
kinh tế đa ngành, nền kinh t ế của Nga chủ yếu dựa vào xuất khẩu hàng hóa như dầu
mỏ, khí đốt, kim loại và gỗ.
4. Giao thông vận tải của nước Nga
Giao thông vận tải ở Nga rất phát triển,hệ thống đường sắt ở N ga có tổng chiều dài là
149.000km, đường cao tốc 952km,tàu điện ngầm là phương tiện vận chuyển chủ yếu ở
các vùng đô thị,M axcova đứng đầu thế giới về lượng vần chuyển hành khách,mỗi năm
có đến 2,5 tỉ lượt người sử dụng tàu điện ngầm,
Đường sông 95.900 km,đường giao thông quan trọng nhất là sông Vonga vứi cơ sở
hàng tầng được thiết kế để tàu thủy có kích t hước và trọng t ải tương đối lớn lưu thông.
Nga là một quốc gia có vị trí tiếp giáp với nhiều biển lớn nhỏ,vì vậy Nga có rất nhiều
cảng và hải cảng,đội thương thuyền của N ga là một phương tiện quan trong để kết nối
Nga với các nước khác như:Arkhangel'sk, Astrakhan', K aliningrad, Kazan',
Khabarovsk, Kholmsk, Krasnoyarsk, M oscow, Murmansk, N akhodka, Nevel'sk,
Novorossiysk, Petropavlovsk-Kamchatskiy, Saint Petersburg, Rostov, Sochi, Tuapse,
Vladivostok, Volgograd, Vostochnyy, Vyborg.
Đường ống: dầu thô 48km,sản phẩm dầu khí 15.000km;khí ga tự nhiên 140.000km.
Đường hàng không:Nga có khoảng trên 300 công ty hàng không,với 2.743 sân bay,chỉ
riêng thành phố Maxcova đã có đến 4 sân bay quốc tế,và hiện nay đã có nhiều chuyến
bay trực tiếp từ Nga đến Việt Nam như hãng hàng không Transaero mở đường bay
thẳng nối liền thủ đô Moskva đến TP .HCM ,gần đây nhất hãng hàng không
Vladivostok (Vladivostok Air) chính thức mở đường bay quốc t ế từ hai t hành phố:
Vladivostok và Khabarov (vùng Viễn Đông, Liên bang Nga) đến Sân bay quốc t ế Cam
Ranh (Khánh Hòa) và ngược lại.,vì thế mà khách du lịch từ quốc gia này đến Việt
Nam cũng thuận tiện hơn.
5. Dân cư, ngôn ngữ và xã hội.
Liên Bang Nga là một quốc gia có dân số là 144 triệu người (đứng thứ 8 trên Thế
Giới) và là một xã hội đa sắc tộc, là nơi s inh sống của trên 160 nhóm sắc tộc. Dù dân
số Nga khá lớn nhưng mật độ dân số ở N ga khá thấp, do diện tích rộng lớn của nước
này. Dân cư phân bố không đồng đều, tập trung phần lớn ở phía Tây và thưa dần về
phía Đông và có đến 73% dân cư sống tập trung ở thành thị.
Trên 160 nhóm sắc tộc ở N ga sử dụng khoảng 100 ngôn ngữ.Ngôn ngữ thông dụng
nhất là t iếng N ga,sau đó là tiếng Tatar và tiếng Ukraina. Tiếng Nga là ngôn ngữ chính
thức duy nhất của nhà nước, nhưng Hiến pháp trao cho các nước cộng hoà riêng biệt
quyền đưa ngôn ngữ bản địa của mình trở thành ngôn ngữ đồng chính thức bên cạnh
tiếng Nga.Dù có sự phân tán mạnh, tiếng Nga là thuần nhất trên toàn bộ nước
Nga.Tiếng Nga là ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất nếu tính theo diện tích địa lý trên
lục địa Âu Á và cũng là ngôn ngữ Slavơ được sử dụng nhiều nhất
Nga có một hệ thống giáo dục miễn phí bảo đảm cho mọi công dân theo Hiến pháp, tỉ
lệ người biết chữ là 99,4%. Việc đặt giáo dục lên hàng đầu như vậy cũng là sự ưu tiên
hàng đầu cho khoa học và kỹ thuật trong giáo dục, y tế, toán học, khoa học và khoa
học vũ trụ…cung cấp lực lượng nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực cong nghệ
cao, công nghệ mới…
Liên Bang Nga là một quốc gia đông dân, có trình độ dân trí cao, có đội ngũ khoa học
kỹ thuật, kỹ sư lành nghề…vì thế mà tiềm năng du khách từ đất nước này rất lớn, bởi
đội ngũ lao động ở đất nước này phần lớn là làm về ngành công nghiệp,ngành khoa
học cơ bản nên họ thường phải làm việc trong một môi trường căng thẳng nên du cầu
được đi du lịch thư giãn rất cao,những vị khách này thường có những đòi hỏi về phong
cách phục vụ cao,họ sẵn sàng chi một số tiền khá lớn để được hưởng các loại dịch vụ
du lịch cao cấp nhất.Bên cạnh đó,một số người dân sống ở vùng nông thôn cũng có
nhu cầu được đi du lịch sau những mùa vụ,những người dân làm nghề nông thường có
tính cách hiền hòa và đòi hỏi không quá cao,họ thường có xu hướng chọ những nơi
mới lạ,được tìm hiểu về những vùng đất mới.Nhưng nhìn chung,người Nga thường có
tính cách hòa đồng,vui vẻ,thân thiện,đặc biệt dân tộc Nga nổi tiếng là những người yêu
chuộng hòa bình,vì thế mà những vùng đất thanh bình êm ả như Việt Nam là những
nơi mà họ lựa chọn để có một kỳ nghỉ thoải mái.
II. NHữNG ĐặC ĐIểM VĂN HÓA NƯớC NGA
Với diện tích lớn nhất trên thế giới nước Nga đã có những nét văn hóa độc đáo trải
rộng khắp lãnh thổ của mình. Với rất nhiều điểm đặc trưng, văn hóa Nga đã, đang và
sẽ có nhiều người thuộc các dân tộc lãnh thổ khác nhau trên thế giới biết đến. Sau đây
là những phần đặc trưng nhất về văn hóa N ga:
1. Văn học Nga
Văn học Nga đã bắt đầu xuất hiện trong những người Xla-vơ Đông, sau phong trào cơ
đốc hoá vào thế kỷ thứ 10.
Trong suốt thế kỷ 16, hầu hết những tác phẩm văn học đều có chủ đề tôn giáo hoặc do
những người trong những lĩnh vực tôn giáo viết ra. Một số tiểu thuyết ngắn và chuyện
châm biếm của thế kỷ 17 cũng đã sử dụng tiếng N ga bản xứ.
Thế kỷ 18, đặc biệt là dưới triều đại của Pet er đại đế và Catherine Đại đế, là một giai
đoạn chịu ảnh hưởng rất mạnh của phương Tây.
Đến thế kỷ 19 văn học Nga đã hình thành một truyền thống thể hiện những vấn đề
trong cuộc sống thực tế và những nhà văn từ thế kỷ 18 đã làm giàu hơn ngôn ngữ Nga
bằng những yếu tố mới.
Kỷ nguyên của chủ nghiã Hiện thực bắt đầu khoảng năm 1850. Trong thời kỳ này các
chuẩn mực mới về ngôn ngữ, chủ đề, hình thức và kỹ t huật miêu t ả đã được phát triển.
Pushkin đã được coi như nhà thơ vĩ đại nhất của Nga. Lermontov thì đã đóng góp cho
văn học bằng cả t hể loại văn xuôi lẫn thể loại thơ ca. Gogol được công nhận như người
khai sinh ra văn xuôi hiện thực và hiện đại của Nga. Những nhà văn viết văn xuôi có
tầm cỡ nhất trong kỷ nguyên này là Ivan Turgennev, Fedor Dostoyeveskiy và Lev
Tolstoy.
Đến thập kỷ 1890, thơ ca của Nga đã được phục hồi và định hình lại bởi một số thi s ĩ
theo trường phái tượng trưng, mà người đại biểu nổi bật nhất là Aleksandr Blọk. Năm
1933 Bunin đã trở thành nhà văn N ga đầu tiên nhận giải Nobel văn chương.
Thời kỳ ngay sau cách mạng Nga là một giai đoạn thử nghiệm của văn học và cũng đã
nổi lên nhiều nhóm nhà văn khác nhau. Hầu hết những tác phẩm trong thập kỷ 1920
mô tả cuộc nội chiến hoặc sự đấu tranh giữa người Nga cũ và người Nga mới. Tác
phẩm chiếm ưu thế trong giai đoạn này là “Thép đã tôi thế đấy” của Nikolay
Ostrovskiy.
Văn học N ga có phong cách riêng biệt, khác lạ. Đặc biệt, tư tưởng dân chủ bộc lộ
trong văn học mạnh mẽ đến mức tạo ra nhu cầu đòi hỏi tư tưởng xã hội chủ nghĩa như
một qui luật tất yếu. Vì lẽ đó, Lênin đã coi tác phẩm của L.Tonxtôi là "tấm gương
phản chiếu cách mạng N ga". Đó là đóng góp quan trọng của văn học Nga vào nền văn
học thế giới. Những tác phẩm của , Lermontov, Gogol, L.Tonxtôi, Dotstoievski,
Sekhov... đã trở thành t ác phẩm cổ điển cùng với thành tựu lý luận, phê bình của
Bielinski, Tsernysevski... còn đặt nền móng lí luận và gây ảnh hưởng sâu sắc đến cả
thế kỷ sau.
Văn học N ga Xô viết là một bước tiến hóa cao trong tiến trình văn học của nhân loại.
Gần 7000 người cầm bút viết văn trong dân số 300 triệu người (số liệu 1975) với bút
pháp đa dạng, đề tài phong phú, giáo trình này thật khó lựa chọn những gương mặt
thực sự tiêu biểu cho nền văn học Nga. (ĐẠI HỌC AN GIANG - Phùng Hoài Ngọc -
2008).
2. Ẩm thực Nga.
Các món ăn chính thường chế biến từ thịt, thường là thịt bò, thịt cừu, hay thịt heo, đôi
khi kèm với nấm, kem chua hay nước sốt pho mát.
Do ở Nga có rất nhiều sông, hồ, rừng rậm nên trong ẩm thực của nước này có một số
lượng lớn các món ăn từ cá, thịt rừng, nấm và quả rừng. Thường thì sẽ là cá, thịt bò,
thịt cừu hầm hoặc nướng được ăn kèm với rau và khoai tây. Người Nga thích ăn khoai
tây, họ có cả thảy hơn 1000 món làm từ khoai tây. Ngoài những món đơn giản như
khoai t ây rán, khoai tây luộc, còn có khoai tây nhồi thịt băm và nấm, thịt băm viên tẩm
khoai t ây rán, bánh nướng làm bằng khoai tây…
Ở Nga có 2 món ăn rất nổi tiếng đó là là bánh mì đen và salad Nga. Trong tục ngữ của
nước N ga, bánh mì đen được ví như là cha ruột của mỗi người vậy. Món salad Nga bí
quyết lại nằm ở việc có mua được đúng loại M ayonaise hay không.
Ẩm thực nước Nga rất đa dạng nhưng hầu hết người Việt Nam khi nhắc đến nước Nga
là nhắc đến món trứng cá hồi, bánh mì đen và salad Nga. Ngoài ra phải kể đến đó là
loại rượu Vodka nặng độ hơn cả rượu Nàng hương Việt Nam.
Những món ăn Nga từ trứng cá hồi với bánh mỳ nướng, súp củ cải đỏ ăn với bánh mỳ
đen, cuống t ỏi muối, chả gà Kiep, cá khô Atrakhan, súp củ cải đỏ, bánh cuốn
Lêningrát... mang phong vị Nga nhưng lại rất phù hợp với khẩu vị của người Việt
Nam.
Café của Nga có đặc điểm là loãng vô cùng đến nỗi mỗi người uống tầm 1 lít café là
chuyện bình thường.
Một số món ăn truyền thống ở Nga:
Borsh (Борщ): Borseht là món súp cổ điển của Nga, món này gồm có nhiều thành
phần chính với màu sắc tươi sáng nhất là của cải đỏ. Món này thường được ăn lạnh
vào mùa hè và ăn nóng vào mùa đông. Bnili (Блины): Bnili là một loại bánh kếp nhỏ,
trong có nhồi trứng cá muối, cá, bơ lỏng hoặc kem chua. Tsipleonok tabaka
(Цыпленок табака): đây là món thịt gà, trong đó thịt nướng bằng xiên. Shi (Щи):
món Sehchi bao gồm bắp cải nhồi và ớt ngọt nhồi cơm và thịt băm.
Varenniki (Вареники): Đây là món bánh bao dùng để ăn sáng, trong ruột có các loại
quả mọng, quả anh đào hay mứt. Cốt lết gà k iểu Nga (Котлеты): người ta nghiền nhỏ
thịt gà, cho thêm một ít bơ và kem để giữ cho thịt được ẩm. Muốn cho hương vị được
tuyệt hảo, người t a dùng rượu vang Beaujolais của Pháp hoặc rượu M erlot ở vùng
Trentino của Bắc Ý. Thịt cừu nướng xiên (Шашлык): Theo truyền thống món ăn này
được làm bằng thịt cừu, nhưng người ta cũng có thể làm bằng thịt heo, thịt bò, thịt gia
cầm, hoặc cá tầm. Mì ống hầm (Макароны): Đây là món mì ống nấu t heo kiểu N ga
với pho mát vàt thật nhiều rau. Seledka (Селедка): Cá trích là món rất khoái khẩu của
người N ga, cùng với dưa chuột ri và các loại thịt nguội và các món trộn.
Thưởng thức trà theo kiểu Nga:
Để thưởng t hức trà N ga, bộ ấm tách bằng sứ là đặc biệt cần thiết. Việc pha loãng trà
bằng nước sôi luôn trong t ách là nét đặc trưng của cách thưởng thức trà N ga.
Tại Nga, trà luôn được pha loãng ra - do đó, ngoài bộ ấm chén phà trà đạt tiêu chuẩn,
khi thưởng thức trà N ga cần phải có cả hũ đựng nước sôi riêng.
Chanh là thành phần quan trọng thứ 2 trong cách thưởng thức trà của người Nga. Toàn
thế giới đều cho rằng, trà với chanh là phát minh của người N ga và cách thưởng thức
trà này được gọi là “Trà Nga”. Đó là lý do vì sao trên bàn trà Nga nhất định phải có
chanh.
Còn một đặc điểm nữa khá quan trọng trong cách thưởng thức trà N ga đó là trà pha
sẵn và được uống liền. Tất nhiên, đó phải là trà đen.
Bộ đồ trà bằng sứ, ấm trà, chanh và trà Trung Quốc hay Xrilanca – đó là những thành
phần cần thiết để có thể thưởng thức trà theo đúng kiểu Nga.
2. Trang phục Nga.
Trang phục của dân tộc Nga có một lịch sử rất phong phú. Trong suốt chiều dài lịch
sử, từ thời nước Nga cổ đại đến đầu thế kỷ XVIII, bộ trang phục đã có những thay đổi
lớn về hình dáng cơ bản của nó. Thế kỷ XVIII trở thành cái mốc đánh dấu sự khác biệt
trong trang phục. Đây là thời kỳ của những cải tổ trong kinh t ế - xã hội và văn hóa ở
nước N ga. Nó được đánh dấu bởi những thi hành pháp luật của Petr I nhằm điều hòa
những môi trường khác nhau trong xã hội và tiến hành những thay đổi cơ bản. Cuộc
cải cách đã thay đổi cuộc sống ở nước N ga một cách sâu rộng, trong đó có cả trang
phục.
Bộ trang phục truyền thống đặc trưng bởi đường cắt thẳng tự nhiên, độ dài của trang
phục, ống tay lớn và rộng, có nhiều lớp với sự kết hợp màu sắc tương phản của các
phần trong trang phục, sự đa dạng về họa tiết và trang trí.
Trang phục của phụ nữ
Các nhà dân tộc học đã chia ra làm 4 loại cơ bản trang phục trên lãnh thổ nước N ga:
Với váy poneva.
Với váy sarafan.
Với váy andarak.
Với váy kubelek.
Hai bộ đầu tiên thường đươc mặc trên phần lớn vùng châu Âu và châu Á của nước
Nga.
Bộ trang phục với váy poneva bao gồm có áo cánh, thắt lưng, chiếc váy poneva, yếm
đằng trước, khăn đội đầu dạng con chim ác là, trang sức bằng lông chim và hạt cườm,
giày được bện từ vỏ cây hoặc bằng da. Bộ trang phục với váy sarafan gồm có áo cánh,
váy sarafan, khăn bịt đầu kiểu kokoshnik, mũ dushegrei, giày chủ yếu là bằng da.
Trang phục với váy kubilek là chiếc váy may thắt ở eo, mặc phía trên là áo với ống tay
rộng. Váy mặc cùng với quần dài và chít khăn trên đầu.
Bộ trang phục váy andarak gồm áo cánh, váy, áo nâng ngực, tấm thắt lưng lớn, khăn
bịt đầu kiểu kokoshnik. Chúng có mặt tại Ryazan, Orlov, Kursk, Tambov.
Trang phục cho nam giới
Trang phục cho đàn ông Slavơ nói chung đều giống nhau. Nó bao gồm có áo dài thắt
ngang lưng, quần không quá rộng, giày da hoặc bện bằng vỏ cây, mũ có hoặc không có
vành. Như một nguyên tắc, áo buông đến cạp quần thì thắt lại.
Tuy nhiên nó có những đặc trưng riêng của từng vùng. Ví dụ, tại các làng ở ven bờ
Bạch hải, đàn ông mặc áo dệt từ lông thú. Áo được nhét vào trong quần như một số
dân tộc t ại các vùng khác phía Bắc nước N ga. Tại một số làng ở miền Nam, trang phục
của nam giới còn có cả áo gilet.
Trang phục của nam giới và phụ nữ được làm từ lanh, vải gai, lông thú, vải pha len của
nhà làm, cũng như các sản phẩm của nhà máy như lụa, lông thú, vải sợi bông, gấm.
Trang phục truyền thống có những chức năng nhất định. Nó được chia ra làm trang
phục lễ hội, nghi lễ, thường ngày và để làm việc. Trang phục lễ hội được may bằng
những loại vải đắt tiền. Tất cả những phụ kiện của trang phục, chiếc khăn bịt đầu, giày
được trang trí công phu. Trang phục thường ngày thường đơn giản, trang trí sơ sài và
được may từ những loại vải rẻ t iền. Trang phục nghi lễ dành để may trong thời gian
diễn ra nghi lễ.
Bên cạnh việc giữ gìn hình dáng truyền thống, bộ trang phục dân gian đã không ngừng
biến đổi. Sự phát triển của công nghiệp và thời trang thành thị ảnh hưởng mạnh tới lối
sống xưa ở nông thôn và đời sống của nông dân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
Ngày nay, những đường cắt, những họa tiết của bộ trang phục truyền thống là nguồn
cảm hứng không bao giờ cạn cho những tìm tòi mẫu thiết kế mới. Nó là dành cho
những người đam mê đích t hực những sáng tạo dân gian. (
MộT Số KIểU TạP Dề
Áo saraphan là một thành phần không thể thiếu của bộ trang phục truyền thống N ga.
Từ thế kỷ XVIII cho đến đầu thế kỷ XIX saraphan thường được may từ vải thô, một
màu tông sẫm như xanh, đỏ hoặc đen. Trên nền đơn sắc sẫm của saraphan các hoa văn
trang trí màu sắc sặc sỡ trên áo và tạp dề càng nổi bật.
Cách mặc trang phục nhiều tầng có nhiều độ dài khác nhau của áo, váy, yếm, tạp dề...
chia cơ thể người mặc thành nhiều đoạn, và gây cảm giác như thân hình người mặc to
lớn hơn.
TÓC VÀ CÁC LOạI KHĂN, MŨ ĐộI ĐầU
Trong bộ trang phục Nga khăn mũ đội đầu là chi tiết không thể thiếu, bởi theo truyền
thống phụ nữ đã lấy chồng phải luôn che kín mái tóc của mình, còn các thiếu nữ mới
có quyền khoe tóc. Chính truyền thống này quy định hình dạng các loại mũ kín đội đầu
dành cho phụ nữ có chồng, và bờm hay một dải hoa văn buộc đầu dành cho các cô
thiếu nữ.
Các loại mũ đội đầu của phụ nữ được trang trí bằng ngọc trai, cườm, hổ phách, san hô,
dây tòng t eng, chuỗi hạt và khuyên.
GIÀY DÉP
Phụ nữ thường mang giày da ngắn cổ, koty có mũi cong bằng dạ hoặc nỉ, và giày đan
lapti với dây buộc dài.
4. Ki Ến trúc Nga.
Chúng ta tìm hiểu về kiến trúc N ga qua các thời kì sau:
Thế kỷ 15 – 18
Những công trình kiến trúc ở nước Nga lú này rất ít được chú ý, mãi cho đến năm
1477, nền kiến trúc của Nga mới có phần khởi sắc.
Saint Basil's Cathedral
Thế kỷ 19
Dormition Cathedral, Kremlim, Moscow
Tại Đông Âu trong một phần tư đầu của thế kỷ thứ 19, ở đây, lối thiết kế mang phong
cách Hy Lạp phục hưng được phát triển và phong cách th iết kế kinh điển cũng được
hồi sinh vào giữa thế kỷ này. Kiến trúc sư người Nga có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất
trong thời kỳ này là Thon, ông đã thiết kế xây dựng công trình kiến trúc nhà thờ lễ
Truyền tin tại St Petersburg và Thánh đường St. Saviour đồ sộ ở Moscow (1838 –
1883 theo phong cách Lomba La M ã), cả hai công trình này đã bị phá hủy. Công trình
Bộ hải quân của Zakharov ở St Petersburg (1806) là dấu hiệu đặc trưng nhất vẫn tồn
tại của một công trình kiến trúc mang phong cách thiết kế t ân cổ điển.
Thế kỷ 20
Ivan the Great Bell Tower, Moscow Kremlin
Hầu hết các công trình kiến trúc từ năm 1850 – 1917 không có nét gì nổi bật, thường
là thực hiện kém chất lượng và mang sự hỗn độn của các phong cách thiết kế. Trong
thời gian cách mạng, những kiến trúc sư trẻ đã theo phong trào thiết kế có xu hướng
tạo dựng và phong cách thiết kế k iến trúc hiện đại mới được cổ vũ nhiệt liệt. Năm
1932 phong cách chủ nghĩa kinh điển hầu như lấn át trên sân kiến trúc của nước N ga,
nó được tôn vinh cho đến tận những năm 60. Những công trình kiến trúc đáng chú ý
được d