Cơ chếthị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay
của nền kinh tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế
thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi
nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như các
doanh nghiệp phải nhanh chóng để tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền
kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề
nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát.
Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết
sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ mới có thể mong muốn
đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà
doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn
bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động ở
nước ta hiện nay, chống lạm phát giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định,
cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng
cao đời sống nhân dân.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan
tâm, nghiên cứu và đề xuất các phương án khác. Đã từ lâu tiền giấy xuất
hiện và chẳng bao lâu sau đó diễn ratình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm
phát. Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả
của hầu hết các hàng hóa đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng
giảm nhanh.
Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20 ở nước
ta lạm phát diễn ra nghiêm trọng và kéo dài mà nguồn gốc của nó là do hậu
quả nặng nề của chiến tranh, cơ cấu kinh tế bất hợp lý kéo dài. Lạm phát đã
phá vỡ toàn bộ nền kinh tế, phương hại đến tất cả các mối quan hệ kinh tế
trong nền kinh tế-xã hội.
30 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5509 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 1
LỜI NÓI ĐẦU
Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay
của nền kinh tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế
thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi
nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như các
doanh nghiệp phải nhanh chóng để tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền
kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề
nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát.
Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết
sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ mới có thể mong muốn
đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà
doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn
bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động ở
nước ta hiện nay, chống lạm phát giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định,
cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng
cao đời sống nhân dân.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan
tâm, nghiên cứu và đề xuất các phương án khác. Đã từ lâu tiền giấy xuất
hiện và chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm
phát. Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả
của hầu hết các hàng hóa đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng
giảm nhanh.
Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20 ở nước
ta lạm phát diễn ra nghiêm trọng và kéo dài mà nguồn gốc của nó là do hậu
quả nặng nề của chiến tranh, cơ cấu kinh tế bất hợp lý kéo dài. Lạm phát đã
phá vỡ toàn bộ nền kinh tế, phương hại đến tất cả các mối quan hệ kinh tế
trong nền kinh tế- xã hội.
Bài viết này với đề tài: “ Lạm phát ở Việt Nam”
Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần thiết, cấp bách, đặc
biệt thấy được tầm quan trọng của lạm phát. Vì vậy, với lực lượng kiến thức
còn hạn chế, em thiết nghĩ nghiên cứu đề tài này cũng là một phương pháp
để hiểu nó một cách thấu đáo hơn, sâu sắc hơn
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 2
NỘI DUNG
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
I/ Định nghĩa lạm phát
Lạm phát là vấn đề không mấy xa lạ, hầu hết quảng đại quần chúng
đều có thể chứng kiến hay trải qua thời kỳ lạm phát ở những mức độ khác
nhau. Nhưng hiểu chính xác lạm phát là gì không phải dễ. Ngay cả các nhà
kinh tế học cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa lạm phát.
- Quan niệm cổ điển cho rằng “Lạm phát là phát hành tiền vượt quá
số lượng tiền cần thiết trong lưu thông”. Tuy nhiên định nghĩa này không
giải thích được hiện tượng lạm phát chi phí đẩy (xuất hiện trên thế giới từ
những năm 70 hoặc ở Việt nam năm 2005) do loại lạm phát này vẫn có thể
xảy ra trong khi cung tiền tăng ổnđịnh. Nếu chỉ coi là lạm phát khi sự tăng
giá là kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ dẫn đến coi thường các
nguy cơ lạm phát có thể xảy ra.
- Một quan điểm phổ biến khác cho rằng: Lạm phát là hiện tượng tăng
lên của mức giá chung (mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời
gian. Tuy nhiên không phải mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại.
Nếu giá cả chỉ tăng tạm thời,trong ngắn hạn, chẳng hạn như dịp gần Tết
Nguyên đán ở Việt nam, sau đó lại giảm xuống thì đó là kết quả của những
biến động cung cầu tạm thời, nhiều khi có tác dụng tích cực hơn là tiêu cực
tới nền kinh tế. Những trường hợp như vậy mà đã coi là lạm phát thì sẽ dẫn
đến sự cường điệu hoá nguy cơ lạm phát.
- Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là
Milton Friedman đã định nghĩa “lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh
và liên tục trong một thời gian dài”. Theo trường phái này, sự tăng lên của
mức giá chung mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, bản chất
của lạm phát được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá đó: đó là sự tăng giá
với tốc độ cao và kéo dài. Chính sự tăng giá cao và liên tục từ thời gian này
đến thời gian khác mới tạo ra những tác động đặc thù của lạm phát. Cũng vì
vậy, cái gọi là tỷ lệ tăng giá hàng tháng mà chúng ta có thể nghe trên đài,
báo hay vô tuyến chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi bao nhiêu phần trăm so
với tháng trước chứ chưa được coi là biểu hiện của lạm phát. Đó có thể chỉ
là sự thay đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chỉ là tạm thời chứ không kéo
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 3
dài. Chỉ khi nào tỷ lệ tăng giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới
được coi là biểu hiện của lạm phát cao.
Định nghĩa này cũng được các nhà kinh tế học theo trường phái
Keynes ủng hộ. Định nghĩa này cũng đặc biệt thích hợp với các nhà điều
hành chính sách tiền tệ vì Ngân hàng trung ương chỉ có thể điều chỉnh giá cả
trong dài hạn chứ không thể điều chỉnh trong ngắn hạn. Những cố gắng điều
chỉnh giá cả trong ngắn hạn thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ sẽ
chỉ làm cho diễn biến giá cả thêm phức tạp.
II/ Phân loại lạm phát
1) Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm
phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương
đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của
người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giả cá tăng lên chậm,
lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra với tình trạng mua bán và tích trữ
hàng hóa với số lượng lớn…
Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ
trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản
thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
2) Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh
với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm. Ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả
chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng
được chỉ số hóa. Lúc này người dân tích trữ hàng hóa, vàng bạc, bất động
sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi
đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
3) Siêu lạm phát : xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao
vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông
tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế
bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác,
các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng
rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xảy ra.
Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát
triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và
trầm trọng hơn. Vì vậy các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại.
Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50%
một năm ; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200%
một năm.
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 4
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
I/ Lịch sử của lạm phát ở Việt Nam
Câu chuyện lạm phát ở Việt Nam không phải là mới. Đã từng có thời
kỳ tỉ lệ lạm phát lên đến 3 chữ số
Đổi tiền và lạm phát năm 1986 gọi là lạm phát năm 1986 vì đó là năm
có tỉ lệ tăng cao nhất, nhưng lạm phát thực sự đã xuất hiện từ nhiều năm
trước đó. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ 1981-1985 lần lượt tăng là: 70%,
95%, 50%, 65% và 92%. Chỉ có điều lúc đó không ai thừa nhận có lạm phát
trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, không ai dám đưa vấn đề ra để phân tích,
bàn luận công khai. Không có giải pháp tổng thể nào được đưa ra trong một
thời gian dài cho đến khi xảy ra cuộc đổi tiền vào năm 1985.Có lẽ có quan
niệm cho rằng đổi tiền sẽ khôi phục lại giá trị đồng bạc Việt Nam và lạm
phát sẽ chấm dứt nên mới có qui định “Sức mua của đồng tiền mới bằng 10
lần sức mua của đồng tiền cũ” (Quyết định 01/HĐBT-TĐ ngày 13/9/1985).
Nhưng sau đổi tiền, CPI năm 1985 tăng đến 92%, năm 1986 lên tới 775%,
nền kinh tế bước vào thời kỳ lạm phát dữ dội với tỉ lệ tăng 3 chữ số kéo dài
trong 2 năm tiếp theo. Phải đến cuối năm 1988 và qua năm 1989, nhiều biện
pháp về tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát mới được đưa ra. Một trong những
quyết định quan trọng ghi nhận được lúc đó là việc lần đầu tiên mạnh tay nới
lỏng tỷ giá USD/VND vào cuối năm 1988 và tiếp tục cơ chế linh hoạt đến
năm 1991, trước khi bước vào giai đoạn đóng băng tỷ giá từ năm 1992.
Trước tháng 12/1988, tỷ giá do ngân hàng Vietcombank công bố thường
thấp hơn thị trường tự do hàng chục lần. Các công ty xuất khẩu lẩn tránh
việc đưa ngoại tệ vào ngân hàng bằng cách nhập khẩu hàng hóa quay vòng.
Vào tháng 12/1987, Vietcombank công bố tỷ giá ngoại tệ là 3.000
đồng/USD. Đây là bước tăng vọt so với tỷ giá 368,2 đồng công bố từ đầu
năm, tuy vẫn còn thấp hơn mức giá 4.300 đồng ở thị trường tự do. Trong các
tháng tiếp theo, tỷ giá được điều chỉnh với biên độ chênh lệch khoảng 10%
so với giá thị trường. Sự thay đổi tỉ giá đã có tác động rất mạnh đến cán cân
thương mại. Nếu chỉ xét trong khu vực giao dịch bằng USD, xuất khẩu trong
giai đoạn từ 1989 đến 1992 bình quân tăng 50% mỗi năm. Tỉ lệ nhập siêu so
với xuất khẩu đã lập tức giảm mạnh từ 47,6% trong năm 1986 xuống gần
như cân bằng vào năm 1989 và thậm chí đã có xuất siêu vào năm 1990.
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 5
Đến cơn sốt tín dụng đầu thập kỷ 1990. Năm 1989, với cơ chế rất
thoáng trong việc thành lập quỹ tín dụng, hàng loạt quỹ tín dụng ra đời để
huy động vốn, cho vay lòng vòng, sau một thời gian thì đổ bể. Lãi suất tiết
kiệm năm 1989 cực kỳ cao, có lúc lên đến hơn 12%/tháng cùng với cơ chế
rất thoáng. Lãi suất cho vay đầu năm 1989 là 10,5%/tháng, cuối năm giảm
xuống còn xấp xỉ 4%/tháng và duy trì ở mức trên dưới 3%/tháng trong các
năm từ 90 đến 92. Tình hình kinh tế xã hội vào lúc đó cũng còn hết sức gay
gắt, mặc dù lạm phát đã giảm mạnh so các năm 86-88. Tỷ giá VND/USD
tăng vọt lên trên 13.000 VND/USD trong tháng cuối năm 1991, giảm đột
ngột còn 11.000 VND/USD đến năm 1992, sau đó và được neo giữ ở mức
thấp trong suốt nhiều năm từ 1992 đến 1996 trong khoảng từ 10.500 đến
11.000 VND/USD.
Tình trạng lỗ lãi, nợ nần mà không có cơ chế phá sản làm cho hàng
loạt công ty đang hoạt động hết sức khốn đốn. Chính phủ đã ra quyết định
lập Ban thanh toán công nợ quốc gia để thanh toán chéo nhưng kết quả
không đáng kể. Nội lực của nền kinh tế bị thương tổn nghiêm trọng. Tăng
trưởng kinh tế của VN từ 1992 đến 1996 đạt đến 9% năm, nhưng từ 1997 thì
giảm dần. Một số báo cáo cho rằng do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế
châu Á. Đó là cách lý giải mà ngay từ lúc đó cũng không có sức thuyết phục.
Dấu ấn của chính sách tỷ giá, tiền tệ các năm đó lớn hơn là ảnh hưởng từ
cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực. Chính là cơ chế cứng nhắc cùng với tỷ
giá đồng nội tệ cao đã làm mất đi cơ hội của đất nước khi mà dòng FDI thế
giới đang hướng mạnh vào.
Thâm hụt thương mại do tỷ giá và cũng được giải
quyết bởi tỷ giá
Kết quả kỳ diệu của cơ chế tỷ giá năm 1997. Đồng nội tệ đã bị đánh giá
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 6
cao cùng với tỷ giá bị cố định cứng trong khoảng thời gian dài từ 1992 đến
1996 đã thúc đẩy nhập khẩu ồ ạt. Do vậy, thâm hụt thương mại liên tục tăng
để lên đến đỉnh cao hơn 45% vào năm 1995. Năm 1997, lần đầu tiên cơ chế
xơ cứng của tỷ giá được điều chỉnh và kết quả thật kỳ diệu. Liên tục trong 4
năm thâm hụt thương mại giảm mạnh để chỉ còn -1% vào năm 2000. Các
năm 1999-2000 chỉ số giá chỉ tăng 0,1% và -0,6%. Tăng trưởng của GDP
cũng thấp: 4,8% năm 1999 và 6,7% năm 2000. Giải pháp được đưa ra lúc
này là kích cầu tăng trưởng thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư của
các doanh nghiệp nhà nước. Chi tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ
5% năm 2000 lên trên 8% từ sau năm 2005. Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng
lên đến 34% năm 2000 và đến 40% từ năm 2004 đến nay (2007). Từ đây các
nhân tố lạm phát được nuôi dưỡng.
Tốc độ tăng trưởng GDP thống kê qua các năm và
ước tính cho 2008
Đến hôm nay lạm phát quay trở lại. Năm 2004 đã xuất hiện những dấu
hiệu của cuộc lạm phát mới và được xác nhận lại vào năm 2005 nhưng đã
không có những giải pháp thoả đáng. Thậm chí đến giữa năm 2007 dấu hiệu
trở nên rõ ràng hơn thì một lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước vẫn tuyên bố
mạnh mẽ “lạm phát không thể đến mức hai con số”. Nếu nhìn lại trong vòng
3 thập kỷ qua, tính chu kỳ của nền kinh tế bộc lộ rõ hơn: cứ 10 năm lặp lại
một lần. Suy thoái diễn ra vào các năm x7, x8 sau khi đạt được đỉnh tăng
trưởng trong các năm x4, x5, x6. Tuy nhiên, đến nay liệu chúng ta đã có đủ
kinh nghiệm để không bị cuốn theo chu kỳ? Kiểm chứng về chính sách từ
lạm phát và hậu lạm phát năm 86 đến nay, cho thấy những lúc khó khăn nhất
thì có nhiều tiếng nói và có sự lắng nghe hơn, xuất hiện những cải cách
mạnh mẽ. Nhưng vào những lúc nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao
dần thì nhiều quyết định được đưa ra rất bất ngờ, ít được tham vấn, tiếng nói
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 7
đóng góp cũng ít xuất hiện. Phải chăng đây là căn bệnh cố hữu không thể
vượt qua?
II/Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi xảy ra lạm
phát
Cuộc chiến chống lạm phát của nền kinh tế Việt Nam giúp phát hiện
hai vấn đề: Một về cơ cấu và một về điều hành kinh tế vĩ mô.
Về cơ cấu, nền kinh tế của chúng ta đang đối mặt với một vấn đề
nghiêm trọng về sung dụng tài nguyên. Sung dụng tài nguyên không hiệu
quả đã làm lãng phí đồng vốn, lãng phí nhân lực, lãng phí tài nguyên thiên
nhiên trong một thời gian dài. Hệ số ICOR cao (4,5) cho thấy nền kinh tế
Việt Nam là một trong những nền kinh tế có đầu tư kém hiệu quả nhất trong
khu vực, và có năng lực cạnh tranh rất thấp. Những hệ quả tiếp theo của nó
càng ngày càng lộ rõ như thâm hụt cán cân thương mại ngày càng nghiêm
trọng (chỉ riêng năm tháng đầu năm 2008, con số này đã lên đến 14,4 tỉ
USD), khiếm hụt ngân sách luôn được duy trì ở mức 5% GDP trong nhiều
năm, và kết quả tất nhiên của nó là tốc độ lạm phát của nền kinh tế ngày
càng gia tăng (theo một ước lượng đáng tin cậy, nếu loại trừ tác động tăng
giá của thị trường thế giới như giá dầu và giá lương thực, tốc độ lạm phát do
tác động nội tại của nền kinh tế mà chủ yếu xuất phát từ vấn đề sử dụng tài
nguyên không hiệu quả, đã lên đến từ 8- 10%/năm). Tuy nhiên, giải quyết
vấn đề cơ cấu là một việc làm lâu dài, đòi hỏi một quyết tâm chính trị rất
cao. Bài toán về cơ cấu là bài toán không thể có lời giải một sớm một chiều,
nhưng đó là một bài toán phải kiên trì giải quyết ngay từ bây giờ, vì rằng đó
là bài toán sinh tử, quyết định tương lai phát triển và cường thịnh hay không
của nền kinh tế Việt Nam.
Về điều hành kinh tế vĩ mô, chúng ta đang gặp phải các vấn đề trong
chính sách ngân sách và chính sách tiền tệ. Nếu mục tiêu của chính sách
ngân sách vẫn là duy trì một mức khiếm hụt lên đến 5%/GDP tiếp tục trong
thời gian dài, những nỗ lực kiểm soát lạm phát nhằm ổn định kinh tế vĩ mô
sẽ rất khó thành công. Mục tiêu cân bằng ngân sách cần phải là một mục tiêu
được hướng tới kể từ bây giờ. Những nỗ lực chống lạm phát trước hết phải
được thể hiện bởi một quyết tâm từ phía Chính phủ, cụ thể hóa bởi các hành
động tiết kiệm ngân sách: tinh giản bộ máy hành chính, tiết kiệm công chi,
giảm đầu tư công. Tất cả những điều đó sẽ giúp cho việc sung dụng tài
nguyên quốc gia trở nên hiệu quả hơn, đồng thời khuyến khích phát triển
đầu tư tư nhân trong và ngoài nước ngay trong các lĩnh vực cần nguồn vốn
lớn như xây dựng cơ sở hạ tầng. Một ngân sách cân bằng sẽ có tác dụng tích
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 8
cực hai mặt: giảm thiểu tốc độ lạm phát và tăng cường hiệu quả của việc
sung dụng tài nguyên.
Về chính sách tiền tệ, chúng ta đang lúng túng giải quyết bài toán lãi
suất và tỷ giá. Sự lúng túng này đang gây khó khăn cho hệ thống ngân hàng
và các doanh nghiệp. Điều đáng quan tâm hơn là nó làm xói mòn niềm tin và
tâm lý lạc quan đã có trước đây của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Một
năm trước đây, kỳ vọng lạc quan đã là động lực thúc đẩy đầu tư và sự tăng
trưởng của các thị trường: thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị
trường bất động sản, thị trường chứng khoán. Tâm lý lạc quan thái quá có
thể tạo ra sự tăng trưởng bong bóng của một số thị trường nhưng một thái độ
lạc quan vẫn luôn luôn cần thiết để duy trì không những sự tăng trưởng kinh
tế mà cả sự ổn định.
III/ Nguyên nhân gây lạm phát ở Việt Nam
Lạm phát bên cạnh việc làm méo mó giá cả, nó còn làm sói mòn tiết
kiệm và không khuyến khích đầu tư, hạn chế tăng trưởng kinh tế, gây ra
những bất ổn chính trị và xã hội. Chính vì vậy, lạm phát được xem như một
căn bệnh nguy hiểm buộc chính phủ các nước phải kiềm chế nó bằng mọi
giải pháp. Do vậy, lạm phát đã có xu hướng giảm từ cuối những năm của
thập kỷ 80 trở lại đây, nhất là đối với những nền kinh tế mới nổi (xem bảng
sau):
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát gia tăng: Như sự
biến động bất thường về giá cả của một số mặt hàng nhiên liệu, lương thực,
thực phẩm do những cú sốc tiêu cực của cung - ví dụ như sự bất ổn chính trị
trên thế giới vừa qua làm tăng giá dầu, hoặc cú sốc đột biến của cầu - ví dụ
như nhu cầu thép tăng đột ngột của Trung Quốc v.v, còn có những nguyên
nhân từ yếu tố tiền tệ. Trường phái tiền tệ mà điển hình là Milton Friedman
đã nhận định rằng “lạm phát là một hiện tượng tiền tệ “. Nhận định này được
rút ra trên cơ sở các chứng cứ thực nghiệm nghiên cứu về sự tăng trưởng
tiền tệ kéo dài gắn với sự gia tăng lạm phát (lạm phát và sự tăng trưởng tiền
tệ tại Mỹ la tinh 1980-1990 và siêu lạm phát ở Đức 1921-1923 v.v). Bên
cạnh đó, những phân tích quan điểm lạm phát của trường phái Keynes cho
thấy rằng, sự gia tăng lạm phát có thể xuất phát do những cú sốc về cung
hoặc cầu, nhưng nếu cung tiền không tăng theo hay không thay đổi thì chỉ
trong một thời gian ngắn, kết quả ròng của cú sốc cung (cầu) sẽ làm dịch
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 9
chuyển cả đường tổng cung lẫn đường tổng cầu và đưa mức giá về mức ban
đầu. Do vậy những cú sốc về cung (cầu) không phải là nguồn gốc của lạm
phát cao (nhưng là nguồn gốc làm tăng mức giá trong ngắn hạn).
Trong các nguyên nhân dẫn đến lạm phát do yếu tố tiền tệ, theo
tổng kết của IMF thường xuất phát từ chính sách tài khóa và chính sách tiền
tệ (CSTT): Sự thâm hụt ngân sách kéo dài được bù đắp bằng việc in tiền,
và/hoặc sự chi tiêu quá mức và thất thoát lớn trong xây dựng cơ bản của
chính phủ sẽ là nguyên nhân gây ra lạm phát, hoặc CSTT quá nới lỏng, dẫn
tới tăng cung tiền, tăng đầu tư tín dụng quá mức v.v. cũng là nguyên nhân
gây lạm phát. Do vậy, để kiểm soát lạm phát ở mức mục tiêu luôn đòi hỏi sự
phối hợp rất chặt chẽ trong điều hành CSTT và chính sách tài khóa.
Xét trong giác độ điều hành CSTT để kiểm soát lạm phát (lạm phát
được coi là mục tiêu cuối cùng của CSTT), tùy điều kiện kinh tế, mức độ
phát triển của thị trường tiền tệ, khả năng điều tiết tiền tệ của Ngân hàng
Trung ương (NHTW) mà NHTW các nước sử dụng các công cụ khác nhau
để kiểm soát lạm phát. Thực tế hiện nay cho thấy, đối với những nước phát
triển, là những nước có thị trường tiền tệ, thị trường vốn phát triển, đặc biệt
là những nước theo đuổi khuôn khổ CSTT hướng tới mục tiêu lạm phát
(Inflation targeting), NHTW thường không quan tâm đến sự gia tăng của
cung tiền (Money supply-M2), mà chỉ quan tâm đến sự thay đổi của lãi suất
có ảnh hưởng như thế nào đến sự gia tăng lạm phát, qua đó họ điều chỉnh lãi
suất chỉ đạo của NHTW nhằm đạt được lạm phát mục tiêu. Nhưng đối với
những nước đang phát triển, thị trường tài chính phát triển ở mức độ thấp,
thì việc kiểm soát lạm phát thường thực hiện thông qua việc kiểm soát cung
tiền.
Đứng trên giác độ cung tiền là nhân tố tá