Thế kỷ 21 được đánh dấu bằng những thành tựu khoa học kỹ thuật vượt trội trong các lĩnh vực điện tử - tin học – y học mở ra một trang mới trong công cuộc làm chủ thế giới của loài người. toàn nhân loại đang đứng trước những vận hội mới, thách thức mới. Trong sự luôn chuyển mang tính tuần hoàn ấy của loài người. Việt Nam chúng ta không thể nào đứng ngoài cuộc. Hơn một thập kỷ trôi qua kể từ khi nước ta bước vào nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa - bây giờ là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (KTTT XHCN), chúng ta đã trải qua bao nhiêu khó khăn thử thách, đồng thời cũng đạt được những thành tựu đáng kể trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân. Đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới mà sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu. Để thực hiện nhiệm vụ này, việc huy động và sử dụng vốn một cách hiệu quả là hết sức quan trọng. Bởi lẽ vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi hoạt động của nền kinh tế, nhu cầu về vốn nổi lên như một hoạt động cấp bách.
Thực tế trong những năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận về việc quản lý và sử dụng vốn, song bên cạnh đó còn tồn tại nhiều bất cập cần được giải quyết: Tình trạng ứ đọng vốn ở các ngân hàng, thiếu vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp, việc sử dụng vốn bữa bãi, lãng phí còn diễn ra phổ biến. Vì vậy việc nghiên cứu và vận dụng lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác để tim ra phương thức huy động và sử dụng vốn hợp lý là hết sức cần thiết.
Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về nhiệm vụ xây dựng CNXH và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác. Ý nghĩa của nó đối với hoạt động huy động và sử dụng vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”. Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, cách thức vận dụng thực tế của học thuyết tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản vào nền kinh tế và đưa ra một số biện pháp để huy động vốn hiệu quả và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Với đề tài này chúng tôi mong muốn người đọc sẽ hiểu được tầm quan trọng của lý luận kinh tế chính trị Mác – Lênin và có cái nhìn khách quan hơn quá trình huy động và sử dụng vốn ở nước ta hiện nay.
Kết cấu đề tài bao gồm hai chương (ngoài phần mở đầu và kết luận):
Chương I: Lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác
Chương II: Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản đối với quá trình huy động và sử dụng vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
40 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5877 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác. Ý nghĩa của nó đối với hoạt động huy động và sử dụng vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác. Ý nghĩa của nó đối với hoạt động huy động và sử dụng vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỷ 21 được đánh dấu bằng những thành tựu khoa học kỹ thuật vượt trội trong các lĩnh vực điện tử - tin học – y học…mở ra một trang mới trong công cuộc làm chủ thế giới của loài người. toàn nhân loại đang đứng trước những vận hội mới, thách thức mới. Trong sự luôn chuyển mang tính tuần hoàn ấy của loài người. Việt Nam chúng ta không thể nào đứng ngoài cuộc. Hơn một thập kỷ trôi qua kể từ khi nước ta bước vào nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa - bây giờ là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (KTTT XHCN), chúng ta đã trải qua bao nhiêu khó khăn thử thách, đồng thời cũng đạt được những thành tựu đáng kể trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân. Đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới mà sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu. Để thực hiện nhiệm vụ này, việc huy động và sử dụng vốn một cách hiệu quả là hết sức quan trọng. Bởi lẽ vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi hoạt động của nền kinh tế, nhu cầu về vốn nổi lên như một hoạt động cấp bách.
Thực tế trong những năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận về việc quản lý và sử dụng vốn, song bên cạnh đó còn tồn tại nhiều bất cập cần được giải quyết: Tình trạng ứ đọng vốn ở các ngân hàng, thiếu vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp, việc sử dụng vốn bữa bãi, lãng phí còn diễn ra phổ biến. Vì vậy việc nghiên cứu và vận dụng lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác để tim ra phương thức huy động và sử dụng vốn hợp lý là hết sức cần thiết.
Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về nhiệm vụ xây dựng CNXH và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác. Ý nghĩa của nó đối với hoạt động huy động và sử dụng vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”. Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, cách thức vận dụng thực tế của học thuyết tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản vào nền kinh tế và đưa ra một số biện pháp để huy động vốn hiệu quả và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Với đề tài này chúng tôi mong muốn người đọc sẽ hiểu được tầm quan trọng của lý luận kinh tế chính trị Mác – Lênin và có cái nhìn khách quan hơn quá trình huy động và sử dụng vốn ở nước ta hiện nay.
Kết cấu đề tài bao gồm hai chương (ngoài phần mở đầu và kết luận):
Chương I: Lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác
Chương II: Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản đối với quá trình huy động và sử dụng vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Chương I
Lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và quá trình lưu thông của tư bản, giữa quá trình tạo ra giá trị thặng dư và quá trình thực hiện giá trị thăng dư. Bởi vậy sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất cần tiếp tục nghien cứu quá trình lưu thông của tư bản, xác định rõ vị trí vai trò của lưu thông, hiểu ddaayd đủ quá trình vận động của tư bản cũng như quan hệ bóc lột được biểu hiện trong quá trình vận động đó.
Lưu thông tư bản hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái hàng hóa và từ hình thái hàng hóa chuyển thành hình thái tiền tệ. Qua trình đó gồm việc mua hàng hóa (T – H) và bán hàng hóa (H – T) được diễn ra trên thị trường. Lưu thông của tư bản hiệu hiểu theo nghĩa rộng là sự vận động của tư bản làm cho tư bản ngày một lớn lên, nhờ đó mà giá trị thặng dư được sản xuất ra nhiều hơn. Sự vận động của tư bản như vậy cũng chính là sự tuần hoàn và chu chuyển tư bản.
Tư bản
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột sức lao động của người là thuê.
Công thức chung của tư bản
Vị trí của tiền
Lưu thông hàng hóa là khởi điểm của tư bản. Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa, đồng thời cũng là biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định,nhưng bản thân tiền lại không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định khi chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác.
Tiền có hai phương thức vận động.
Trong lưu thông hàng hóa giản đơn, tiền được coi là tiền thông thường vận động theo công thức: H-T-H (hàng-tiền-hàng) nghĩa là sự chuyển hóa của hàng hóa thành tiền, rồi tiền lại chuyển thành hàng hóa. Ở đây tiền tệ không phải là tư bản, mà chỉ là tiền tệ thông thường với đúng nghĩa của nó, và chỉ là phương tiện để đạt tới một mục đích bên ngoài lưu thông. Người sản xuất hàng hóa bán hàng hóa của mình lấy tiền tệ, rồi lại dùng tiền tệ đó để mua hàng hóa khác phục vụ cho những nhu cầu tiêu dùng nhất định của mình. Hay nói cách khác, mục đích của nó là giá trị sử dụng nên vòng lưu thông chấm dứt ở giai đoạn mua (T-H) khi những người trao đổi đã có được những giá trị sử dụng mà họ cần. Nên sự vận động có giới hạn.
Trong lưu thông tư bản tiền được coi là tư bản, vận động theo công thức T-H-T (tiền- hàng-tiền) tức là sự chuyển hóa của tiền thành hàng hóa, rồi hàng hóa lại chuyển hóa ngược lại thành tiền. Mục đích của nó là giá trị và sự lớn lên của giá trị là giá trị thặng dư, nên sự vận động của nó không có giới hạn vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.
1.2 So sánh hai công thức H-T-H và T-H-T
Công thức lưu thông hàng hóa giản đơn H – T - H và công thức lưu thông tư bản T – H - T là biểu hiện của nền sản xuất hàng hóa ở hai mức độ khác nhau. Nhưng giữa chúng lại có những điểm giống và khác nhau:
Điểm giống nhau: hai công thức lưu thông trên đều cấu tạo bởi hai yếu tố hàng (H) và tiền (T); đều chứa đựng hai hành vi đối lập nhau là mua và bán; đều biểu hiện kinh tế giữa người mua và người bán; và đều diễn ra trên thị trường.
Điểm khác nhau: lưu thông hàng hóa giản đơn (H-T-H): bắt đầu bằng hành vi bán (H-T) và kết thúc bằng hành vi mua (T-H). Điểm bắt đầu và kết thúc đều là hàng hóa; tiền chỉ đóng vai trò trung gian, mục đích là giá trị sử dụng. Nhưng ngược lại trong lưu thông tư bản (T-H-T): bắt đầu bằng hành vi mua (T-H) và kết thúc bằng hành vi bán (T-H). Tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc, còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian,Tiền ở đây không phải là chi ra dứt khoát mà chỉ là ứng ra thu về. Mục đích của lưu thông tư bản là giá trị và giá trị lớn hơn.
1.3 Công thức chung của tư bản
Như chúng ta đã biết, mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy, nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa. Do đó số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản hay tiền chuyển hóa thành tư bản theo công thức: T-H-T’ trong đó T’=T+ ∆T. ∆T là số tiền trội hơn so với số tiền đã ứng ra C.Mac gọi là giá trị thặng dư-kí hiệu là m. T ban đầu ứng ra với mục đích thu được giá trị thặng dư trở thành tư bản.
Công thức T-H-T’ với T’=T+m được C.Mac gọi là công thức chung của tư bản vì vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù là tư bản thương nghiệp tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay, nói cách khác mọi tư bản đều vận động như vậy nhằm mang lại giá trị thặng dư. Điều này rất dễ nhận thấy trong thực tiễn, bởi vì hình thức vận động của tư bản thương nghiệp là mua vào để bán ra đắt hơn, rất thích hợp với công thức trên. Tư bản công nghiệp vận động phức tạp hơn nhưng dù sao cũng không thể tránh khỏi những giai đoạn T-H và H-T. Còn sự vận động của tư bản cho vay để lấy lãi chẳng qua cũng chỉ là công thức trên được rút ngắn lại T-T’. C.Mac chỉ rõ: “Vậy T-H-T thực sự là công thức chung của tư bản đúng như nó trực tiếp thể hiện ra trong lĩnh vực lưu thông.
Mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản
Mâu thuẫn của cộng thức chung của tư bản
Tại sao quá trình lưu thông lại thu về được T', nguồn gốc thực sự của số tiền tăng thêm này từ đâu? Nó được tăng lên trong phạm vi lưu thông hoặc ngoài lưu thông.
Trong lưu thông:
Trường hợp trao đổi ngang giá: chỉ có sự thay đổi hình thái giá trị, còn tổng số giá trị cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi trước sau vẫn ko thay đổi.
Trường hợp trao đổi ko ngang giá: có thể xảy ra 3 trường hợp sau. Thứ nhất, bán hàng hóa cao hơn giá trị: nhà tư bản sẽ đc khi bán cao và sẽ mất khi mua. Thứ hai là bán hàng hóa thấp hơn giá trị: nhà tư bản sẽ được do mua rẻ & sẽ bị mất khi bán. Thứ ba là nhà tư bản chuyên mua rẻ, bán đắt. Nhưng xét trong tổng giá trị toàn xã hội cũng không hề tăng lên, ở đây chỉ có sự phân phối lại lượng giá trị có sẵn trong xã hội mà thôi.
Như vậy trong lưu thông dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá đều không tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà TB. Trở lại ngoài lưu thông chúng ta xem xet hai trường hợp:
Xét các yếu tố tiền: nếu tiền làm phương tiện cất trữ, không tiếp xúc gì với lưu thông, thì tiền cũng ko tự lớn lên được.
Xét các yếu tố hàng: nếu người trao đổi vẫn đứng một mình với hàng hóa của anh ta, thì giá trị của hàng hóa ấy không tăng lên
Tóm lại, xét trong lưu thông hay ngoài lưu thông với các trường hợp ở trên đều không tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là giá trị thặng dư không được tạo ra trong lưu thông & cũng không thể xuất hiện bên ngoài lưu thông. Như C.Mác khẳng định “Vậy là tư bản không thể xuất hiệ từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ngoài lưu thông.
2.2 Cách thức giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của TB
Các Mác là người đầu tiên phân tích & giải quyết mâu thuẫn trong công thức của TB bằng lý luận về hàng hóa sức lao động. Sự chuyển hóa của số tiền cần phải chuyển hóa thành tư bản không thể xảy ra rong bản than số tiền đó, mà chỉ có thể xảy ra ở số hàng hóa được mua vào. C.Mác đã nhận tháy đó không phải là một hàng hóa thông thường mà là một hàng hóa đặc biệt mà giá trị của nó là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư. Thứ hàng hóa đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Sức lao động là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong than thể một con người trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích. Nhà TB khi đưa tiền vào lưu thông đã dùng tiền mua được hàng hóa đặc biệt là hàng hóa sức lao động, để sử dụng nó (không phải bán nó), sẽ tạo ra giá trị thặng dư cho nhà TB. Hàng hóa đặc biệt này có đặc điểm về giá trị sử dụng là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản. Sử dụng hàng hóa sức lao động tức là quá trình người công nhận tiến hành lao động, là sự kết hợp sức lao động của công nhân với tư liệu sản xuất; trong quá trình lao động = lao động trừu tượng - sự hao phí thể lực , trí lực mới sẽ tạo giá trị mới cho hàng hóa, lượng giá trị mới này lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Tóm lại tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bó lột sức lao động của công nhân làm thuê. Mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản là: Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông cũng không thể xuất hiện ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông đồng thời không phải trong lưu thông. Bằng việc chỉ ra hàng hóa sức lao động C.Mác đã giải quyết được mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản.
Lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản.
Lý luận tuần hoàn tư bản
Tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái khác nhau, thể hiện ba chức năng khác nhau để rồi quay trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.
Ba giai đoạn vận động của tư bản và sự biến hóa hình thái của tư bản.
Mọi tư bản sản xuất trong qúa trình vận động đều trải qua 3 giai đoạn, tồn tại dưới ba hình thức và thực hiện ba chức năng.Giai đoạn thứ nhất: Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách người mua, thực hiện hành vi T - H, tức là mua.Giai đoạn thứ hai: Nhà tư bản tiêu dùng sản xuất các hàng hoá đã mua, tức tiến hành sản xuất, kết quả là nhà tư bản có được một hàng hoá có giá trị lớn hơn giá trị các yếu tố sản xuất ra hàng hoá đó.Giai đoạn thứ ba: Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán, thực hiện hành vi H' - T', tức là bán.
Giai đoạn thứ nhất: T – H
T - H ở đây chỉ là hành vi mua bán thông thường, tiền tệ được sử dụng làm phương tiện mua như mọi số tiền khác trong lưu thông. Tiền tuy làm phương tiện mua nhưng phải mua được hàng hoá sức lao động và tư liệu sản xuất nhằm mục đích sản xuất giá trị thặng dư. Hành vi T - H không chỉ đơn thuần biểu thị việc chuyển hoá một món tiền thành hàng hoá, mà nó đã bước vào 9 giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản.Hơn nữa, việc mua tư liệu sản xuất và sức lao động không những phải phù hợp với loại sản phẩm cần chế tạo, mà phải tỉ lệ thích hợp với nhau về số lượng. Tỉ lệ đó nhằm bảo đảm cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường và nhất là để sử dụng được triệt để toàn bộ thời gian lao động của công nhân. Nếu thiếu tư liệu sản xuất thì công nhân không không đủ việc làm. Ngược lại, thiếu công nhân thì tư liệu sản xuất cũng không được tận dụng để tạo ra sản phẩm. Do đó, lòng thèm khát lao động thặng dư của nhà tư bản cũng không được thoả mãn.Quá trình này thể hiện như sau:
SLĐ
T-H
TLSX
Rõ ràng, trong quá trình này hành vi T - Slđ (việc mua sức lao động) là yếu tố đặc trưng khiến tiền xuất hiện ngay từ đầu với tư cách là tư bản. Hành vi T - Tlsx chỉ cần thiết để sức lao động đã mua có thể hoạt động được song T - Slđ được coi là nét đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải do tính chất tiền tệ của mối quan hệ đó. Tiền đã xuất hiện rất sớm để mua cái được gọi là sự phục vụ, nhưng tiền lúc ấy vẫn không biến thành tư bản tiền tệ. Nét đặc trưng không phải ở chỗ người ta có thể mua sức lao động bằng tiền, mà sức lao động biến thành hàng hoá. Đây là một việc mua bán, một quan hệ hàng hoá tiền tệ, những người mua là nhà tư bản - kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất và người bán là người lao động làm thuê bị tách rời hoàn toàn với tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Vậy không phải bản chất của tiền tệ đã đẻ ra mối quan hệ tư bản chủ nghĩa; trái lại, chính sự tồn tại của quan hệ tư bản chủ nghĩa mới làm cho chức năng của tiền tệ là công cụ của lưu thông hàng hoá nói chung biến thành chức năng của tư bản. Do đó, trên cơ sở tư liệu sản xuất và sức lao động đã hoàn toàn bị tách rời nhau, quan hệ giai cấp giữa nhà tư bản và người lao động làm thuê đã có rồi, thì tiền của nhà tư bản ứng ra để thực hiện hành vi:
SLD T-H
TLSX
Hoàn thành quá trình này, giá trị tư bản đã trút bỏ hình thái tiền tệ và mang hình thái các yếu tố của sản xuất TBCN: tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là hình thái tư bản sản xuất. Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ 1' là tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
Giai đoạn thứ hai: Tư bản ứng ra mua hàng hoá sức lao động tư liệu sản xuất nhằm mục đích thu về một tư bản có gía trị lớn hơn. Mục đích đó không thể thực hiện được bằng cách bán ngay các hàng hoá đã mua mà chỉ có thể đạt được bằng cách sử dụng các hàng hoá ấy sản xuất ra một hàng hoá mới. Do đó, tiếp theo giai đoạn thứ 1' (mua sức lao động và tư liệu sản xuất) tất yếu dẫn đến giai đoạn thứ hai - giai đoạn sử dụng các hàng hoá đã mua, tức sản xuất. Quá trình này có thể biển diễn như sau: SLĐ
H …....SX....H' TLSX
Quá trình sản xuất ở đây diễn ra cũng giống như quá trình sản xuất của mọi hình thái xã hội khác, là sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Phương thức kết hợp đặc thù này không chỉ là kết quả, mà còn là yêu cầu của sự vận động tư bản, qúa trình sản xuất vì vậy trở thành một chức năng của tư bản, trở thành quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong khi thực hiện chức năng của mình, tư bản sản xuất tiêu dùng các thành phần của nó để biến thành một khối lượng sản phẩm có giá trị lớn hơn. Kết quả là một hàng hoá mới được tạo ra khác cả về giá trị sử dụng và lượng giá trị so với các hàng hoá cấu thành tư bản sản xuất. Hàng hoá mới này là hàng hoá mang giá trị thặng dư, đã trở thành H', có giá trị bằng giá trị của tư bản sản xuất hao phí ra nó cộng với gía trị thặng dư (m) do tư bản sản xuất ấy đẻ ra. Nhờ vậy kết quả của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hoá.
Giai đoạn thứ ba: H ' - T' Sản xuất hàng hoá, tư bản chưa thể ngừng vận động nhà tư bản đang tồn tại dưới hình thức hàng hoá, cần phải đem bán để thu tiền về.
Quá trình này có thể biểu hiện bằng công thức H' - T'. Không khác gì hàng hoá thông thường, hàng hoá tư bản đưa ra lưu thông cũng chỉ thực hiện chức năng vốn có của hàng hoá là bán để lấy tiền. Nhưng nó là tư bản hàng hoá người ngay sau khi quá trình sản xuất, nó đã là hàng hoá, có giá trị bằng giá trị tư bản ứng trước và giá trị thặng dư. Nhờ vậy, tiến hành trao đổi theo đúng quy luật giá trị của nó thu về được T', nghĩa là thu về được số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra ban đầu. Chức năng của H' không chỉ là chức năng của mọi sản phẩm hàng hoá, mà quan trọng hơn còn là chức năng thực hiện giá trị thặng dư được tạo ra trong qúa trình sản xuất. Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hoá đã biến thành tư bản tiền tệ. Đến đây, mục đích của tư bản được thực hiện. Tư bản trở lại hình thái ban đầu, với số lượng lớn hơn trước.Tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả ba giai đoạn, ta có công thức:
SLĐ T-H …......sản xuất..........H'-T'
TLSX
Trong công thức này, với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một chuỗi biến hoá hình thái có quan hệ với nhau, qui định lẫn nhau; có bao nhiêu biến hoá hình thái là có bấy nhiêu thời kỳ hay giai đoạn của quá trình vận động từ tư bản. Trong giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất. Sự vận động của tư bản trải qua đoạn, lần lượt mang ba hình thái rồi quay trở về hình thái ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn tăng lên, gọi là sự tuần hoàn của tư bản.Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường chừng nào các giai đoạn khác nhau của nó không ngừng chuyển tiếp. Mặt khác, bản thân sự tuần hoàn của tư bản lại làm cho tư bản phải nằm lại ở mỗi một giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Do đó, sự vận động tuần hoàn của tư bản là sự vận động đứt quảng không ngừng. Chính trong sự vận động mâu thuẫn đó mà tư bản tự bảo tồn, chuyển hoá giá trị và không ngừng lớn lên.
Điều kiện để cho tuần hoàn TB được bình thường: Sự vận động của TB chỉ diễn ra bình thường khi các giai đoạn của nó được diễn ra liên tục, kế tiếp nhau. Mỗi sự gián đoạn ở bất kỳ giai đoạn nào cũng khiến cho sự tuần hoàn này bị đình trị. Mặt khác, TB phải tồn tại dưới cả ba hình thái là TB tiền tệ, TB sản xuất, TB hàng hoá.
1.2 Sự thống nhất của 3 hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp.
Quá trình vận động của tư bản chủ nghĩa trải qua 3 giai đoạn, tư bản lần lượt khoác lấy 3 hình thái: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa. Mỗi một hình thái đều có thể xem là điểm xuất phát, đồng thời là điểm hồi quy của nó. Tư bản công nghiệp là loại hình tư bản vận động đồng thời cùng một lúc dưới cả 3 dạng tuần hoàn: tuần hoàn của tư bản tiền tệ, tuần hoàn của tư bản sản xuất, tuần hoàn của tư bản hàng hóa. Sau đây, ta đi sâu xem xét cụ thể từng dạng tuần hoàn đó.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ vận động theo công thức:
SLĐ
T – H …SX… H’ – T’
TLSX
Theo tuần hoàn này điểm xuất phát là T và điểm kết thúc là T’ ( với T’ > T). Do đó tuần hoàn của tư bản tiền tệ biểu thị một cách rõ rệt nhất động cơ và mục đích của tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, tiền đẻ ra tiền lớn hơn. Trong tuần hoàn này T là phương tiện ứng ra trong lưu thông và T’ là mục đích đạt được trong lưu thông nên hình như lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn, còn giai đoạn sản xuất chỉ là khâu trung gian không thể tránh được, chỉ là một “tai vạ” cần thiết để làm ra tiền, để tăng thêm giá trị. Chính vì vậy mà hình thái tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái nổi bật nhất, đặc trưng nhất của tuần hoàn tư bản công nghiệp, đồng thời cũng là hình thức phiến diện nhất, che dấu bản chất bóc lột của