Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách xã hội lớn của mỗi quốc gia, bất kể quốc gia đó có thể chế chính trị như thế nào và theo định hướng gì (thị trường hay kế hoạch). Chính sách BHXH, được xây dựng nhằm bảo vệ, trước hết cho một lực lượng lao động đông đảo trong xã hội, đó là những người làm công ăn lương, trước những sự kiện, những “rủi ro xã hội”, dẫn đến làm giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp. Tiếp đến là sự mở rộng phạm vi áp dụng cho những nhóm đối tượng khác, khi điều kiện kinh tế - xã hội cho phép và đa số các nước đang thực hiện theo xu hướng này. Đây chính là tính nhân văn khách quan của BHXH, là nền tảng cho sự ổn định và phát triển xã hội. Kinh tế của mỗi quốc gia chỉ có thể tăng trưởng một cách bền vững khi người dân được phân phối công bằng, khi người dân được thụ hưởng các thành quả của kinh tế. BHXH chính là một “kênh” quan trọng tạo ra sự công bằng này. Các quốc gia, dù đã phát triển hay đang phát triển, vẫn tiếp tục hoàn thiện, tiếp tục đổi mới chính sách BHXH của mình.Vì vậy em quyết định chọn đề tài “ Mối quan hệ giữa các chính sách Bảo hiểm xã hội và tăng trưởng kinh tế. Liên hệ thực tiễn vấn đề này ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận cho môn Lý thuyết Bảo hiểm xã hội.
26 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 5757 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa các chính sách Bảo hiểm xã hội và tăng trưởng kinh tế. Liên hệ thực tiễn vấn đề này ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
I. LỜI NÓI ĐẦU 2
II.NỘI DUNG 3
Phần I: Cơ sở lý luận 3
1. Giới thiệu chung về Bảo hiểm xã hội và Tăng trưởng kinh tế: 3
1.1. Khái niệm về Bảo hiểm xã hội: 3
1.2. Khái niệm về chính sách Bảo hiểm xã hội: 3
1.3. Khái niệm về Tăng trưởng kinh tế: 3
2. Chính sách BHXH và tăng trưởng kinh tế: 4
2.1. Chính sách Bảo hiểm xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế. 4
2.2. Tăng trưởng kinh tế tác động tích cực trong việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội. 7
Phần II: Mối quan hệ giữa chính sách BHXH và tăng trưởng kinh tế ở 10
Việt Nam. 10
1. Thực trạng chính sách BHXH tác động đến tăng trưởng kinh tế 10
1.1. BHXH bắt buộc 1
1.2. BHXH tự nguyện 3
1.3. Bảo hiểm thất nghiệp 4
2. Tăng trưởng kinh tế tác động đến chính sách BHXH 8
Phần III. Giải pháp 10
3.1. Biện pháp: 10
3.1.1. Về công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật 10
3.1.2. Về chế tài bảo đảm việc thực thi pháp luật BHXH, BHYT 10
3.1.3. Về thực hiện BHXH tự nguyện 11
3.2. Kiến nghị 11
III. KẾT LUẬN 14
Tài liệu tham khảo 16
DANH MỤC VIẾT TẮT
BHXH: Bảo hiểm xã hội
BHYT: Bảo hiểm y tế
BHXH TN: Bảo hiểm xã hội tự nguyện
ASXH: An sinh xã hội
NLĐ: Người lao động
NSDLĐ: Người sử dụng lao động
I.LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách xã hội lớn của mỗi quốc gia, bất kể quốc gia đó có thể chế chính trị như thế nào và theo định hướng gì (thị trường hay kế hoạch). Chính sách BHXH, được xây dựng nhằm bảo vệ, trước hết cho một lực lượng lao động đông đảo trong xã hội, đó là những người làm công ăn lương, trước những sự kiện, những “rủi ro xã hội”, dẫn đến làm giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp. Tiếp đến là sự mở rộng phạm vi áp dụng cho những nhóm đối tượng khác, khi điều kiện kinh tế - xã hội cho phép và đa số các nước đang thực hiện theo xu hướng này. Đây chính là tính nhân văn khách quan của BHXH, là nền tảng cho sự ổn định và phát triển xã hội. Kinh tế của mỗi quốc gia chỉ có thể tăng trưởng một cách bền vững khi người dân được phân phối công bằng, khi người dân được thụ hưởng các thành quả của kinh tế. BHXH chính là một “kênh” quan trọng tạo ra sự công bằng này. Các quốc gia, dù đã phát triển hay đang phát triển, vẫn tiếp tục hoàn thiện, tiếp tục đổi mới chính sách BHXH của mình.Vì vậy em quyết định chọn đề tài “ Mối quan hệ giữa các chính sách Bảo hiểm xã hội và tăng trưởng kinh tế. Liên hệ thực tiễn vấn đề này ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận cho môn Lý thuyết Bảo hiểm xã hội.
Trong quá làm bài tiểu luận,nhưng do trình độ nhận thức và thời gian có hạn, nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em kính mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô trong bộ môn để giúp bài viết của em được hoàn thiện hơn.Em xin chân thành cảm ơn!
II.NỘI DUNG
Phần I: Cơ sở lý luận
1. Giới thiệu chung về Bảo hiểm xã hội và Tăng trưởng kinh tế:
1.1. Khái niệm về Bảo hiểm xã hội:
Theo nghĩa rộng, có thể hiểu “Bảo hiểm xã hội là hình thức bảo hiểm thu nhập và cung cấp các dịch vụ việc làm, chăm sóc y tế thiết yếu cho người lao động và một số thành viên trong gia đình họ trong trường hợp ốm đau,thai sản, tai nạn nghề nghiệp, tàn tật, hưu trí, tử tuất thất nghiệp… trên cơ sở đóng quỹ của người tham gia, góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho họ và an toàn xã hội”.
Theo nghĩa hẹp thì “Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo bù đắp một phần hoặc thay thế thu nhập của người lao động khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động, hoặc chết…trên cơ sở đóng góp và sử dụng một quỹ tài chính tập trung, nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho họ và an toàn xã hội”
Việc sử dụng khái niệm theo nghĩa nào tùy thuộc vào từng quốc gia và mục đích sử dụng của từng cá nhân. Tuy nhiên ở Việt Nam thường sử dụng khái niệm theo nghĩa hẹp chỉ gồm những trường hợp bảo hiểm thu nhập cho người lao động đã được quy định trong Luật bảo hiểm xã hội (26/12/2006).
1.2. Khái niệm về chính sách Bảo hiểm xã hội:
Chính sách bảo hiểm xã hội là những nguyên tắc và biện pháp của nhà nước vè vấn đề bảo hiểm xã hội cho người lao động nhằm đảm bảo thực hiện quyền tham gia và thụ hưởng BHXH cho mọi thành viên xã hội, góp phần ổn định, công bằng và phát triển xã hội.
1.3. Khái niệm về Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng kinh tế nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô và tốc độ tăng trưởng là "cặp đôi" trong nội dung khái niệm tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, trên thế giới người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị của cải của xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm quốc nội.
Trong đó:
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị tính bằng tiền của những hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của mình (dù là sản xuất ở trong nước hay ở nước ngoài) trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của nước đó (dù nó thuộc về người trong nước hay người nước ngoài) trong một thời gian nhất định (thường là một năm).
2. Chính sách BHXH và tăng trưởng kinh tế:
2.1. Chính sách Bảo hiểm xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình nghiên cứu, các nhà kinh tế học cho rằng những động lực thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế là phức tạp vơi nhiều yếu tố tác dộng. Các phép phân tích cổ điển đưa ra nhận định “ sự tăng trưởng kinh tế chỉ là kết quả của việc bỏ thêm sức lao động và vốn vào quá trình sản xuất, song trên thực tế nó không phải lúc nào cũng đúng khi lý giải sự khác nhau trong tốc độ tăng trưởng và phát triển của những nước khác nhau trên thế giới. Ngoài vốn và sức lao động ra, còn có nhiều nhân tố khác cũng ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Tìm hiểu những nhân tố này, các nhà kinh tế học đã nhận ra vai trò quan trọng của các chính sách xã hội mà trong đó BHXH là một bộ phận cấu thành quan trọng của chính sách xã hội này và là một trong những nhân tố quan trọng tác động tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
+ Một hệ thống y tế được tổ chức có hiệu quả sẽ góp phần nâng cao sức khỏe cho lực lượng lao động. Một hệ thống hưu trí bảo đảm được thu nhập cho người nghri hưu, cho thân nhân những người mất sớm; giảm chi phí đóng góp của người lao động sẽ giúp cho họ ổn định cuộc sống, có điều kiện đầu tư tốt hơn cho việc giáo dục con cái mình. Bảo hiểm thất nghiệp sẽ tạo cơ hội cho người lao động nhanh chóng trở lại thị trường lao động. Theo các phương thức này, các chương trình BHXH sẽ có tác động tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện khả năng cạnh tranh quốc tế.
Một quốc gia có nền kinh tế chậm phát triển, xã hội lạc hậu, đời sống nhân dân thấp kém thì hệ thống BHXH cũng chậm phát triển ở mức tương ứng. Giữa tăng trưởng kinh tế và bảo hiểm xã hội bao giờ cũng có mối quan hệ cùng chiều với nhau, thúc đẩy nhau.
Khi nền kinh tế phát triển đời sống của người lao động được nâng cao, thì nhu cầu về bảo hiểm của họ càng tăng. Thông qua hệ thống chính sách BHXH, trình độ tổ chức, quản lí rủi ro xã hội của các nhà nước cũng ngày càng được nâng cao thể hiện bằng việc mở rộng đối tượng tham gia, đa dạng về hình thức bảo hiểm, quản lí được nhiều trường hợp rủi ro trên cơ sở phát triển các chế độ BHXH.
Như vậy, ở một phương diện nhất định, chính sách BHXH thể hiện trình độ văn minh của quốc gia. Quốc gia càng văn minh thì nhận thức của họ về vai trò của BHXH càng tăng.
+ Hoạt động BHXH góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội phát triển. Đặc biệt với bảo hiểm hưu trí, nguồn vốn tich lũy trong thời gian dài, kết dư tương đối lớn, có thể đầu tư vào các doanh nghiệp, các dự án cần huy động vốn, mang lại lợi ích cho tất cả các bên: người tham gia BHXH, Cơ quan BHXH và nền kinh tế xã hội nói chung.
+ Thông qua chính sách BHXH bắt buộc, BHXH còn góp phần làm cho quá trình sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn nhanh chóng hơn. Tức là BHXH đã góp phần làm cho kinh tế xã hội phát triển.
Chính sách BHXH được thiết kế hợp lí sẽ có tác dụng tích cực thông qua việc gia tăng các cơ hội giáo dục, dịch chuyển nguồn lao động, giữ vững ổn định xã hội. Nguồn quỹ BHXH hình thành từ sự đóng góp chủ yếu của người lao động và người sử dụng lao động, ngoài việc thực hiện chi trả, đảm bảo quyền lợi thụ hưởng của người tham gia BHXH, một phần còn được đầu tư vào cá hoạt động sinh lời theo nguyên tắc đảm bảo an toàn, hiệu quả và thu hồi được khi cần thiết. Nếu nguồn quỹ BHXH được đầu tư đúng hướng và hiệu quả, một chính sách BHXH được thiết kế hợp lí sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chức năng của quỹ BHXH là để chi trả các trợ cấp BHXH và chi phí cho các hoạt động của hệ thống BHXH. Tuy nhiên, do tính đặc thù, các chi phí BHXH phát sinh không đồng đều và dàn trải theo thời gian và theo không gian, đặc biệt là các chi phí cho các trợ cấp dài hạn, ngân quỹ BHXH luôn luôn có một lượng "nhàn rỗi tương đối" chưa dùng đến. Và quỹ BHXH cũng là một quỹ tiền tệ, nên cần được đưa vào sử dụng để bảo toàn và tăng trưởng giá trị. Cũng do tính đặc thù, nên việc đầu tư của quỹ BHXH không thể như những quỹ kinh doanh khác, mà phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản là: an toàn, thuận tiện khi thu hồi vốn, phục vụ cho những lợi ích công cộng. Vì vậy, những hướng đầu tư của quỹ BHXH thường là cho Chính phủ vay hoặc trực tiếp được đầu tư vào các dự án phát triển hoặc những công trình phúc lợi (xây nhà ở cho người lao động, xây dựng đường xá). Ơ Pháp, quỹ BHXH lớn gấp 3 - 4 lần ngân sách của Chính phủ và thường được đầu tư vào phát triển hạ tầng cơ sở. Phần nhàn rỗi của quỹ BHXH của Italia chủ yếu được đầu tư vào phát triển nhà ở cho người lao động thuê lại. Hiện nay, số tiền nhàn rỗi tương đối của quỹ BHXH lên tới 30.000 tỷ đồng. Nếu được đầu tư tốt sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế rất lớn. Các khoản đầu tư này của quỹ BHXH một mặt tạo ra lợi nhuận cho quỹ BHXH; mặt khác đã trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đây chính là mối quan hệ bản chất (theo chiều thuận) giữa BHXH và tăng trưởng kinh tế.
2.2. Tăng trưởng kinh tế tác động tích cực trong việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội.
Tăng trưởng kinh tế gia tăng cơ hội có việc làm đồng thời gia tăng cơ hội mở rộng đối tượng tham gia BHXH, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách BHXH. Mối quan hệ này là tích cực chỉ khi các nhà hoạch định chính sách phải thiết kế được một chính sách BHXH hợp lí đảm bảo được mối quan hệ về lợi ích hài hòa giữa người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước, không chỉ đảm bảo lợi ích trước mắt mà đáp ứng được cả lợi ích lâu dài của các bên tham gia BHXH trong sự phát triển bền vũng và công bằng xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường việc tham gia BHXH được thể hiện thông qua việc đóng góp BHXH của các bên. Như vậy, trong mối quan hệ đóng góp của ba bên này đều có liên quan đến thu nhập. Đối với người lao động đóng góp BHXH liên quan đến thu nhập, tiền lương. Đối với người sử dụng lao động đó là quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Đối với Nhà nước là khoản chi từ ngân sách.
Đối với người lao động, để vừa đảm bảo được những chi tiêu thường xuyên và ngày càng tăng lên của gia đình và vừa thực hiện được nghĩa vụ đóng BHXH, họ phải tìm cách để tăng thu thu nhập, nghĩa là phải làm việc nhiều hơn hoặc làm việc có năng suất, có hiệu quả hơn để được trả lương cao hơn. Khi người lao động làm việc có năng suất, có chất lượng, doanh nghiệp cũng có lợi ích, doanh thu và thu nhập của doanh nghiệp tăng cao hơn và cũng có điều kiện hơn để thực hiện tốt hơn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với người lao động. Khi người lao động và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, Nhà nước sẽ có nguồn thu nhiều hơn (thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp) có điều kiện tài chính tốt hơn để đóng góp cho quỹ BHXH.
Có thể nói, hiệu ứng tích cực từ tăng trưởng kinh tế là tạo điều kiện cho người dân có cuộc sống tốt hơn, tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động tham gia vào các hoạt động kinh tế. Người lao động có thu nhập càng
cao và ổn định , họ sẽ càng có điều kiện tốt hơn , để tham gia BHXH. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với những nước mới thực hiện chính sách BHXH, cần thu hút nhiều người tham gia BHXH. Đây là tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế đối với BHXH. Đồng thời, khi kinh tế phát triển, Nhà nước và các doanh nghiệp có điều kiện để đầu tư thêm các trang thiết bị hiện đại, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Nhờ vậy, những rủi ro trong lao động như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sẽ giảm đi và do đó quỹ BHXH sẽ giảm chi cho quỹ BHXH do đối tượng hưởng giảm. Đây là ảnh hưởng, tác động tiếp của tăng tưởng kinh tế đối với BHXH. Mặt khác, khi kinh tế tăng trưởng, Nhà nước có khả năng hơn để cải thiện điều kiện sống cho người lao động, như đầu tư vào các cơ sở hạ tầng công cộng, đầu tư cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho người dân nói chung và người lao động nói riêng. Nhờ vậy, người lao động ít bị những “ rủi ro xã hội” hơn, như giảm được tai nạn, ốm đau, bệnh tật, giảm được những rủi ro khi sinh đẻ (đối với lao động nữ). Đây cũng là ảnh hưởng tác động gián tiếp của tăng trưởng kinh tế đối với chính sách BHXH. Ngoài ra khi kinh tế tăng trưởng, môi trường kinh doanh được hoàn thiện, hệ thống pháp luật sẽ hoàn thiện hơn, việc đầu tư của quỹ BHXH càng tốt hơn, an toàn hơn, tránh được những rủi ro từ kinh tế, góp phần tăng trưởng quỹ BHXH.
Tăng trưởng kinh tế làm tăng phần sản phẩm xã hội phân bổ cho việc trợ cấp,cải thiện lương hưu cho người về hưu. Tăng trưởng nhanh chóng cũng có thể làm giảm bớt việc tăng mức đóng cho người lao động và người sử dụng lao động mà vẫn đảm bảo quyền lợi của người tham gia BHXH.
Tóm lại, dưới góc độ kinh tế, chính sách BHXH đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; góp phần làm tăng thu nhập quốc dân và ngược lại, tăng trưởng kinh tế đã có tác động tích cực, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới chính sách BHXH. Đây là những tác động 2 chiều, trong đó yếu tố thúc đẩy là chủ đạo. Một chính sách BHXH hợp lý, với cơ chế chính sách thích hợp, xác định mức đóng BHXH và đầu tư cho chương trình ASXH hợp lý sẽ có tác động tích cực góp phần ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế, đáp ứng mục tiêu công bằng và phát triển xã hội trong sự bền vững.
Phần II: Mối quan hệ giữa chính sách BHXH và tăng trưởng kinh tế ởViệt Nam.
Thực trạng chính sách BHXH tác động đến tăng trưởng kinh tế
TÌNH HÌNH THAM GIA BHXH GIAI ĐOẠN 2008- 2010
Đơn vị tính: ĐƠN VỊ, NGƯỜI, %
TT
LOẠI HÌNH QUẢN LÍ
Năm 2008
Ước năm 2009
Năm 2010 (dự kiến)
Số đơn vị
Số người
TỶ TRỌNG
Số đơn vị
Số người
TỶ TRỌNG
Số đơn vị
Số người
TỶ TRỌNG
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
A
BHXH BẮT BUỘC
166,826
8,539,467
179,020
9,101,040
199,379
9,655,400
1
HCSN, Đảng, ĐT, LLVT
61,801
3,128,209
36.6%
62,419
3,177,986
34.9%
63,040
3,210,000
37.6%
2
Ngoài công lập
4,987
119,033
1.4%
5,427
129,877
1.4%
5,905
135,000
1.6%
3
Xã, Phường, Thị trấn
11,279
212,800
2.5%
11,335
221,015
2.4%
11,392
223,000
2.6%
4
Doanh nghiệp Nhà nước
8,180
1,315,102
15.4%
8,180
1,330,374
14.6%
8,180
1,335,000
15.6%
5
Doanh nghiệp có vốn nước ngoài
8,761
1,753,800
20.5%
9,637
1,963,550
21.6%
10,408
2,270,000
26.6%
6
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
63,102
1,951,153
22.8%
75,722
2,198,624
24.2%
89,352
2,395,000
28.0%
7
Hợp tác xã
8,618
56,935
0.7%
6,198
74,113
0.8%
10,997
81,600
1.0%
8
Lao động có thời hạn ở nước ngoài
98
2,435
0.03%
102
5,500
0.1%
105
5,800
0.07%
B
BHXH TỰ NGUYỆN
6,110
34,669
118,000
C
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
5,411,886
5,835,190
1
Hành chính sự nghiệp, Đảng, ĐT
64,200
2
Ngoài công lập
114,750
3
Xã, Phường, Thị trấn
4,460
4
Doanh nghiệp Nhà nước
1,268,250
5
Doanh nghiệp có vốn nước ngoài
2,043,000
6
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
2,275,250
7
Hợp tác xã
65,280
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
BHXH bắt buộc
+ Thành tựu:
15 năm qua, BHXH Việt Nam đã giải quyết chế độ chính sách cho gần 1,2 triệu người hưởng bảo hiểm xã hội thường xuyên, trợ cấp một lần cho 2,9 triệu người, giải quyết chế độ ốm đau, thai sản cho 26,1 triệu lượt người và dưỡng sức phục hồi sức khỏe cho 5,7 triệu người.Năm 2009, số người tham gia BHXH bắt buộc đạt hơn 9,1 triệu người, trong đó khu vực hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang chiếm tỷ trọng cao nhất với 34,9 %.Doanh nghiệp nhà nước chiếm 14,6%.Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,6%.
TÌNH HÌNH THU BHXH 2008- 2009
Đơn vị : tỷ đồng
STT
CHỈ TIÊU
Năm 2008
Ước thực hiện năm 2009
1
Thu đóng góp của người lao động và người SDLĐ
30.821,013
39.873,588
1.1
Thu quỹ ốm đau và thai sản
4.390,500
5.551,704
1.2
Thu quỹ TNLĐ- BNN
1.540,513
1.850,568
1.3
Thu quỹ hưu trí, tử tuất
24.879,200
29.609,134
1.4
Thu quỹ BHXH tự nguyện
10,800
65,582
1.5
Thu quỹ BHXH thất nghiệp
(cả hỗ trợ ngân sách nhà nước)
2.796,600
2
Thu lời từ hoạt động đầu tư quỹ BHXH
8.987,390
8.407,602
3
Thu từ NSNN chuyển sang chi trả trợ cấp
23.719,398
26.464,866
4
Thu khác (lỗi phạt chậm đóng BHXH)
129,139
134,600
TỔNG
63.656,940
74.880,656
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Về công tác thu, BHXH Việt Nam đã tập trung và áp dụng nhiều biện pháp tổ chức thực hiện thu, đảm bảo thu đầy đủ, đúng đối tượng, kịp thời và tuân thủ đúng qui định của Nhà nước, góp phần làm căn cứ giải quyết chế độ cho người tham gia được đầy đủ, kịp thời, chính xác. Năm 2009, số thu BHXH đạt 37.011 tỷ đồng, số thu BHYT là 13.174 tỷ đồng.
Về chi BHXH, đến nay, ngành BHXH đang tổ chức chi trả cho hàng triệu lượt người hưởng trợ cấp một lần. Số tiền chi trả mỗi năm là hàng chục nghìn tỷ đồng. (Năm 2009, chi trả 54.403 tỷ đồng). Về chi khám, chữa bệnh BHYT, do việc mở rộng quyền lợi cho người tham gia nên số lượt người khám, chữa bệnh BHYT và chi phí khám, chữa bệnh BHYT tăng nhanh. Năm 2009, số lượt khám, chữa bệnh BHYT là trên 88 triệu lượt người; chi phí khám, chữa bệnh là 14.499 tỷ đồng.
+ Hạn chế:
Tuy nhiên, đến nay số đối tượng tham gia BHXH còn ít, năm 2008 mới có khoảng 19% lực lượng lao động tham gia BHXH. Quỹ BHXH hưu trí- tử tuất vẫn chưa đảm bảo cân đối dài hạn. Theo nguồn tin của BHXH Việt Nam, năm 2008, số người tham gia BHXH đạt gần 8,6 triệu người, tăng 6,4% so với năm 2007, số lao động tham gia BHXH tăng chủ yếu trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, đầu tư nước ngoài và hợp tác xã. Riêng số người tham gia BHXH tự nguyện đến cuối năm 2008 mới có 6,110 người, trong đó trên 80% là số người trước đó tham gia BHXH bắt buộc.
Năm 2008, số thu từ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động vào quỹ BHXH được gần 30.821 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2007, trong đó thu quỹ ốm đau và thai sản4.390 tỷ đồng; quỹ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp1.540 tỷ đồng; quỹ hưu trí và tử