Cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO (vào ngày 7-11-2006), Quốc hội Hoa kỳ thông qua Quy chế bình thường vĩnh viễn (PNTR. Việt Nam việc tổ chức thành công các hoạt động trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao APEC tại Hà Nội( tháng 11-2006) Thì Việt Nam càng khẳng định hơn nữa vị thế của mình trong cộng đồng quốc tế, ngày càng hội nhập sâu hơn vào thị trường khu vực và thế giới. Từ đó làm gia tăng sự đầu tư của các tập đoàn kinh tế, các quốc gia lớn mạnh trên thế giới, làm gia tăng dòng vốn FDI vào Việt Nam. Đã có nhà đầu tư nói rằng: “Việt Nam đang nằm trong tầm ngắm của các nhà đầu tư và giới quan sát nước ngoài. Sự chú ý của cộng đồng quốc tế tới Việt Nam chưa bao giờ cao hơn hiện nay”.
Mà có một sự thật rằng bất kỳ một quốc nào, dù là nước phát triển hay đang phát triển thì để phát triển đều cần có vốn để tiến hành các hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Nguồn vốn để phát triển kinh tế có thể được huy động ở trong nước hoặc từ nước ngoài, tuy nhiên nguồn vốn trong nước thường có hạn, nhất là đối với những nước đang phát triển như Việt Nam( có tỷ lệ tích luỹ thấp, nhu cầu đầu tư cao nên cần có một số vốn lớn để phát triển kinh tế).
Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia Trên giác độ vĩ mô, FDI tác động đến quá trình tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phúc lợi xã hội cho con người, là 3 khía cạnh để đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Trên giác độ vi mô, FDI có tác động mạnh mẽ đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, vấn đề lưu chuyển lao động giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, Đặc biệt, trong những năm gần đây FDI đã có những tác động sâu săc tới lĩnh vực xuất nhập khẩu của nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em đã chọn đè tài tiểu luận của mình là “ Mối quan hệ giữa FDI và vấn đề xuất nhập khẩu ở Việt Nam sau thời lỳ đổi mới”.
Bài tiểu luận của em có 3 chương:
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA FDI VÀ XUẤT - NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP
33 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 3746 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa FDI và vấn đề xuất nhập khẩu ở Việt Nam sau thời lỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
**********
TIỂU LUẬN MÔN QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI
Sinh viên thực hiện : VŨ THỊ LỆ THỦY
Mã sinh viên :1212160119
Lớp :
Hà Nội,12/2013
MỤC LỤC
Danh mục Trang
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO (vào ngày 7-11-2006), Quốc hội Hoa kỳ thông qua Quy chế bình thường vĩnh viễn (PNTR. Việt Nam việc tổ chức thành công các hoạt động trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao APEC tại Hà Nội( tháng 11-2006) Thì Việt Nam càng khẳng định hơn nữa vị thế của mình trong cộng đồng quốc tế, ngày càng hội nhập sâu hơn vào thị trường khu vực và thế giới. Từ đó làm gia tăng sự đầu tư của các tập đoàn kinh tế, các quốc gia lớn mạnh trên thế giới, làm gia tăng dòng vốn FDI vào Việt Nam. Đã có nhà đầu tư nói rằng: “Việt Nam đang nằm trong tầm ngắm của các nhà đầu tư và giới quan sát nước ngoài. Sự chú ý của cộng đồng quốc tế tới Việt Nam chưa bao giờ cao hơn hiện nay”.
Mà có một sự thật rằng bất kỳ một quốc nào, dù là nước phát triển hay đang phát triển thì để phát triển đều cần có vốn để tiến hành các hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Nguồn vốn để phát triển kinh tế có thể được huy động ở trong nước hoặc từ nước ngoài, tuy nhiên nguồn vốn trong nước thường có hạn, nhất là đối với những nước đang phát triển như Việt Nam( có tỷ lệ tích luỹ thấp, nhu cầu đầu tư cao nên cần có một số vốn lớn để phát triển kinh tế).
Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia Trên giác độ vĩ mô, FDI tác động đến quá trình tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phúc lợi xã hội cho con người, là 3 khía cạnh để đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Trên giác độ vi mô, FDI có tác động mạnh mẽ đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, vấn đề lưu chuyển lao động giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, Đặc biệt, trong những năm gần đây FDI đã có những tác động sâu săc tới lĩnh vực xuất nhập khẩu của nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em đã chọn đè tài tiểu luận của mình là “ Mối quan hệ giữa FDI và vấn đề xuất nhập khẩu ở Việt Nam sau thời lỳ đổi mới”.
Bài tiểu luận của em có 3 chương:
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA FDI VÀ XUẤT - NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP
Trong lần viết này bài tiểu luận của em chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Em kính mong nhận được nhiều ý kiến phê bình của các thầy cô giáo để em có thể hoàn thiện tốt hơn trong những lần viết sau. Em cũng xin chân thành cảm ơn.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
FDI LÀ GÌ?
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn đủ lớn vào dự án đầu tư, cho phép họ dành quyền quản lý hoặc trực tiếp tham gia quản lý dự án đàu tư.
Như vậy, quyền quản lý chính là tiêu chí cơ bản trong việc định nghĩa FDI và giúp phân biệt FDI với các hình thức đầu tư khác như đầu tư chứng khoán. Quyền này bắt nguồn từ chính việc nhà đầu tư nắm “toàn bộ hoặc một phần vốn đủ lớn” vào dự án đầu tư.
Các khái niệm khác liên quan đến FDI:
- FDI có thể hiểu theo hai nghĩa FDI vào (inflow/inward- người nước ngoài nắm quyền kiểm soát các tài sản của một nước A) hoặc FDI ra ( outflow/outward- các nhà đầu tư nước A nắm quyền kiểm soát các tài sản nước ngoài). Đôi khi FDI ra được gọi là đầu tư trực tiếp ở nước ngoài (DIA – direct investment abroad).
- FDI có thể được tính như một dòng tiền (flow) nghĩa là số tiền đầu tư trong một năm hoặc dưới dạng luỹ kế (stock) nghĩa là tổng vốn đầu tư tích lũy tính đến thời điểm cuối năm.
Nước mà ở đó chủ đầu tư định cư được gọi là nước chủ đầu tư, nước mà ở đó hoạt động đầu tư được tiến hành gọi là nước nhận đầu tư.
ĐẶC ĐIỂM CỦA FDI
-Chủ đầu tư giành quyền kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp đầu tư. Chủ đầu tư có quyền này bởi vì chủ đầu tư đã nắm giữ 100% vốn hoặc đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ của dự án đầu tư. Nó được căn cư theo quy định của luật pháp từng nước.
- Quyên điều hành, quản lý doanh nghiệp phụ thực vào mức góp vốn của các bên trong tổng số vốn pháp định. Vốn đóng góp càng cao , nhà đầu tư càng có quyền tham gia vào việc quản lý doanh nghiệp.
- Lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận và lỗ (hay rủi ro) xảy ra được phân chia theo tỷ lệ góp vốn của các bên trong vốn pháp định, sau khi đã nộp thuế và các chi phí khác cho nước chủ nhà.
- FDI không chỉ đưa vốn vào nước nhận đầu tư, mà thường đi kèm theo với vốn là kỹ thuật, công nghệ, bí quyết kinh doanh, công nghệ quản lý .v.v..Do FDI mang theo kỹ thuật, công nghệ nên nó thúc đẩy sự ra đời của các ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành sử dụng công nghệ cao hay nhiều vốn. Vì thế, nó có tác dụng to lớn đối với quá trình CNH, HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế ở nước nhận đầu tư. Tuy vậy, cũng cần nhận thức rằng FDI chứa đựng khả năng các doanh nghiệp nước ngoài (100% vốn nước ngoài) có thể trở thành lực lượng “áp đảo” trong nền kinh tế nước nhận đầu tư. Trường hợp này sẽ xảy ra khi mà sự quản lý và điều tiết của nước chủ nhà bị lơi lỏng hoặc kém hiệu lực. Một vấn đề khác không kém phần quan trọng gây nên sự “dè dặt” của các nước đang phát triển tiếp nhận FDI, đó là: FDI chủ yếu là của các công ty xuyên quốc gia (TNC) và cách thức đầu tư cả gói của nó để chiếm lĩnh thị trường và thu nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của một số nước lại cho rằng: FDI là nguồn động lực đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển của họ. Điều đó có ý nghĩa là hiệu quả sử dụng FDI phụ thuộc rất lớn vào cách thức huy động và quản lý sử dụng nó của nước nhận đầu tư, chứ không phải ý đồ của nhà đầu tư.
PHÂN LOẠI FDI
Đầu tư FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song những hình thức chủ yếu là hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.Hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Contractual-Business-Cooperation) là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi là bên hợp doanh) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư mà không thành lập một pháp nhân. Và ở Việt Nam, hình thức này chỉ chiếm trên 3% số dự án và khoảng 9% số vốn đầu tư (đến tháng 5 năm 2005 chỉ có 181 dự án có hiệu lực với 4,5 tỷ USD vốn đầu tư).
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh ( Joint Venture interprise): là loại hình doanh nghiệp do hai bên hoặc các bên nước ngoài hợp tác với các nước tiếp nhận đầu tư cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủ ro theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.Ở Việt Nam, hình thức này chỉ chiếm trên 23% số dự án và khoảng 44% số vốn đầu tư (đến tháng 5 năm 2005 có 1.269 dự án có hiệu lực với 19,7 tỷ USD vốn đầu tư).
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign Cantrerisce) là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài( tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước tiếp nhận đầu tư, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh. Ở Việt Nam, hình thức này có xu hướng gia tăng cả về số dự án và vốn đăng ký. Hiện có trên 73% số dự án và khoảng 47% số vốn đầu tư (đến tháng 5 năm 2005 có 3.956 dự án có hiệu lực với 22,8 tỷ USD vốn đầu tư). Hiện nay trong đó tổng dự án và tổng vốn trên thì nhà đầu tư đăng ký dưới hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 77,2% về số dự án (60,7% về tổng vốn), đăng ký dưới hình thức liên doanh chiếm 19,5% về số dự án (31,2% về tổng vốn đăng ký). Số còn lại đăng ký thuộc lĩnh vực hợp doanh BOT công ty cổ phần và công ty quản lý vốn.
MỐI QUAN HỆ GIỮA FDI VÀ XUẤT - NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM.
ẢNH HƯỞNG CỦA XUẤT NHẬP KHẨU TỚI FDI Ở VIỆT NAM.
Đứng trên góc độ phân tích về mặt lí thuyết có thể thấy giữa ngoại thương va đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối quan hề tương hỗ lẫn nhau.Nếu như hoạt động xuất nhập khẩu của một đất nước hoạt động tốt thì đây cũng là một chỉ tiêu quan trọng để các nhà đầu tư nước ngoài nền nhìn vào nền kinh tế đó, quyết định vốn đầu tư của mình. Mặt khác khi hoạt động khi đầu tư trực tiếp nước ngoài được đẩy mạnh đặc biệt trong lĩnh vực trong lĩnh vực xuất nhập khẩu với thì năng lực sản xuất của nước sở tại tăng lên và hàng hoá ản xuất ra có chất lượng tốt hơn, giá thành rẻ hơn, do đó sẽ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.
Vậy mội quan hệ giữa ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước ngoài được biểu hiện như thế nào?
Trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu xem vì sao các hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong thời gian vừa qua lại đầu tư vào lĩnh vực xuất nhập khẩu của Việt Nam nhanh và nhiều như vậy.
Việc Việt Nam mở rộng phạm vi thương mại, kí kết các hiệp định thương mại với các quốc gia trên thế giới có tác động làm tăng FDI vào Việt Nam.
Trong cuộc hành trình 20 năm trở lại đây, Việt Nam đã có bước tiến nhảy vọt trong việc mở cửa giao lưu với các nền kinh tế nước bạn. Sự ra đời của những chính sách thân thiện trong thương mại cũng như chính sách đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chính là yếu tố quan trọng nhất đem lại thành công trong việc tạo lập môi trường cho các công ty FDI đầu tư vào ngành xuất nhập khẩu tai Việt nam. Tổng xuất khẩu và nhập khẩu bằng 160% GDP đã biến nền kinh tế Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới.
Từ năm 1980 tới nay, bắt đầu với Nghị định 40- 7/2/1980 và tới nay là Nghị định 57CP- 31/7/1998, Nhà nước đã xoá bỏ hoàn toàn điều kiện , các doanh nghiệp có quyền tham gia các hoạt đông ngoại thương mà không cân cần cố điều kiện gì, chỉ cần có mã số thuế ở Cục Thuế.
Ta có thể nhận thấy ró sự thay đổi về kim ngạch xuất nhập khẩu trong 10 năm gần đây là tù 1997 tới 2007:
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng liên tục trong suốt thời gian 10 năm từ 1997 đến 2007. Sau thời kì khủng hoảng kinh tế 1997, cán cân thương mại có nhiều xáo trộn. Năm 2001 là giới hạn của thời kì này. Tất cả các chỉ số của năm này đều thay đổi rất ít so với năm 2000. Tiếp sau đó là một thời kì tăng trưởng khá năng động của xuất nhập khẩu với tỉ lê tăng trưởng trung bình lên đến hơn 20%. Thâm hụt thương mại theo đó cũng tăng lên một cách đáng kể từ 1,2 tỷ năm 2001 lên tới 5,1 tỷ năm 2006. Điều này chứng tỏ rằng Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới.
Trong vòng 9 năm nhập khẩu tăng lên khoảng 3,8 lần. Trong khi đó nhập khẩu tăng 4,3 lần. Đó là một xu thế tốt và có thể nói là thành công bước đầu của Việt Nam trong quá trình hội nhập nói chung và thể hiện một môi trường tốt cho các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam, góp phần tăng tỉ trọng xuất nhập khẩu nói riêng.
Chính sách quản lí hoạt động xuất nhập khẩu của nhà nước ảnh hưởng đến FDI vào Việt Nam.
Thêm nữa, đó là do chính sách của nhà nước ta đối với các doanh nghiệp FDI về vấn đề XNK ngày càng được nới rộng.Chúng ta có thể nhìn thấy rõ điều đó
Nhằm khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài, năm 1998, Chính phủ đưa ra Nghị định số 10/1998/NĐ-CP về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong đó điểm khác biệt rõ nét. Điểm dễ nhận thấy là nhà nước khuyển khích đầu tư bằng cách điều chỉnh thuế suất thuế lợi tức ưu đãi và thời hạn miễn, giảm thuế lợi tức theo các tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư ( Điều 8, 9 10, 11/ chương III). Nếu trước đây các doanh nghiệp FDI phải uỷ thác vốn cho công ty Việt Nam thi theo Nghị định 10, các doanh nghiệp FDI được quyền thu mua sản phẩm. Nhưng hạn chế của Nghị định là chỉ được nhập khẩu các yểu tố đầu vào cho sản xuất, không được kinh doanh xuất nhập khẩu.
Đến năm 2001, theo Nghị định 44 ban hành 2/8/2001, thương nhân theo quy định của pháp luật được quyền xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa, không phụ thuộc ngành nghề, ngành hàng ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trừ hàng hoá thuộc Danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu; được nhập khẩu hàng hóa theo ngành nghề, ngành hàng ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh(điều 8).
Tới năm 2006, nhà nước ta thực hiện cam kết khi gia nhập WTO trong đó cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần ngành nghề được xuất nhập khẩu.các doanh nghiệp FDI “ được quyền tạm nhập hàng hóa mà thương nhân đã xuất khẩu để tái chế, bảo hành theo yêu cầu của thương nhân nước ngoài và tái xuất khẩu trả lại thương nhân nước ngoài. Thủ tục tạm nhập tái xuất giải quyết tại Hải quan cửa khẩu”(điều 13). Đồng thời cho các doanh nghiệp FDI đứng tên mở tờ khai thuế nhập khẩu và đóng thuế.
Tới năm 2007, theo Nghi định 23 NĐ-CP, các doanh nghiệp FDI được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp mọi hàng hoá ; được quyền phân phối các hoạt động bán buôn, bán lẻ, đại lý mua bán hàng hoá và nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam.(điều 3
Vào ngày 1/1/2008, theo Nghị quyết số 19/2008/NQ-QH12, nhà nước cho phép các liên doanh nước ngoài góp vốn không hạn chế trong lĩnh vực hoạt động phân phối
Phải nói rằng sau khoảng 10 năm mở rộng, nhưng sự thay đổi chính sách kịp thời của Nhà nước ta đã có những hiệu quả to lớn .Có thể nhận thấy chính sách của nhà nước ta càng ngày càng thông thoáng hơn đối với các doanh nghiệp FDI. Nói cách khác, những thay đổi trong chính sách thương mại của Việt Nam trong những năm qua đã góp phần tăng khả năng thu hút FDI của Việt Nam. Minh chứng cho nhận định này là sự cải thiện liện tục vị trí của Việt Nam trong xếp hạng, đánh giá của các tổ chức uy tín về mức độ hấp dẫn đầu tư nước ngoài.
Năm 2005, Việt Nam đứng thứ 50 trong bảng xếp hạng thế giới về chí số thu hút FDI, tăng 4 bậc so với vị trí 54/60 của giai đoạn 2000-2004.
Năm 2008, theo xếp hạng của Tổ chức Phát triển và Thương mại Liên Hiệp Quốc, Việt Nam nằm trong top 10 nước được các công ty đa quốc gia vào đầu tư giai đoạn 2007 – 2009.
Ba năm sau khi gia nhập WTO và nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết gia nhập, sức hấp dẫn của Việt Nam đối với đầu tư nước ngoài càng được cải thiện rõ nét. Năm 2010, tổ chức Tư vấn và Kiểm toán thế giới Price Water House Coopers xếp Việt Nam đứng đầu trong số 20 nền kinh tế đang lên, và có sức hấp dẫn cao với các nhà đầu tư, nhất là với các ngành sản xuất, đầu tư công nghiệp phụ trợ. Việt Nam xếp thứ 12 trong xếp hạng chung Chỉ số niềm tin FDI. Trong số các nước Đông Nam Á lọt vào Top 25 của xếp hạng Chỉ số niềm tin FDI 2010, Việt Nam đã vượt lên đứng trên Indonesia (21), Malaysia (20), và Singapore (24).
Cơ quan Thương mại và đầu tư của Anh dựa trên khảo sát hơn 500 lãnh đạo cấp cao của các công ty từ gần 20 ngành kinh doanh khác nhau, cũng khẳng định, nếu không tính tới nhóm BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc), thì Việt Nam hấp dẫn nhất trong hai năm liên tục 2009-2010 so với số 15 nước mới nổi, được xếp theo thứ tự gồm có Việt Nam, Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Mexico, Nam Phi, Malaysia, Indonesia, Singapore, Thổ Nhĩ Kỳ, Philippines, Saudi Arabia, Ukraine và Ba Lan
ẢNH HƯỞNG CỦA FDI TỚI XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM.
1.1. FDI tác động đến kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân xuất nhập khẩu
v FDI tác động đến kim ngạch xuất khẩu
FDI giúp tăng vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất xuất khẩu
Kể từ khi mở cửa nền kinh tế kinh tế, phát triển quan hệ buôn bán và tiếp nhận đầu tư nước ngoài, mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về phát triển kinh tế, song vẫn là một nước nghèo, đang phát triển. Chúng ta có nguồn lao động rẻ dồi dào là lợi thế nhưng luôn ở trong trạng thái thiếu vốn. Kể từ 1988 đến nay, dòng FDI đã trở thành một nguồn bổ sung vốn thiết yếu cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và các ngành sản xuất xuất khẩu nói riêng. Nếu không có FDI, tổng nguồn vốn huy động được trong nước, ngoài việc đầu tư phần lớn để cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng và đầu tư cho khu vực sản xuất khu vực trong nước, thì việc dành ra một lượng vốn đáng kể để đầu tư cho sản xuất xuất khẩu ngay từ những năm đầu sau đổi mới là việc cực kì khó khăn, chưa kể đến những hậu quả nặng nề của thời kì suy thoái kinh tế kéo dài từ cuối thập niên 70 đến cuối thập niên 80. FDI chính là một liều thuốc kích thích sản xuất cho nền kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng và từng bước tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất xuất khẩu phát triển thuận lợi. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta từ 1988 đến 1990 đã tăng gấp 3 lần, đạt 2,4 tỉ USD, năm 1995 lên tới 8,9 tỉ USD.
Nhìn vào biểu đồ sau có thể thấy, vai trò của FDI trong việc bổ sung vốn cho nền kinh tế nói chung ngày một lớn hơn. Tính đến năm 2008, FDI đã chiếm tới 20% tổng lượng vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế.
Biểu đồ 5: Vốn đầu tư theo thành phần kinh tế giai đoạn 2000-2008
Đơn vị: Tỉ đồng
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Xét riêng hoạt động sản xuất xuất khẩu của Việt Nam, FDI cũng có vai trò lớn trong việc bổ sung nguồn vốn. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Xuân thuộc bộ Công Thương và Yuqing Xing thuộc đại học Quốc gia Nhật Bản về FDI và hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam năm 2006, sử dụng mô hình Lực hấp dẫn, kết hợp với số liệu về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang 23 nước chủ đầu tư FDI giai đoạn 1990-2004 thuộc 5919 dự án đã được cấp phép tính từ 1988. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam có đóng góp đáng kể của dòng vốn FDI. Cứ 1% tăng trưởng của FDI sẽ tạo ra 0,25% tăng trưởng về giá trị xuất khẩu, hay cứ 2,5 USD vốn FDI sẽ tạo ra 1 USD doanh thu từ xuất khẩu.
Đến nay, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có sự chuyển dịch tương đối về cơ cấu. Nếu ở giai đoạn 10 năm đầu sau đổi mới, hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là nông sản và các mặt hàng có hàm lượng lao động cao, thì trong khoảng hơn 10 năm gần đây, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam có sự chuyển dịch sang các mặt hàng có hàm lượng vốn cao hơn. Trong tương lai, xu hướng này sẽ còn tiếp diễn và ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ còn cần nhiều vốn hơn nữa. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhờ xuất khẩu mà nhà nước đã đặt ra, nguồn vốn FDI càng nắm giữ một vai trò quan trọng hơn nữa trong việc bổ sung nguồn vốn cho sản xuất xuất khẩu.
FDI làm tăng kim ngạch xuất khẩu do doanh nghiệp FDI thực hiện khâu sản xuất hoặc gia công hàng hóa tại Việt Nam nhằm mục đích xuất khẩu
Khi nói đến sự gia tăng nhanh chóng tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua, đóng góp của các doanh nghiệp FDI là không thể phủ nhận. Điều này được minh chứng bằng tỉ trọng ngày càng gia tăng của khu vực FDI trong tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, FDI hiện nay có xu hướng hướng về xuất khẩu hơn là nhằm vượt qua hàng rào bảo hộ và hàng rào thuế quan của các nước nhập khẩu hàng hóa. Đồng thời với xu hướng đó là sự phát triển ngày càng mạnh của các tập đoàn xuyên quốc gia (TNC). Các TNC này thường được hình thành ở các nước phát triển, với phạm vi tiêu thụ hàng hóa rộng lớn khắp toàn cầu. Các TNC này có xu hướng hình thành các chi nhánh ở nhiều quốc gia, tiến hành hoạt động sản xuất, gia công hàng hóa ở các nước có điều kiện đầu tư thuận lợi, nhất là những nước đang phát triển nhiều tài nguyên, nhân công rẻ và mặt bằng sản xuất lớn, rồi xuất khẩu sang thị trường khác. Với những tiêu chí lựa chọn địa điểm đầu tư như trên, Việt Nam được coi là một điểm đầu tư hấp dẫn, đặc biệt là từ sau khi gia nhập WTO, phạm vi thương mại được mở rộng, năm 2009, Việt Nam xếp thứ 12 trong danh sách 25 nền kinh tế có sức hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất thế giới do Bloomberg bình chọn, Việt Nam tiếp tục chứng tỏ là địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư toàn cầu.
Bảng 5: Số liệu về hoạt động xuất khẩu của khu vực FDI tại Việt Nam (có bao gồm dầu thô)
Năm
Giá trị
(triệu USD)
Mức tăng
giá trị(%)
Tỉ trọng KV FDI trên tổng
KNXK (%)
Mức tăng tổng KNXK cả nước (%)
1995
1473,1
27,0
34,6
1996
2