Tiểu luận Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Lý do chọn đềtài :Hệthống ngân hàng là xương sống của nền kinh tếcủa một quốc gia bất kỳtrên thếgiới. Hệthống ngân hàng không phát triển hay không có ngân hàng điều đó chứng tỏnền kinh tế đó chưa phát triển. Vai trò của ngân hàng càng được khẳng định trong thời kỳhội nhập kinh tếquốc tế. Đó cũng là thách thức đối với mỗi quốc gia khi hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng phải là ưu tiên số một và là mục tiêu phải đạt được. Nếu hệthống ngân hàng trong nước bịphụthuộc quá nhiều vào các ngân hàng ngoại thì nền kinh tếvĩmô khó có thể ổn định đểphát triển bền vững được, sự điều tiết vĩmô của ngân hàng nhà nước sẽkhó đạt được mục tiêu.Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Namlà một điều cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đềtài :Nhận thức đúng đắn và đầy đủnhững cơhội và thách thức, những lợi ích và nguy cơ đểchủ động hội nhập theo một lộtrình hợp lý chắc chắn sẽgiúp các ngân hàng thương mại Việt Nam có được một sựchuẩn bịthật tốt trong quá trình hội nhập kinh tếkhu vực và quốc tế. Mục tiêu nghiên cứu cuả đềtài này là trên cơsởphân tích thực trạng hiện nay cuảhệthống NHTM Việt Nam và từnhững vấn đề đó kiến nghịmột sốgiải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hệthống NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập.

pdf28 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2592 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG -----------***---------- TIỂU LUẬN Tài chính - Tiền tệ Đề tài: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế GV hướng dẫn: Ths. Trần Chí Thọ Sinh viên thực hiện: Nguyễn Minh Triệu Phạm Văn Thiện Phạm Văn Tuấn Lớp : Anh 4 – TCQTB – K46 Hà nội 10 - 2008 2 Lời nói đầu Lý do chọn đề tài : Hệ thống ngân hàng là xương sống của nền kinh tế của một quốc gia bất kỳ trên thế giới. Hệ thống ngân hàng không phát triển hay không có ngân hàng điều đó chứng tỏ nền kinh tế đó chưa phát triển. Vai trò của ngân hàng càng được khẳng định trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Đó cũng là thách thức đối với mỗi quốc gia khi hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng phải là ưu tiên số một và là mục tiêu phải đạt được. Nếu hệ thống ngân hàng trong nước bị phụ thuộc quá nhiều vào các ngân hàng ngoại thì nền kinh tế vĩ mô khó có thể ổn định để phát triển bền vững được, sự điều tiết vĩ mô của ngân hàng nhà nước sẽ khó đạt được mục tiêu.Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam là một điều cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài : Nhận thức đúng đắn và đầy đủ những cơ hội và thách thức, những lợi ích và nguy cơ để chủ động hội nhập theo một lộ trình hợp lý chắc chắn sẽ giúp các ngân hàng thương mại Việt Nam có được một sự chuẩn bị thật tốt trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Mục tiêu nghiên cứu cuả đề tài này là trên cơ sở phân tích thực trạng hiện nay cuả hệ thống NHTM Việt Nam và từ những vấn đề đó kiến nghị một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập. 3 PHẦN I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG 1.1 NGÂN HÀNG 1.1.1 Ngân hàng và chức năng của một ngân hàng đa năng. Ngân hàng là 1 loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Vậy mà vẫn có sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa ngân hàng là gì? Rõ ràng, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng (các dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉ chức năng của các ngân hàng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính sách của ngân hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công tymôi giới chứng khoán, quĩ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Sơ đồ 1 – 1. Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay: 4 1.1.2 Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế, tổng tài sản có của của ngân hàng thương mại luôn luôn lớn nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng.Mặt khác, khối lượng séc hay tài khoản tiền gửi không kỳ hàn mà nó có thể tạo ra chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng cung tiển tệ M1 của cả nền kinh tế. Có nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại: Ỏ Hoa Kỳ: Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và hoạt đồng trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Ỏ Pháp : Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cở sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khac các số tiền ma họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Ở Việt Nam theo sắc lệnh số 018CT/LĐGCQL/SL. Ngày 20-10-1969 của chính quyền Sài Gòn cũ cho rằng ngân hàng thương mại làm mọi xí nghiệp công hay tư lập, kể cả chi nhánh hay phân cục ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động thường xuyên là thi hành cho chính mình nghiệp vụ tín dụng triết khấu, tài chính với tiền ký thác của tư nhân hay của xí nghiệp, cơ quan công quyền . Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng nhà nước xác định ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiẹp vụ triết khấu và là phương tiện thanh toán”. * Đặc trưng của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại ( NHTM) là một tổ chức đc phép sử dụng ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả. NHTM là một tổ chức đc phép sử dụng ký thác của công chúng để cho vay, triết khấu và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác. 1.2 chức năng của NHTM - là trung gian tín dụng: đây là chức năng quan trọng nhất của NHTM, nó đóng vai trò to lớn trong việc chu chuyển vốn trong nền kinh tế . Tạo điều kiện phát triển kinh tế , nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh , sản xuất của các thành phần kinh tế trong xã hội. - Là trung gian thanh toán của nền kinh tế - Là trung gian trong việc thực hiện các chích sách điều tiết kinh tế vĩ mô của Ngân hàng TW: Để NHTW thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì nó phải thông qua hệ thống ngân hàng phát triển tốt và có thể điều tiết dễ dàng. Không ngân hàng nào ngoài NHTM trong nước có thể thực hiện tôt điều đó và như thế thì NHTM của nước ta phải đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng 100% vốn nứoc ngoài với mọi lợi thế hơn hẳn chúng ta. - Một chức năng quan trọng khác đó là khả năng tạo tiền ghi sổ cho nền kinh tế. - 1.2 Các khuynh hướng ảnh hưởng tới hoạt động ngân hàng Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục dịch vụ. Như chúng ta đã thấy ở phần trước, các ngân hàng đang mở rộng danh mục dịch vụ tài chính mà họ cung cấp cho khách hàng. Qúa trình mở rộng danh mục dịch vụ đã tăng tốc trong những năm gần đây dười áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính khác, từ sự hiểu biết 5 và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ. Nó cũng làm tăng chi phí của ngân hàng và dẫn đến rủi ro phá sản cao hơn. Các dịch vụ mới đã có ảnh hưởng tốt đến ngành công nghiệp này thông qua việc tạo ra những nguồn thu mới cho ngân hàng – các khoản lệ phí của dịch vụ không phải lãi, một bộ phận có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các nguồn thu truyền thống từ lãi cho vay. Sự gia tăng cạnh tranh. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở lên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ. Các ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng, các công ty kinh doanh chứng khoán như Merrill Lynch, các công ty tài chính như GE Capital và các tổ chức bảo hiểm như Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai. Phi quản lý hóa. Cạnh tranh và quá trình mở rộng dịch vụ ngân hàng cũng được thúc đẩy bởi sự nới lỏng các quy định – giảm bớt sức mạnh kiểm soát của Chính phủ. Điều này bắt đầu từ hai thập kỷ trước, xu hướng nới lỏng các quy định đã được bắt đầu với việc Chính phủ nâng lãi suất trần đối với tiền gửi tiết kiệm nhằm cố gắng giúp công chúng một mức thu nhập khá hơn từ khoản tiết kiệm của mình. Cũng lúc đó, nhiều loại tài khoản tiền gửi mới được phát triển giúp cho công chúng có thể hưởng lãi trên các tài khoản giao dịch. Gần như đồng thời, các dịch vụ mà những đối thủ chính của ngân hàng như hiệp hội tín dụng và cho vay cũng được mở rộng nhanh chóng và do đó khả năng cạnh tranh với ngân hàng của những tổ chức này cũng được củng cố. Các quốc gia hàng đầu như Australia, Canada, Anh quốc và Nhật Bản gần đây đã tham gia vào trào lưu phi quản lý hóa, nới rộng giới hạn pháp lý cho ngân hàng, cho người kinh doanh chứng khoán và cho các công ty dịch vụ tài chính khác. Chi phí và rủi ro tổn thất theo đó cũng tăng lên. Sự gia tăng chi phí vốn: Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi phí trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Với sự nới lỏng các luật lệ, ngân hàng buộc phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết định cho phần lớn tiền gửi. Đồng thời, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn – một nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản của mình. Điều đó buộc họ phải tìm cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân công, thay thế các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại. Các ngân hàng cũng buộc phải tìm các nguồn vốn mới như chứng khoán hóa một số tài sản, theo đó một số khoản cho vay của ngân hàng được tập hợp lại và đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán; các chứng khoán được đảm bảo bằng các món vay được bán trên thị trường mở nhằm huy đọng vốn mới một cách rẻ hơn và đáng tin cậy hơn. Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản thu phí không nhỏ cho ngân hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền thống (như tiền gửi). Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất. Các qui đinj của Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách hàng khả năng nhận được mực thu nhập 6 cao hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có công chúng mới làm cho các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công chúng đã làm việc đó. Hàng tỷ USD trước đây được gửi trong các tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhập thay đổi thoe điều kiện thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với những khách hàng có giáo dục hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền gửi “trung thành” của họ có thể dễ tăng cường khả năng cạnh tranh trên phương diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và nhạy cảm hơi với ý thích thay đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm. Cách mạng trong công nghệ ngân hàng. Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút tiền tự động ATM, ở Mỹ có hơn 100.000 chiếc, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ; Máy thanh toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy; và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế giới. Do đó, ngân hàng đang trở thành ngành sử dụng nhiều vốn và chi phí cố định; sử dụng ít lao động và chi phí biến đổi. Nhiều chuyên gia tin rằng các tòa nhà ngân hàng và các cuộc mít tinh gặp mặt trực tiếp giữa các nhà ngân hàng và khach shàng cuối cùng sẽ trở thành những di tích của quá khứ và bị thay thế bởi các cuộc liên quan và giao tiếp điện tử. Sản xuất và cung cấp dịch vụ sẽ hoàn toàn tự động. Những bước đị đó sẽ giảm đáng kể chi phí nhân công hóa ngân hàng và gây ra tình trạng mất việc làm khi máy móc thay thế người lao động. Tuy nhiên, những kinh nghiệp gần đây gợi ý rằng một ngành ngân hàng hoàn toàn tự động có thể vẫn còn là điều xa vời. Một tỷ lệ lớn khách hàng vẫn ưa chuộng các dịch vụ của con người và những cơ hội để nhận được sự tư vấn cá nhân về các vấn đề tài chính. Sự củng cố và mở rộng hoạt động về mặt địa lý. Sử dụng có hiệu quả quá trình tự động hóa và những đổi mới công gnhệ đòi hỏi các hoạt động ngân hàng phải có qui mô lớn. Vì vậy, ngân hàng cần pahỉ mở rộng cơ sở khách hàng bằng cách vươn tới các thị trường mới, xa hơn và gia tăng số lượng tài khoản. Kết quả là hoạt động mở chi nhánh ngân hàng diễn ra. Mô hình công ty sở hữu ngân hàng mua lại các ngân hàng nhỏ và đưa chúng trở thành bộ phận của các tổ chức ngân hàng mua lại các ngân hàng nỏi và đưau chúng trở thành bộ phận của các tổ chức ngân hàng đa trụ sở đã ngày càng phổ biến. Nhiều vụ đại hợp nhất đã diễn ra như vụ hợp nhất giữa Chemical Bank và Chase Manhttan ở New York hay Bank of America và Nations Bank. Số lượng các ngân hàng sở hữu độc lập và bắt đầu giảm và qui mô trung bình của các công ty ngân hàng đã tăng đáng kể. Cùng lúc đó, số lượng các ngân hàng nhỏ của Mỹ (tổng tài sản dưới 1 tỷ USD) đã giảm mạnh ít nhất là 1/3 kể từ giữa thập kỷ 80, số lượng nhân viên giảm hơn 100.000 người trong cùng thời ký. 7 Hơn nữa, thập kỷ 80 và 90 đã mở ra một kỷ nguyên sự bành trướng “liên tiểu bang” trong hệ thống ngân hàng Mỹ. Hơn 300 tổ chức ngân hàng đã vương ra khỏi thị trường tiểu bang, thôn tính các ngân hàng nhỏ để trở thành những ngân hàng tầm cỡ quốc gia. Hiện nay ngân hàng đang tìm mọi cách để đạt được sự đa dạng hóa và ngân hàng không còn muốn duy trì mô hình ngân hàng cổ điển và nhấn mạnh vai trò của nó như là các tổ chức tài chính năng động, đổi mới và hướng về khách hàng. Với sự phát triển của tự động hóa, ngày càng nhiều ngân hàng mở chi nhánh ở những vùng xa với các thiết bị viễn thông và máy rút tiền tự động – một phương pháp mở rộng qui mô thị trường hơn là xây dựng các cơ sở vạt chất mới. Trong nhiều trường hợp, hệ thống thiết bị vệ tinh cung cấp dịch vụ hữu hạn sẽ thay thế các văn phòng chi nhánh đa năng của ngân hàng. Quá trình toàn cầu hóa ngân hàng. Sự bành trướng địa lý và hợp nhất các ngân hàng đã vượt ra khỏi ranh giới lãnh thổ một quốc gia đơn lể và lan rộng ra với quy mô toàn cầu. Ngày nay, các ngân hàng lớn nhất thế giới cạnh tranh với nhau trên tất cả các lục địa. Vào những năm 80, các ngân hàng Nhật, dẫn đầu là Dai_I Chi Kangyo Bank và Fuji Bank đã phát triển nhanh hơn hầu hết các đối thủ cạnh tranh trên khắp thế giới. Các ngân hàng lớn đặt trụ sở tại Pháp (dẫn đầu là Caisse Nationale de Credit Agricole), tại Đức (dẫn đầu là Deutsche Bank) và tại Anh (dẫn đầu là Barclays PLC) cũng trở thành những đối thủ nặng ký trên thị trường cho vay Chính phủ và cho vay công ty. Quá trình phi quản lý hóa đã giúp tất cả các tổ chức này cạnh tranh hiệu quả hơn so với các ngân hàng Mỹ và nắm được thị phần ngày càng tăng trên thị trường toàn cầu về dịch vụ ngân hàng. Ngày nay, Canada, Mỹ và Mexico đã thực hiện Hiệp ước mậu dịch tư do Bắc Mỹ (NAFTA) điều mà cho phép ngân hàng ở những nước này sở hữu và quản lý các chi nhánh ngân hàng ở nước kia và sức mạnh dịch vụ của các chi nhánh loại này hoàn toàn so sánh được với những chi nhánh sở hữu bởi các ngân hàng trong nước. Rủi ro vỡ nợ gia tăng và sự yếu kém của hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Trong khi xu hướng hợp nhất và bánh trướng về mặt địa lý đã giúp nhiều ngân hàng ít tổn thương trong điều kiện kinh tế trong nước thì sự đẩy mạnh cạnh tranh giữa các ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng kèm theo các khoản tín dụng có ván đề một nền kinh tế luôn biến động đã dẫn tới sự phá sản ngân hàng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Xu hướng phi quản lý hóa trong lĩnh vực tài chính đã mở ra cơ hội cho các nhà ngân hàng, nhưng cũng chỉ tạo ra một thị trường tài chính xảo trá hơn, nơi mà sự phá sản, thôn tính và thành lý ngân hàng dễ xảy ra hơn. 1.3 Hội nhập kinh tế quốc tế Là sự gắn kết nền kinh tế 1 nước vào các tổ chức kinh tế quốc tế như: giảm thuế, giảm hàng rào phi thuế, giảm hạn chế đối với thương mại dịch vụ, giảm thiểu hạn chế đối với đầu tư, điều chính chỉnh sách quản lý thương mại, nâng cao năng lực về văn hoá - xã hội, thuận lợi hoá hoạt động thương mại 1.3.1 Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế 8 Mở rộng thị trường; tranh thủ vốn và công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài; giải quyết việc làm; tăng trưởng kinh tế; học tập kinh nghiệm quản lý. Đây chính là bước đi của mỗi quốc gia dần xoá bỏ tự cung, tự cấp để hội nhập nền kinh tế toàn cầu 1.3.2 Cơ hội khi Việt Nam hội nhập KTQT và là thành viên WTO Một là : Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà không bị phân biệt đối xử. Tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Đây chính là yếu tố tăng hạn ngạch xuất khẩu, đảm bảo sự tăng trưởng GDP. Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề không chỉ phát huy tiềm năng lợi thế của các thành phần kinh tế trong nước, mà cần thu hút mạnh đầu tư nước ngoài. Qua đó, tiếp cận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động. Ba là: Có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Bốn là: Thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn, hiệu quả hơn. Năm là: Nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam thực hiện hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế vì hoà bình, hợp tác và phát triển. 1.3.3 Thách thức chúng ta phải đối mặt Khi chúng ta là nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý Nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé. Những thách thức này bắt nguồn tự sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính quá trình hội nhập. Một là: Thuế nhập khẩu cắt giảm, cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp mà còn diễn ra giữa Nhà nước với Nhà nước. Rõ ràng cạnh tranh sẽ gay gắt với nhiều đối thủ trên diện sâu rộng hơn. Vì vậy chính sách quản lý phải tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất, môi trường kinh doanh đầu tư thông thoáng, thuận lợi... tạo nên sức cạnh tranh đủ mạnh của toàn bộ nền kinh tế. Hai là: Sự phân phối lợi ích không đồng đều: Nhà nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ích hơn. Ở mỗi quốc gia sự phân phối lợi ích cũng không đồng đều, dẫn đến nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo ngày một rõ rệt. Đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội. 9 Ba là: Tính tuỳ thuộc giữa các quốc gia tăng lên. Sự biến động hị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước. Trong khi Việt Nam, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều. Đòi hỏi phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình cơ chế quản lý tạo cơ sở cho nền kinh tế có phản ứng tích cực hạn chế ảnh hưởng tiêu cực. Bốn là: Đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền. 10 Phần II THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 1. Điểm mạnh (Strengths) 1.1. Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định Đây là một lợi thế rất lớn của Việt Nam trong bối cảnh tình hình chính trị trên thế gới trong những năm vừa qua hết sức phức tạp. Môi trường kinh tế vĩ mô mà hệ thống NHTM Vi
Luận văn liên quan