Tiểu luận Nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước

Trong bài viết này, tác giả đã luận giải để góp phần làm rõ tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của nhiệm vụ nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Theo tác giả, để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, cần chú ý một số yêu cầu sau: 1/Đảng phải xây dựng được đường lối lãnh đạo đúng đắn, phù hợp; 2/ Thường xuyên chăm lo công tác xây dựng và bồi dưỡng cán bộ; 3/ Coi trọng những nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng; 4/ Chú ý tổng kết kinh nghiệm và vận dụng kinh nghiệm đó để lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị, như xây dựng Cương lĩnh mới trên cơ sở kế thừa và phát triển Cương lĩnh năm 1991, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội,. nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng

pdf102 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4027 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN: NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRƯỚC YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC Trong bài viết này, tác giả đã luận giải để góp phần làm rõ tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của nhiệm vụ nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Theo tác giả, để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, cần chú ý một số yêu cầu sau: 1/Đảng phải xây dựng được đường lối lãnh đạo đúng đắn, phù hợp; 2/ Thường xuyên chăm lo công tác xây dựng và bồi dưỡng cán bộ; 3/ Coi trọng những nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng; 4/ Chú ý tổng kết kinh nghiệm và vận dụng kinh nghiệm đó để lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị, như xây dựng Cương lĩnh mới trên cơ sở kế thừa và phát triển Cương lĩnh năm 1991, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội,... nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Đại hội lần thứ X của Đảng, sau khi tổng kết 20 năm đổi mới đã rút ra 5 bài học của quá trình đổi mới, trong đó có bài học “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới”(1). Đây là kết quả tổng kết và khái quát hóa từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng, đồng thời là sự tổng kết về mặt lý luận của các bài học được rút ra qua các kỳ đại hội. Như chúng ta đều biết, ngay từ Đại hội VI, khi xuất phát từ thực tiễn đất nước, nhất là từ những sai lầm, khuyết điểm mà Đảng đã phạm phải, Đảng ta đã nhận định: "Tất cả những gì đã làm được cũng chứng tỏ rằng sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những nhiệm vụ của giai đoạn mới. Đảng chưa đáp ứng được yêu cầu trong việc giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội, trong phong cách lãnh đạo và cả trong việc rèn luyện phẩm chất cán bộ, đảng viên. Nguồn gốc sâu xa của sự không ngang tầm ấy là ở chỗ, trong nhiều năm, chúng ta đã coi nhẹ và có khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng"(2). Vì vậy, Đại hội VI đã coi nhiệm vụ "phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa" là một trong bốn bài học chủ yếu. Kể từ sau Đại hội VI đến nay, Đảng ta đó tập trung xây dựng Đảng trên cả phương diện tư tưởng, lý luận lẫn tổ chức. Từ thực tiễn của quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là của công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức một cách sâu sắc vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khi tổng kết quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã nêu ra những bài học cơ bản, trong đó có bài học vềsự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thực ra, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng nói chung, đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng không phải đến Đại hội VI mới được đề cập đến mà trái lại, đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và Hồ Chí Minh nhắc đến từ lâu, đồng thời được thực tiễn cách mạng thế giới và Việt Nam chứng minh một cách hết sức hùng hồn. Lúc sinh thời, C.Mác, Ph.Ăngghen và đặc biệt là V.I.Lênin thường xuyên khẳng định rằng, trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng xã hội mới, giai cấp công nhân không có vũ khí nào quan trọng hơn là tổ chức. Hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản. Theo các ông, nếu không có một Đảng vô sản cách mạng có thể đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, biết tập hợp quần chúng thì giai cấp công nhân không thể tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp có ý thức và không thể trở thành giai cấp lãnh đạo quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột lật đổ giai cấp tư sản, cải tạo xã hội theo chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nhờ tiếp thu lý luận Mác - Lênin, ngay từ khi vận động thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự cần thiết phải có Đảng cách mạng và khẳng định Đảng có vững thì cách mạng mới thành công. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người khẳng định rằng, muốn làm cách mạng “trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(3). Tiếp thu quan điểm đó, ngay từ khi mới thành lập, trong Cương lĩnh đầu tiên của mình, Đảng ta đã chỉ rõ: "Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng là cần phải có một Đảng cộng sản có một đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải trong chiến tranh mà trưởng thành"(4). Khi nói đến sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng thì điều đó có nghĩa là thành công hay thất bại của cách mạng phụ thuộc vào sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn hay sai lầm của Đảng. Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật”. Ở đây, chúng ta thấy có 2 điểm cần lưu ý: thứ nhất, Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội và thứ hai, mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Vấn đề đặt ra là Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội như thế nào và làm thế nào Đảng vừa lãnh đạo Nhà nước và xã hội lại vừa tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Nói cách khác, làm rõ được hai vấn đề này sẽ giúp chúng ta hiểu được phương thức lãnh đạo của Đảng. Xét về mặt nội dung, Đảng lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện các mặt và các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội: từ lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội tới đối ngoại và quốc phòng, an ninh; từ nhà nước đến các tổ chức chính trị – xã hội. Chỉ có lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện như vậy, Đảng mới đảm bảo được sự lãnh đạo xã hội của mình. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là khâu mấu chốt nhất. Nhưng, vấn đề đặt ra là sự lãnh đạo của Đảng về các mặt và các lĩnh vực khác nhau của xã hội được thực hiện bằng phương thức nào? Làm thế nào Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước mà trái lại, phát huy được vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội? Cương lĩnh năm 1991 đã khẳng định: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác, bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật”(5). Như vậy, Cương lĩnh năm 1991 đã cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng và hoàn toàn nhất quán với điều 4 Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, phương thức lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược và bằng các định hướng về chính sách và chủ trương công tác. Thứ hai, Đảng lãnh đạo bằng hành động gương mẫu của đảng viên; bằng cách giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Thứ ba, Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, bằng tổ chức kiểm tra. Thực ra, phương thức lãnh đạo của Đảng đã được trình bày trên đây là kết quả đúc rút kinh nghiệm hơn nửa thế kỷ lãnh đạo cách mạng của Đảng cả khi Đảng chưa giành được chính quyền lẫn khi Đảng có chính quyền nhà nước trong tay, cả khi Đảng lãnh đạo chiến tranh giải phóng dân tộc lẫn lãnh đạo toàn xã hội trong điều kiện hòa bình đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng, như chúng ta đều biết, trước hết được thực hiện thông qua cương lĩnh, chiến lược và bằng các định hướng về đường lối, chủ trương của Đảng, cũng như thông qua hoạt động chỉ đạo việc thực hiện đường lối, chủ trương đó. Thực tiễn hơn 80 năm hoạt động của Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây chỉ ra rằng, sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể giành được thắng lợi khi và chỉ khi Đảng đề ra được cương lĩnh, chiến lược, đường lối và chủ trương đúng đắn; còn khi Đảng phạm phải sai lầm về cương lĩnh, chiến lược, về đường lối và chủ trương thì cũng là lúc sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội gặp phải khó khăn, chịu thất bại hoặc thậm chí bị đổ vỡ. Thực tiễn hơn nửa thế kỷ lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã chứng minh vai trò quyết định đối với sự thành công hay thất bại của công cuộc giải phóng và xây dựng đất nước. Thực vậy, trong gần 80 năm qua, kể từ ngày có Đảng, dân tộc ta và nhân dân ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX. Cách mạng Tháng Tám là thành quả vĩ đại của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, lật đổ ách thống trị thực dân, xây dựng nên Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp theo Cách mạng Tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành được thắng lợi to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập dân tộc và dân chủ. Có thể nói, tất cả những thành tựu đó đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đó là một thực tế không thể phủ nhận. Sau khi đất nước thống nhất, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Quá trình đó có thể chia làm hai giai đoạn:giai đoạn 1975 - 1985 và giai đoạn từ 1986 đến nay. Trong giai đoạn 1975 - 1985, cả nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế lạc hậu, với những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh. Trong giai đoạn này, nhân dân ta cũng đã giành được một số thắng lợi quan trọng. Vai trò của Đảng được thể hiện ở quá trình tìm tòi đường lối đổi mới, xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã chỉ ra, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ 1975 - 1985), Đảng ta không chỉ có những ưu điểm, thành tựu, mà còn có cả những khuyết điểm, yếu kém. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội cho rằng, trong mười năm đó, Đảng ta đã phạm phải nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế(6). Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng, kéo dài về chủ trương và chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ: "Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng". "Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế - xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác lãnh đạo của Đảng", do "sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các qui luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ"(7). Nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng được thể hiện trên các mặt sau: Thứ nhất, trong hơn 20 năm qua, Đảng đã đề ra được đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta. Đường lối đó từng bước đang được bổ sung, hoàn thiện. Đường lối đúng đắn là một trong những yếu tố hết sức quan trọng dẫn tới sự thành công của cách mạng. Thực tế lịch sử của những năm trước và sau đổi mới đã chứng minh rằng, nếu thiếu đường lối đúng đắn của Đảng lãnh đạo, cách mạng có thể bị mất phương hướng, thậm chí bị chệch hướng, nhưng đồng thời, nếu thiếu sự linh hoạt về chính trị, sự nghiệp cách mạng có thể bị mất thời cơ, vận hội hoặc lún sâu vào nguy cơ. Do ý thức được điều đó, ngay từ sau Đại hội VI, Đảng ta đã tập trung vào việc hoàn chỉnh đường lối đổi mới, hoạch định những chủ trương, chính sách lớn nhằm cụ thể hoá đường lối trên từng lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể nói, đường lối đổi mới là kết quả của sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh lịch sử - cụ thể và điều kiện mới của nước ta. Đường lối đó phù hợp với mục tiêu và định hướng xã hội chủ nghĩa, xác định rõ những nguyên tắc chỉ đạo đổi mới, cũng như những hình thức và bước đi phù hợp. Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế; mà muốn đổi mới tư duy lý luận thì phải nắm vững, tôn trọng các qui luật khách quan. Đó cũng chính là một trong bốn bài học đã được Đại hội VI của Đảng tổng kết. Kể từ sau Đại hội VI, Đảng ta đặc biệt chú ý công tác lý luận của Đảng. Đảng ta đã ý thức một cách rõ ràng rằng, để lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đến thắng lợi, Đảng phải thường xuyên nâng cao trình độ lý luận bằng cách triển khai rộng rãi, thực hiện có chất lượng việc nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống. Đổi mới không có nghĩa là xa rời hoặc từ bỏ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, mà là sự vận dụng sáng tạo lý luận đó vào hoàn cảnh và điều kiện lịch sử - cụ thể của nước ta. Bên cạnh đó, Đảng ta thường xuyên chú trọng việc cụ thể hoá đường lối, nhạy cảm nắm bắt cái mới, độc lập, tự chủ và linh hoạt, sáng tạo trong đường lối. Ở những thời điểm gay go nhất, như thời kỳ biến động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu, Đảng ta đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng của một Đảng dày dạn và từng trải trong lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng. Nhờ đường lối đó, sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã vượt qua được khủng hoảng, tránh được sự đổ vỡ như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu, đồng thời tránh được sự bảo thủ và trì trệ như một số nước xã hội chủ nghĩa khác còn lại. Chính vì vậy, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới được xem là một trong những bài học quan trọng mà Đại hội lần thứ IX và lần thứ X của Đảng đã nhấn mạnh(8). Thứ hai, sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện bằng hành động gương mẫu của đảng viên, bằng cách giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Bởi vì, một khi đã có đường lối, chủ trương đúng đắn rồi thì việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương ấy mang lại hiệu quả đến mức nào điều đó do đội ngũ cán bộ quyết định. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác cán bộ. Người khẳng định rằng, "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Người thường xuyên căn dặn: Đảng phải coi công tác huấn luyện, giáo dục, đào tạo là công việc đầu tiên của Đảng. Người viết: "Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quí báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công việc chung của chúng ta"(9). Thực hiện lời căn dặn đó, trong những năm qua, Đảng ta đã đặc biệt coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng và tuyển chọn cán bộ. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã đào tạo được đội ngũ cán bộ tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, sẵn sàng hy sinh vì sự tồn vong của dân tộc. Đó là một trong những yếu tố quyết định dẫn tới thắng lợi của hai cuộc kháng chiến vĩ đại. Tuy nhiên, từ khi đất nước ta hoàn toàn được giải phóng đến nay, do những điều kiện khách quan có nhiều thay đổi, một bộ phận cán bộ, đảng viên không còn đáp ứng được những yêu cầu của công cuộc đổi mới. Thêm vào đó, do sự thay đổi cơ chế, không ít đảng viên đã bị thoái hoá, biến chất trong điều kiện cơ chế thị trường. Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ IX và Đại hội lần thứ X của Đảng đã nêu lên sự cần thiết phải có cơ chế và chính sách phát hiện, đào tạo, tuyển chọn và bố trí cán bộ; đồng thời thực hiện tốt khâu quy hoạch và chính sách cán bộ, trọng dụng những người có đức, có tài. Đó là việc làm vừa dân chủ, công bằng, vừa là yêu cầu đối với sự lãnh đạo của Đảng và có ảnh hưởng quyết định đến sự sống còn của Đảng. Bởi lẽ, nếu Đảng không tinh tường phát hiện ra những người có khả năng để bồi dưỡng thành các cán bộ lãnh đạo, quản lý, nếu không sử dụng cán bộ đúng lúc, đúng sở trường thì sẽ thiệt hại cho Đảng, cho tổ chức. Trái lại, nếu không có cơ chế tuyển chọn khách quan, công khai, công tâm thì những người tốt, có năng lực có thể bị loại, còn những kẻ cơ hội, kém phẩm chất, năng lực yếu có thể chui sâu vào bộ máy lãnh đạo của Đảng. Kết quả là bộ máy lãnh đạo của Đảng sẽ bị suy yếu và mất sức chiến đấu. Do đó, công tác tuyển chọn cán bộ phải căn cứ vào nhu cầu về cán bộ, phải dựa trên sự đánh giá chính xác cán bộ, đồng thời thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quy hoạch và nâng cao chất lượng cán bộ. Đại hội IX và Đại hội X còn chỉ ra rằng, đánh giá và tuyển chọn cán bộ phải trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của đảng viên, nhân dân làm thước đo chủ yếu. Thứ ba, Đảng ta luôn coi trọng việc nâng cao sức chiến đấu dựa trên cơ sở củng cố, tăng cường sức mạnh về tổ chức, tăng cường sự đoàn kết, kỷ luật và kiểm tra của Đảng. Với tư cách là một đảng cách mạng, giữ vai trò lãnh đạo, Đảng ta rất coi trọng những nguyên tắc về tổ chức và phương thức hoạt động. Nói về nguyên tắc và phương thức hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: "Nguyên tắc tổ chức thì cực kỳ nghiêm, tức là bất kỳ ở hoàn cảnh nào, mọi đảng viên và cán bộ phải thật thà và triệt để chấp hành chính sách và nghị quyết Đảng, phải làm đúng chế độ gửi báo cáo và xin chỉ thị"(10). Người đề ra ba nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt Đảng là: nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tập thể lãnh đạo và nguyên tắc Đảng phải tăng cường mối liên hệ mật thiết với quần chúng. Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng ta phải "thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” lấy đó làm “cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng"(11). Người cho rằng, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa khuyết điểm như mỗi ngày phải rửa mặt. Người khẳng định: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính"(12). Trên thực tế, Người đã nêu một tấm gương sáng về phê bình và tự phê bình để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Thực ra, những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra đã được Đảng ta quán triệt trong suốt gần 80 năm hoạt
Luận văn liên quan