Khả năn g của xã hội để trả lời các vấn đề xã hội có thể là các quyết định đến
tính đa dạn g của các dạn g tổ chức, trong 1 khoảng thòi gian dài, môi trường năng
độn g, đa dạn g được gìn giữ hoặc tăng lên bởi nh ững dạn g mới. Hơn nữa, nhữn g dạng
(mẫu) m ới là động cơ sốn g còn của sự tiến hóa tổ chức. Thực vậy, một thành phần
quan trọng của sự thay đổ i tổ chức, ở mức vỹ mô gồm có sự chọn lọc và sự thay thế
của những dạn g tổ chức h iện hữu bởi tổ chức dạng tổ chức mới. Hơn nữa, từ những
dạng tổ chức mới này thì nhữn g hiện thân cấ u trúc của nhữn g công n ghệ, lòng tin, giá
trị, và nhữn g kh uôn mẫ u, n ẩy sinh những sự chuy ển độn g xã hội trong nhữn g cơ quan
mới, những côn g n ghệ mới với sự trợ giúp để nuôi dưỡng và phản chiếu văn hóa và
thay đổi kỹ thuật trong xã hội. Vì những lý do này, đâu là nhữn g dạng tổ ch ức mới là
một câu hỏi chính được đặt ra của những lý thuy ết gia tổ chức.
Nhữn g dạn g tổ ch ức mới là nhữn g tái hợp mới của những mục đích, nh ững
quan hệ nhà chức trách ( bao gồm những cấu trúc quản trị), côn g n ghệ và thị trường
khách hàng. Sự tiến hó a của các dạng tổ chức mới tạo ra những khôn g gian tài n guy ên
mới bởi những đặc trưng của cuộc thí sán g tạo trong số những tổ chức và những
doanh nh ân đã có. Nó bắt đầu với sự tăn g nhanh từng phần của nhữn g biến đổi bên
trong tồn tại của dân cư và cuối cùng là chỉ dẫn tới một tổ chức tạo ra suy n ghĩ có tính
chất đổi mới , vượt qua những dạn g đã có để thiết lập cái mới. Dạn g tổ chức mới làm
đôn g lại như là kết quả của 1 tiến trình cô lập hoặc tách r a từ 1 tổ chức khác, bao gồm
kỹ thuật những tính không phù hợp, những hoạt độn g cơ quan như là điều chỉnh của
chính phủ và imprinting. Sự nổ i lên của những dạn g tổ chức mới là một nguồn thiết
yếu của sự biến đổi tổ chức, đóng một vai trò sống còn trong sự tạo thành tính đa dạng
tổ chức.
Nhữn g dân cư tổ chức – địa phươn g, nhóm tiến bộ của tổ chức gồm các dạng
tổ chức giốn g nh au – phát triển những mối quan hệ v ới dân cư tổ chức hòa nhập trong
các hoạt độn g khác và kết nối chúng bên trong các cộng đồn g tổ chức. Cộn g đồn g tổ
chức cấu thành hệ thống hợp nhất theo chức năng tươn g tác dân cư tổ chức (Hawley,
1950). Dân cư tổ chức thì không phải là tổ chức, tươn g tác hình thành cộng đồn g.
Trong cộng đồn g tổ chức, hậu quả cho tổ chức từ bất kỳ 1 dân cư hay chồn g ch éo
chức năn g với các tổ chức khác thuộc về cùng hệ thống cộng đồn g. Ở mức độ cao
hơn, cộn g đồng tổ chức tương tác đến dạn g của hệ sinh thái tổ chức, bao gồm hệ sinh
thái quốc gia (Baum and Korn, 1994).
Mặc dù Hannan và Freeman (1977) gọi n gh iên cứu tại mức độ quần thể như
một bước đầu tiên dễ dàn g n ghiên cứu các hiện tượng mức cộng đồn g, n ghiên cứu
theo vết tích sinh thái học tổ ch ức tập trun g ch ủ y ếu trên những mô hình sinh thái học
của sự tăng trưởng và sự suy tàn dân cư của nh ững quần thể địa phương của nh ững
dạng tổ chức thiết lập. Những mô hình sinh thái học cộng đồng nhấn mạnh tiến trình
của sán g tạo (thí dụ, sự hình thành loà i) và sự thất bại (v í dụ, sự hủy diệt) của dân cư
tổ chức và các dạn g và gửi sự tiến hóa c ủa tổ chức cộng đồn g kết khối sự đôn g cứng
lại cùng nha u của những dân cư tổ ch ức và ảnh hưởn g đến sự liên tục và sự bền v ững
đến hết thảy các cộn g đồn g. Câu hỏi n guyên bản của tổ chức sinh thái học - tại sao có
rất nhiều loại tổ chức – vì vậy mới có sự theo đuổi khó khăn. Vậy thì, chúng tôi vẫn
còn biết quá ít nhữn g quá trình dẫn tới sự hiện ra của nh ững dạn g tổ chức mới, những
cấu trúc của sự thừa kế tổ chức điều đó n uôi dưỡng sự liên tục của họ và sự biến đổi
theo thời gian
41 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Năng lực tiến hóa của tổ chức dân cư và cộng đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
NĂNG LỰC TIẾN HÓA CỦA TỔ CHỨC
DÂN CƯ VÀ CỘNG ĐỒNG
Joel A. C. Baum & Hayagreeva Rao
Khả năng của xã hội để trả lời các vấn đề xã hội có thể là các quyết định đến
tính đa dạng của các dạng tổ chức, trong 1 khoảng thòi gian dài, môi trường năng
động, đa dạng được gìn giữ hoặc tăng lên bởi những dạng mới. Hơn nữa, nhữn g dạng
(mẫu) m ới là động cơ sống còn của sự tiến hóa tổ chức. Thực vậy, một thành phần
quan trọng của sự thay đổi tổ chức, ở mức vỹ mô gồm có sự chọn lọc và sự thay thế
của những dạng tổ chức h iện hữu bởi tổ chức dạng tổ chức mới. Hơn nữa, từ những
dạng tổ chức mới này thì những hiện thân cấu trúc của những công n ghệ, lòng tin, giá
trị, và những kh uôn mẫu, n ẩy sinh những sự chuyển động xã hội trong những cơ quan
mới, những côn g nghệ mới với sự trợ giúp để nuôi dưỡng và phản chiếu văn hóa và
thay đổi kỹ thuật trong xã hội. Vì những lý do này, đâu là những dạng tổ chức mới là
một câu hỏi chính được đặt ra của những lý thuyết gia tổ chức.
Những dạng tổ chức mới là những tái hợp mới của những mục đích, những
quan hệ nhà chức trách ( bao gồm những cấu trúc quản trị), côn g nghệ và thị trường
khách hàng. Sự tiến hóa của các dạng tổ chức mới tạo ra những khôn g gian tài nguyên
mới bởi những đặc trưng của cuộc thí sáng tạo trong số những tổ chức và những
doanh nh ân đã có. Nó bắt đầu với sự tăng nhanh từng phần của những biến đổi bên
trong tồn tại của dân cư và cuối cùng là chỉ dẫn tới một tổ chức tạo ra suy n ghĩ có tính
chất đổi mới , vượt qua những dạng đã có để thiết lập cái mới. Dạng tổ chức mới làm
đông lại như là kết quả của 1 tiến trình cô lập hoặc tách ra từ 1 tổ chức khác, bao gồm
kỹ thuật những tính không phù hợp, những hoạt động cơ quan như là điều chỉnh của
chính phủ và imprinting. Sự nổ i lên của những dạng tổ chức mới là một nguồn thiết
yếu của sự biến đổi tổ chức, đóng một vai trò sống còn trong sự tạo thành tính đa dạng
tổ chức.
Những dân cư tổ chức – địa phương, nhóm tiến bộ của tổ chức gồm các dạng
tổ chức giốn g nhau – phát triển những mối quan hệ v ới dân cư tổ chức hòa nhập trong
các hoạt độn g khác và kết nối chúng bên trong các cộng đồn g tổ chức. Cộn g đồng tổ
chức cấu thành hệ thống hợp nhất theo chức năng tương tác dân cư tổ chức (Hawley,
1950). Dân cư tổ chức thì không phải là tổ chức, tương tác hình thành cộng đồn g..
Trong cộng đồn g tổ chức, hậu quả cho tổ chức từ bất kỳ 1 dân cư hay chồn g chéo
chức năn g với các tổ chức khác thuộc về cùng hệ thống cộng đồn g. Ở mức độ cao
hơn, cộn g đồng tổ chức tương tác đến dạng của hệ sinh thái tổ chức, bao gồm hệ sinh
thái quốc gia (Baum and Korn, 1994).
Mặc dù Hannan và Freeman (1977) gọi nghiên cứu tại mức độ quần thể như
một bước đầu tiên dễ dàng n ghiên cứu các hiện tượng mức cộng đồn g, nghiên cứu
theo vết tích sinh thái học tổ chức tập trung chủ y ếu trên những mô hình sinh thái học
của sự tăng trưởng và sự suy tàn dân cư của những quần thể địa phương của những
dạng tổ chức thiết lập. Những mô hình sinh thái học cộng đồng nhấn mạnh tiến trình
của sáng tạo (thí dụ, sự hình thành loài) và sự thất bại (v í dụ, sự hủy diệt) của dân cư
tổ chức và các dạng và gửi sự tiến hóa của tổ chức cộng đồn g kết khối sự đông cứng
lại cùng nhau của những dân cư tổ chức v à ảnh hưởng đến sự liên t ục v à sự bền vững
đến hết thảy các cộn g đồng. Câu hỏi n guyên bản của tổ chức sinh thái học - tại sao có
rất nhiều loại tổ chức – vì vậy mới có sự theo đuổi khó khăn. Vậy thì, chúng tôi vẫn
còn biết quá ít những quá trình dẫn tới sự hiện ra của những dạng tổ chức mới, những
cấu trúc của sự thừa kế tổ chức điều đó nuôi dưỡng sự liên tục của họ và sự biến đổi
theo thời gian.
Tuy nhiên, nếu tính đa dạng hiện thời của những tổ chức được cảm nhận như
một phản xạ của “hiệu ứng tích lũy của chiều dài lịch sử của sự biến đổi v à chọn lọc''
(Hannan and Freeman, 1989, p. 20) thì giải thích của những dạng tổ chức xuất hiện
mới như thế nào trở nên khác nhau và lưu giữ khác nhau theo thời gian là 1 yêu cầu
đòi hỏi. Trong chương này, chúng tôi nỗ lực để trả lời những câu hỏi này bằng việc
phân tích năng động cấp độ dân cư và cộng đồng thông qua sự biến đổi tiến hóa- sự
duy trì chọn lọc (VSR) thấu kính (Aldrich, 1979, 1999; Campbell, 1965). Chúng tôi
đề xuất một cách nhìn của dân cư và cộng đồn g tổ chức như cư trú trong một sự phân
cấp được lồn g vào sự tiến triển phù hợp trong 1 khuôn chung – mô hình “sự ph ân cấp
đôi” (Baum and Singh, 1994a) - những đồn g nhất và những kết nối thông qua các
phần tử và quá trình chúng tôi nghĩ là cơ bản đối với sự tiến hóa tổ chức. Sau khi có
khung n ày, chúng tôi quay về sự phân tích chi tiết hơn của n ăng lực tiến hóa tại hai tổ
chức ngang bằng:
Những quá trình tiến hóa vi mô tạo dạng liên tục và thay đổi bên trong tổ chức
một dòng đặc biệt hay dạng tổ chức;
Những quá trình tiến hóa vỹ mô tạo dạng liên tục và thay đổi bên tron g cộng
đồng tổ chức, và thông qua sự x uất hiện của những dạng tổ chức mới.
Sự phân tích của chúng ta về mức độ tiến hóa dân cư và cộng đồng nhấn
mạnh những vai trò của sự thay đổi cơ quan (chẳng hạn., công nghiệp deregulation,
toàn cầu, thị trường, những cải cách), vòng tròn sáng kiến kỹ thuật ( ví dụ., những tính
không liên tục kỹ thuật, những thiết kế trội), những doanh nhân và và những sự
chuyển động xã hội như nh ững trigơ của sự biến đổi tổ chức. Chúng tôi khám phá cơ
quan thay đổi công nghệ, năng độn g thay đổi của những cộn g đồng tổ chức bằng việc
chuyển nhữn g ranh giới của những dạng tổ chức, destabilizing hay tăng cường những
cấu trúc cộng đồng hiện hữu, đưa lên cho consensusand/ hay là những sự chuyển động
xã hội theo hướng xung đột, và tạo ra những cơ hội cho những doanh nhân và nhà tư
bản thích mạo hiểm đến những dạng tổ chức mới. Sự phân tích của chúng ta về
những mục tiêu VSR mức dân cư để củng cố và lọc (tinh luyện) điều trị của những
quá trình này; sự phân tích của chúng ta về mức cộng đồng VSR, trong sự tương
phản, 1 đại diện trong những sự điều trị toàn diện đầu tiên của quá trình này. (xem
Aldrich, 1999; Hunt and Aldrich, 1998), và vì thế sẽ là nhu cầu suy đoán tự nhiên.
Chúng tôi sẽ kết luận bằng việc làm nổi bật 1 vài kết nối cơ bản giữa năng động tiến
hóa tại dân cư v à những mức cộng đồn g nẩy sinh từ sự phân tích của chúng ta.
Năng động tiến hóa của những tổ chức
Sự tiến hóa tổ chức có thể là 1 khái niệm như tác động lẫn nhau giữa hai loại quá
trình, sự tương tác và bản sao, hành động theo hai cách của những thực thể, sinh thái
và phả hệ, ở mức đa dạng của tổ chức (Baum and Singh, 1994a). Sự chuyển qua
những thực thể phả hệ , phần lớn thông tin của họ khôn g hề sứt mẻ trong những bản
sao liên tiếp. Những thực thể sinh thái, ph ụ thuộc kết cấu và những biểu lộ theo h ành
vi của những thực thể phả hệ tương tác với môi trường, và sự tương tác này gây ra bản
sao khác. ''Sự tiến hóa tổ chức là kết quả của sự sao chép nh ững thực thể phả hệ,
tương tác của thực thể sinh thái và kết quả của những sự tương tác này có khác biệt
nhỏ so với những thực thể phả hệ mà họ sản sinh” (Baum and Singh, 1994a, p. 4).
Trong một lý thuyết của sự tiến hóa tổ chức, bất kỳ hệ thống phát triển nào
cũng đòi hỏi tối thiểu 2 loại quá trình (ví dụ sự tương tác và bản sao) và 2 loại thưc
thể (ví dụ sinh thái và phả hệ). Khôn g có học thuyết tiến hóa nào có thể đầy đủ mà
không có sự xem xét cẩn thận cấu trúc và chức năng của từng thời điểm - bởi những
hệ sinh thái kho ảnh khắc. Không có một học thuyết tiến hóa nào đầy đủ mà không có
sự xem xét các nguồn thông tin điều đó cung cấp đến sinh thái của nh ững thực thể.
Theo cách nhìn tiến hóa, lịch sử và chức năng hiện thời thì liên quan ph ức tạp. Chúng
tôi cần một sự hiểu biết của sự hợp nhất những quá trình tương tác của sự trao đổi
nguồn lực và sự biến đổi một mặt, và những quá trình lịch sử của sự lưu giữ thông tin
và sự truyền thông tin.
Mặc dù nghiên cứu trong sinh thái học tổ chức có nhiều thông tin về những
quá trình tương tác bên trong những dân cư ( tổng quan, xem Baum, 1996), tuy thế để
có được thoả thuận toàn diện về vấn đề mức cộn g đồng của sự hiện ra và sự biến đi
của việc hình thành tổ chức và ít khi liên kết những quá trình sinh thái của sự tương
tác và những quá trình của bản sao ph ả hệ. Vậy thì, chúng tôi vẫn còn biết rất ít về
khía cạnh phả hệ của sự tiến hóa tổ chức - những cấu trúc của sự thừa kế tổ chức và
sự h ình thành loài. Trong khi sự thừa kế sinh học đặt cơ sở chủ yếu trên sự truyền lan
của những Gen, sự thừa kế của nh ững quá trình những tổ chức xã hộ có vẻ rất khác
nhau, gợi ý còn mơ hồ hơn những tổ chức phả hệ và năng động tiến hóa có lẽ có các
hấp dẫn khác nh au từ hy vọng v ới sự truyền thuần túy di truyền học.
May mắn, là ý tưởng của sự tiến hóa của Darwin – Giảm xuống với sự cải biến
- thì không bị ràng buộc đối với những đặc điểm riêng của sự thừa kế sinh học. Sự
chọn tự nhiên là một cơ chế rất chung thích hợp để vận h ành trong bất kỳ hệ thống
nào của sự thừa kế và cần hai điều kiện: (1) Có sự biến đổi có thể thừa hưởng (m ù)
trong mẫu và (2) sự biến đổi trong dạng liên quan đến sự biến đổi trong sự tồn tại và
bản sao. Bất cứ khi nào hai điều kiện này gặp nhau, nhữn g dạng với xác suất cao nhất
của hiện thân truyền tới phát sinh hướng kế tiếp tới sẽ hướng tới tăng số ( Campbell,
1965).
Sự Phân cấp Kép của Sự Tiến hóa tổ chức
Sự tiến hóa tổ chức thì được cảm nhận thường xuyên tới nh iều thứ bậc ph ân cấp đa
dạng ( chẳng hạn., nhóm mặt đối mặt, tổ chức, dân cư cộn g đồng) ( Aldrich, 1979,
1999; Baum Và Singh, 1994 a). Những sự phân cấp liên quan của sự tiến hóa tổ chức
thì bao hàm, với vệc hình thành bên trong tổ chức khác. Toàn bộ được bao gồm
những phần cấp độ thấp của tổ chức và toàn bộ rộng lớn hơn. Tổ chức cộng đồng, ví
dụ, được bao gồm những dạng tổ chức dân cư, những tổ chức tự thân hợp thành, v.v...
Sự lồng nhau của những thực thể vào trong những thực thể lớn hơn ở một thứ bậc cao
tạo ra những tổ chức là một hệ thống thứ bậc. Mỗi mức cấu thành của “một nút chọn
lọc” của những thực thể tổ chức nào cũng được giữ hay loại trừ (Baum and Singh,
1994a; ampbell, 1974, 1994).
Những thực thể Sinh thái và Phả hệ
Những dạng thực thể này thành lập những mức khác nhau hai bao hàm cả những sự
phân cấp, phả hệ và sinh thái được tổng kết trong bảng 8.1 (Baum và Singh, 1994 a).
Sự phân cấp phả hệ là dạng được thành lập bởi nh ững thành phần của k í ức hoạt động
cơ quan được bảo tồn và phân phối sản xuất và thông tin tổ chức. Nó được bao gồm
những dòng, những thực thể bền vững theo thời gian thông qua bản sao trong cùng 1
trạng thái tương tự. Sự phân cấp sinh thái phản chiếu cơ cấu kinh tế và sự hợp nhất
(thí dụ, sự trao đổi tài nguyên và sự biến đổi) của nh ững hệ thống tổ chức. Nó được
bao gồm những thực thể lâu đời, kết quả tác dụng tích lũy của sự biến đổi , sự chọn
lọc trong thời gian, và kết cấu, hành vi biểu lộ của những thực thể lớp phả hệ.
Những tổ chức cấu thành một mức trong cả hai sự phân cấp (Baum Và Singh,
1994 a). Như những thành viên của những dạng tổ chức (những thực thể phả hệ),
những tổ chức là những gói của năng lực routinized tạm thời của nh ững kho chứa sản
phẩm sản xuất và bí quyết tổ chức ( McKelvey, 1982; Winter, 1990). Như những
thành viên của những dân cư (những thực thể sinh thái), những tổ chức là sự biểu thị
bên n goài của sự sản x uất và năng lực tổ chức mà họ mang lại từ bất kỳ thời gian nào
( McKelvey, 1982). Như là nh ững tổ chức chuyển phát của những thủ tục bao gồm
kiến thức, những khả năng, những lòng tin, những giá trị, và kí ức của tổ chức và
những người ra quyết định, những n gười của sự thích nghi, và những biến đổi biểu
hiện trong những dân cư. Những tổ chức, thay đổi trong số như đơn vị như chọn lọc
khác.
Bảng 8.1 Những thực thể sinh thái và Phả hệ
Phân cấp phả hệ Phân cấp sinh thái
Hệ sinh thái: một nhóm của nh ững cộng
đồng và tự nhiên, xã hội, kỹ thuật và môi
trường kinh tế giữa nguồn lực là những
vòng đều đặn
Nhóm Polythyletic: một tổng thể của một Cộng đồn g: một nhóm của những dân cư
hay những mẫu (dạng) tổ chức thừa kế từ tổ chức sinh thái đã nối v à hợp nhất bởi
hai hay những nguồn gốc chung hiện mạng của commensalistic và
thời. Cuối cùng từ 1 nguồn chung. interdependencies cộng sinh
Dạng tổ chức: một nhóm polythyletic của Dân cư: một nhóm của những tổ chức
những dân cư chia sẻ năng lực. Một sự coevolvin g được nối bởi commensalistic
đông cứng của những sự kết hợp cao của interdependencies gồm những sự kết hợp
những thủ tục tạm thời là được bố trí tmọi tương đồng của những năng lực và những
thứ , bao gồm những thành viên tại bất kỳ thủ tục
thời điểm nào.
Tổ chức: một kho chứa tạm thời những Tổ chức: một nhóm của những nhóm
thủ tục được gồm trong những người làm công việc coevolving và những công
thuê cho tổ chức và côn g n ghệ việc.Biểu thức ngoài của những năng lực
và những thủ t ục trong những người làm
thuê của tổ chức và những công nghệ vào
bất kỳ thời điểm nào
Năng lực: một sự đôn g cứng tổng hợp Nhóm Công việc: một nhóm những công
của những thủ t ục phụ thuộc lẫn nh au việc coevolving. Biểu thức Ngoài của
những năng lực và những thủ tục bởi
những thành viên nhóm tại bất kỳ thời
điểm nào.
Thủ tục: một phần tử của sự sản sinh và Công việc: một sự đông cứng coevolving
tổ chức kiến thức v à kỹ năng (của) những nhiệm vụ hay mẫu hoạt động
được thực hiện bởi một cá nhân. Biểu
thức Ngoài của những thủ tục được giữ
bởi người làm thuê vào bất kỳ thời gian
nào
Source: Adapted from Baum an d Singh (1994a, p. 10).
Sự Tương tác và những quá trình Bản sao
Hai lớp của những quá trình, sự tương tác và bản sao phân biệt những sự phân cấp
sinh thái và phả hệ tương ứng (Baum and Singh, 1994a). Những quá trình trong sự
phân cấp sinh thái liên quan với nh ững sự tương tác lẫn nhau giữa những thực thể sinh
thái tại cùng mức (của) tổ chức ( chẳng hạn., giữa những tổ chức bên trong những dân
cư, v à những dân cư bên trong những cộn g đồng) đó là mối kết nối tới những sự trao
đổi nguồn lực đưa tới những thực thể sinh thái. Tính chất xã hội, kỹ thuật, và những
điều kiện môi trường kinh tế n goại cảnh kinh tế mạnh mẽ được bao hàm trong những
mẫu liên tục tổ chức và sự thay đổi tạo tiến hóa tổ chức xuyên qua ảnh hưởng của họ
trên những thực thể sinh thái, và bằng việc hình thành các mức bộ phận của sự phân
cấp sinh thái tại hệ sinh thái.
Những tương tác năng độn g tại mỗi mức của những thực thể với nhau tại ở
mức kế tiếp cao hơn của phân cấp sinh thái. Những sự tương tác trong số những công
việc trói buộc các nhóm công v iệc cùng nhau, lần lượt trói buộc những tổ chức cùng
nhau. Những sự tương tác trong số những tổ chức có cùng mẫu (dạng) cấu thành dân
cư. Cuộc thi, hiện tượng cộng sinh tương hỗ, hành động tập thể, học tập tập thể và quá
trình sinh thái ở mức độ này là hiện tượng đặc trưng chịu trách nhiệm để sản sinh
những biến thường xuyên bởi tổ chức sinh thái học - mật độ tổ chức, những mức độ
thất bại, và sự tăng trưởng. Khi chúng tôi kết nối với những tương tác của những dân
cư các dạng tổ chức khác nhau, chúng tôi đã chuyển lên mức cộng đồn g. Những dân
cư, không phải tổ chức, tương tác để tạo dáng cộng đồn g. Những quá trình Sinh thái
tại mức này bao gồm cuộc thi interpopulation, những sự tương tác cộng sinh, tinh thần
kinh doanh và buổi họp mặt thân mật cơ quan chuyển động liên quan đến nhữn g mẫu
(dạng) tổ chức mới, và thay đổi khả năng môi trường. Cuối cùng, những cộng đồng tổ
chức tương tác để hình thành những hệ sinh thái.
Trong sự phân cấp phả hệ, những quá trình thì liên quan đến sự sản sinh những
thực thể mới từ cái cũ: bản sao (Replication) của những thủ t ục lâu đời, những tổ chức
và những dạng tổ chức. Mỗi mức của sự phân cấp phả hệ được duy trì bởi sự sản sinh
của những thực thể ở mức- thấp hơn: những thủ tục phải tự mình tái sản xuất cho
những tổ chức để tồn tại, những tổ chức sản sinh nhiều dạng tổ chức hơn nữa để tồn
tại và những dạng tổ chức phải tách ra từng mảnh cho ra nhiều chủng loại nhóm để
duy trì. Những nhóm đa chủng loại là những thực thể lịch sử gồm có một hoặc nhiều
dạng tổ chức hình thành và hình thành bởi sự sản sinh của nh ững dạng tổ chức mới từ
dạng cũ ; họ cấu thành ở mức cao nhất của tổ chức trong sự phân cấp phả h ệ. Mặc dù
vậy, hiện tại sự sinh sản diễn ra ở tất cả các mức của sự phân cấp ph ả hệ, bản sao x uất
hiện được tập trung chủ yếu ở những mức thấp hơn của sự phân cấp phả hệ. Bởi vì họ
có bề dày phát sinh ngắn được so sánh với những thực thể ở mức bậc cao, đa số bản
sao là bản sao của những thực thể ở mức- thấp hơn ( chẳng h ạn., những thủ t ục, những
tổ chức) ( Xem, ví dụ, Miner, 1990, 1991). Kết luận, những thang thời gian ngắn h ơn
và cấp tiến hóa nh anh hơn tại những mức của tổ chức thấp hơn (Baum, 1999;
Campbell, 1994).
Những quá trình VSR
Sự Tiến hóa của tất cả những mức độ này của tổ chức phản chiếu điều h ành của ba
quá trình cơ bản: sự biến đổi, sự chọn lọc và sự duy trì, hay VSR (Aldrich, 1979,
1999; McKelvey, 1982, 1997). Quan niệm về sự thay đổi này được bắt nguồn từ
Campbell (1965) mục (bài báo) dịch, dựa trên một tính tương tự giữa sự chọn tự nhiên
trong sự tiến hóa và sự truyền lan có chọn lọc sinh học của những dạng văn hóa' (
Campbell, 1965, P. 26). Ba phần tử chìa khóa mô hình của Campbell ( P. 27) là:
1. Biến cố của những sự biến đổi: Hỗn tạp, sự tình cờ, mù, cơ hội, sự ngẫu nhiên
nhưng trong bất kỳ sự kiện nào.(Quá trình thay đổi trong tiến hóa hữu cơ, và những sự
đáp lại khám phá trong học tập).
2. Tiêu chuẩn chọn lọc đảm bào: sự loại bỏ có chọn lọc, sự truyền lan có chọn lọc, sự
duy trì có chọn lọc của những kiểu nhất định trong những biến đổi. (Vi ph ân tồn tại
của những sinh vật đột biến nhất định trong sự tiến hóa h ữu cơ, sự tăng cường vi phân
của những sự đáp lại nhất định trong học tập)
3. Một cơ chế cho sự bảo tồn, sự sao lại hay sự truyền lan những ph ương án x ác thực
được chọn. ( Quá trình sao lại cứng ngắt của h ệ thống nhiễm sắc thể/ Gen trong những
cây và những động vật, kí ức trong học tập)
Campbell nhấn mạnh ''mù'' trong việc bắt thiên nhiên biến đổi v à thiên nhiên thay đổi
ngẫu nhiên của hành vi hậu quả, những quá trình, những chức năng, và cấu trúc:
những sự biến đổi có căn nhắc hoặc thông minh tốt hơn như mù , tình cờ, cơ hội, n gẫu
nhiên, tự động. Họ có lẽ đã là insofar tốt hơn như họ có thể lựa chọn trước. Nhưng
cũng có lẽ xấu hơn trong điều đó họ đã bị hạn chế những sự liên quan đạt được tính
khôn ngoan và không có khả năng đi bên n goài nó. Một trong những thuật ngữ như
“làm mù'' , ''lộn xộn ” . . là họ nhấn mạnh đến những hệ thốn g xã hội thích nghi. . . đã
có thể nẩy sinh, điều chỉnh các tính chất xã hội m à không có bất kỳ việc lên kế hoạch
tự giác hay hoạt độn g biết lo xa. Nó cung cấp 1 mô hình phù hợp bởi hệ thống xã hội
khôn ngoan hơn cá nhân những người cấu thành xã hội hoặc khoa học xã hội phù h ợp
của elite quản lý. Nó cung cấp 1 tiên liệu của quá trình thay đổi xã hội 1 cách vô thức
trong n gày của riêng chúng ta mà là điều có thể thích nghi bất ngờ hay theo những
cách không cần đến (Camp bell, 1965, p. 28)
Campbell giải quyết thuật ngữ sự biến đổi mù với việc nhấn mạnh sự nguy hiểm sự
biến đổi hiểu biết hay kiến thức từ những hậu qủa thích nghi của họ. Sự chọn lọc
không vận hành bởi so sánh bất kỳ một biến đổi tới sự biến đổi tốt nhất theo giả
thuyết nào đó; nó chọn trong số giới thiệu những sự biến đổi điều đó cho đa số cải
thiện sự thích hợp của tổ chức ( Romanelli, 1999). Khi Campbell ( 1988, P. 173) quan
sát,''Giải quyết vấn đề xác định. . . không làm trở nên sáng suốt hay dự cảm.'' Sự
Thích nghi bao gồm sự khám phá ẩn số, bên n goài kiến thức hiện hữu, những công
thức và'' rờ rẫm trong bóng tối'' ( Campbell, 1974, P. 147).
Tuy nhiên, tron g