Tiểu luận Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá kiệt xuất của nhân loại - Người chiến sĩ cộng sản quốc tế kiên cường - Người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, Nhà nước ta,. Cuộc đời hoạt động của Người đã để lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô giá, đó chính là Tư tưởng của Hồ Chí Minh(TTHCM). Đại hội VII (1991), Đảng ta khẳng định “chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam”. Đó là một quyết định có tầm lịch sử quan trọng thể hiện bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng ta. TTHCM là hệ thống tư tưởng quan điểm cơ bản phản ánh thực tiễn cách mạng thuộc địa. Trên cơ sở kế thừa, vận dụng, và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tinh hoá văn hoá dân tộc và trí tuệ nhân loại nhằm giải phóng dân tộc giai cấp, con người. Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng đinh: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh". Và bất cứ một tư tưởng nào cũng phải có nguồn gốc, cơ sở hình thành, đó chính là tuân theo qui luật hình thành tư tưởng từ ít đến nhiều, từ hình thức đến nội dung, bản chất. Vì vậy, TTHCM cũng ko nằm ngoài qui luật đó.

doc6 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8555 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá kiệt xuất của nhân loại - Người chiến sĩ cộng sản quốc tế kiên cường - Người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, Nhà nước ta,... Cuộc đời hoạt động của Người đã để lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô giá, đó chính là Tư tưởng của Hồ Chí Minh(TTHCM). Đại hội VII (1991), Đảng ta khẳng định “chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam”. Đó là một quyết định có tầm lịch sử quan trọng thể hiện bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng ta. TTHCM là hệ thống tư tưởng quan điểm cơ bản phản ánh thực tiễn cách mạng thuộc địa. Trên cơ sở kế thừa, vận dụng, và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tinh hoá văn hoá dân tộc và trí tuệ nhân loại nhằm giải phóng dân tộc giai cấp, con người. Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng đinh: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh". Và bất cứ một tư tưởng nào cũng phải có nguồn gốc, cơ sở hình thành, đó chính là tuân theo qui luật hình thành tư tưởng từ ít đến nhiều, từ hình thức đến nội dung, bản chất. Vì vậy, TTHCM cũng ko nằm ngoài qui luật đó. NỘI DUNG 1.Tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc: TTHCM có cội nguồn từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Khi tôn vinh Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất và Anh hùng giải phóng dân tộc, tổ chức UNESCO đã ghi nhận: Hồ Chí Minh là kết tinh của truyền thống văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những giá trị truyền thống tốt đẹp và cao quý. Trước hết đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Chúng ta có thể khẳng định rằng chủ nghĩa yêu nước như một dòng chảy xuyên suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; là bản sắc văn hoá, là thước đo phẩm giá của con người Việt Nam, mà mọi học thuyết du nhập vào Việt Nam đều phù hợp với truyền thống và chủ nghĩa yêu nước đó. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX mặc dù có sự phân hoá sâu sắc giữa các tầng lớp trong xã hội và sự khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc thì Chủ nghĩa yêu nước là một trong những “tài sản” có giá trị nhất trong hành trang của Hồ Chí Minh lúc ra đi tìm đường cứu nước năm 1911 và là cơ sở xuất phát, là động lực, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Trong các giá trị truyền thống Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái là những nét hết sức đặc sắc. Truyền thống này hình thành một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Người Việt Nam gắn bó với nhau trong tình làng, nghĩa xóm, là người Việt Nam, chắc trong chúng ta ai cũng thuộc, cũng nhớ câu tục ngữ “lá lành đùm lá rách” . Từ truyền thống nêu trên, Hồ Chí Minh khẳng định: “nhân dân ta đã từ lâu sống với nhau có tình có nghĩa. Tình nghĩa ấy được Người nâng lên cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà”. Kế thừa truyền thống ấy, trong quá trình Lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân phát huy sức mạnh bốn chữ "đồng" (đồng tình-đồng sức-đồng lòng-đồng minh). Tiếp theo đó là dân tộc Việt Nam ta có một truyền thống lạc quan, yêu đời. Trong muôn nguy, ngàn khó, người dân Việt Nam ra vẫn động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay cheo”. Tinh thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý , chính nghĩa, dù trước mắt còn nhiều gian truân, khổ ải phải vượt qua. Hồ Chí Minh chính là hiện thân của truyền thống lạc quan đó. Cuối cùng, dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất, chiến đấu và cũng là một dân tộc ham học hỏi, không ngừng mở rộng tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại, từ Nho, Phật, Lão của phương Đông đến tư tưởng văn hoá hiện đại phương Tây. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó. 2. Với truyền thống hiếu học, cầu tiến, người dân Việt Nam luôn sẵn sàng tiếp thu, đón nhận những tinh hoa văn hoá của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây. TTHCM là biểu hiện sinh động của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại Tiếp thu những giá trị phương Đông: trước hết là Nho giáo. Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó là những yếu tố: duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệp, doanh lợi... Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó là mặt triết lý hành động, tư tưởng về nhân thế hành đạo, giúp đời; triết lý nhân sinh, tu thân làm gốc, lấy hành động để lập thân và có lý tưởng về một xã hội bình trị, thế giới đại đồng, đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn "Học không biết chán, dạy không biết mỏi" và Người khuyên chúng ta "nên học". Đồng thời, Người cũng đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Tiếp thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái, độ lượng, khoan dung - những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật. Đó chính là: tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân - một tình yêu bao la không chỉ dành cho con người mà dành cho cả chim muông, cây cỏ; là nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; là tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp; là Phật giáo Thiền tông đề ra luật "chấp tác": "nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực" (một ngày không làm, một ngày không ăn), đề cao lao động, chống lười biếng;... Ngoài ra, Chúng ta còn có thể tìm thấy nhiều trích dẫn khác nữa về các nhà tư tưởng phương Đông như Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử... trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh. Cũng như sau này, khi đã trở thành người mác- xít, Nguyễn Ái Quốc vẫn tìm hiểu thêm về Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và tìm thấy trong đó "những điều thích hợp với điều kiện nước ta". Các tiêu chí của chủ nghĩa Tam dân là: dân tộc - độc lập; dân quyền - tự do; dân sinh - hạnh phúc đã được Hồ Chí Minh rút gọn trong quốc hiệu của Việt Nam "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc". Tiếp thu những giá trị phương Tây: Trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở châu Âu nên cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây. Từ đó người đã dẫn hình thành được phong cách làm việc dân chủ trong thực tiễn cuộc sống. Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở New York, làm thuê và thường đến thăm khu ở của người da đen. Trong các bài viết sau này, Người thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con người trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ. Người đã tiếp thu và phát triển nó thành quyền sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, của tất cả các dân tộc. Nội dung nhân quyền được Người nâng lên một tầm cỡ mới trong Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, năm 1945. Cuối năm 1917, Người từ Anh sang Pháp và quyết định sống và hoạt động ở thủ đô nước Pháp có ý nghĩa lịch sử rất lớn, mở ra một thời kỳ mới trong cuộc đời mình. Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp như M. Ca-sanh, P.V. Cu-tuy-a-ri-ê, G. Mông-mút-xô... mà Hồ Chí Minh đã từng bước trưởng thành. Con người ấy, trên hành trình cứu nước, đã làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của nhân loại, Đông và Tây, vừa thâu thái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển. Tóm lại, Hồ Chí Minh tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc vì mục đích không chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình mà còn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới. 3. Hồ Chí Minh dã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam: Trên cơ sở kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá của phương Đông, phương Tây và những hoạt dộng cách mạng khắp các châu lục, Hồ Chí Minh đã đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin vào tháng 7/1920. Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin một cách tự nhiên, như một tất yếu lịch sử, nên khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa, của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở CN Mác – Lênin “cái cần thiết”, và “con đường giải phóng chúng ta”, “ngọn hải đăng soi đường cho toàn nhân loại bị áp bức đi tới giải phóng” là bước quyết định nhảy vọt về chất, bước ngoặt cơ bản trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Con đường Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác-Lênin có những đặc điểm chủ yếu sau: Trước hết hành trang tư tưởng khi ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước cháy bỏng với một vốn học vấn chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo điều đó đã giúp Người nắm vững cái cốt lõi, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác-Lênin. Điều này đã giúp Người phân tích, đánh giá chính xác về các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Khác với các nhà cách mạng Việt Nam, Người đã có sự thống nhất giữa mục đích và phương pháp ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Nhờ đó trong suốt thời gian bôn ba tìm tòi, khảo nghiệm, với khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, Người đã hoàn thiện trí tuệ của mình bằng vốn văn hóa, chính trị và thực tiễn cuộc sống phong phú của nhân loại. Từ đó Người đã rút ra những kết luận giúp tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Khác với các nhà tri thức tư sản phương Tây (đến với chủ nghĩa Mác-Lênin chủ yếu nhằm giải quyết những vấn đề tư duy hơn là hành động), Hồ Chí minh đến với chủ nghĩa Mác -Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nứơc, giải phóng dân tộc tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Khác với nhiều nhà cách mạng trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin theo phương pháp nhận thức mácxít và theo cốt cách nắm lấy cái tinh thần, cái cốt yếu, cái bản chất và vận dụng sáng tạo lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để hoạch định đường lối, chủ trương, giải pháp và những đối sách phù hợp với cách mạng Việt Nam. Như vậy, có thể khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học, tinh thần biện chứng và nhân đạo của học thuyết Mác - Lê-nin, vận dụng một cách sáng tạo học thuyết ấy phù hợp với thực tế Việt Nam; đồng thời Người đã kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước, truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong khi giải quyết các vấn đề của cách mạng Việt Nam, Người đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở một nước thuộc địa và phụ thuộc. Tư tưởng của Người đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, trở thành giá trị bền vững của dân tộc Việt Nam và lan tỏa ra thế giới. Đây là yếu tố quan trọng nhất, quyết định việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh 4. Nguồn gốc hình thành tư tưởng HCM phải kể đến những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất con người Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh có một tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cùng với một đầu óc phê phán tinh tường sáng suốt trong mọi hoàn cảnh nhờ vậy Người đã đánh giá đúng bản chất của các cuộc cách mạng tư sản hiện đại. Người đã khổ công rèn luyện học tập để chiếm lĩnh những tri thức phong phú của thời đại và với kinh nghiệm đấu tranh trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế để tiếp cận với chủ nghĩa Mác Lênin một cách khoa học. Người có một tâm hồn của nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành và một trái tim yêu nước thương nòi, yêu thương những người cùng khổ, sãn sàng chịu đựng hi sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc, vì hạnh phúc của đồng bào. Những phẩm chất trên đã trở thành một trong những nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh và có vai trò quan trọng trong việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. KẾT LUẬN Tóm lại, TTHCM là sản phẩm của sự tổng hoà và phát triển biện chứng TT văn hoá truyền thống của dân tộc, tinh hoa TT văn hoá của phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa M-L làm nền tảng, cùng với thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của HCM - một con người có tư duy sáng tạo, có PP biện chứng, có nhân cách, phẩm chất CM cao đẹp tạo nên. TTHCM là TT VN hiện đại
Luận văn liên quan