Tiểu luận Nguyên nhân, thực trạng và giải pháp chủ yếu để cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam

Trong mấy năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã trải qua những thăng trầm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như xuất phát từ nội tại của nền kinh tế: tăng trưởng cao nhưng chưa ổn định, lạm phát tăng cao (năm 2008) và đặc biệt hơn nữa đó là tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai bắt nguồn từ thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và hiện trạng môi trường đầu tư của Việt Nam chưa được cải thiện như mong đợi, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam chưa tăng trưởng vững chắc. Hiện trạng này chắc chắn sẽ gây sức ép không nhỏ đến cán cân thanh toán quốc tế về khả năng chống đỡ các cú sốc bên ngoài và tính bền vững của nền kinh tế khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam có xu hướng thu hẹp. Từ thực trạng trên, Đề tài này với mong muốn làm rõ đâu là nguyên nhân, thực trạng và giải pháp chủ yếu để cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam, nó đã tác động đến trạng thái của cán cân vãng lai và sức chịu đựng thâm hụt của cán cân thương mại đối với cán cân thanh toán quốc tế để từ đó đưa ra giải pháp cải thiện. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn đề tài vẫn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, chúng em rất mong được sự đóng góp của quý thầy cô để đề tài của chúng em được hoàn thiện hơn.

pdf27 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2112 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nguyên nhân, thực trạng và giải pháp chủ yếu để cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Tiểu luận Nguyên nhân, thực trạng và giải pháp chủ yếu để cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam Thành viên trong nhóm 5: Đinh Thị Thu Hằng Lương Thị Nhung Lê Thanh Hải 2 LỜI NÓI ĐẦU Trong mấy năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã trải qua những thăng trầm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như xuất phát từ nội tại của nền kinh tế: tăng trưởng cao nhưng chưa ổn định, lạm phát tăng cao (năm 2008) và đặc biệt hơn nữa đó là tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai bắt nguồn từ thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và hiện trạng môi trường đầu tư của Việt Nam chưa được cải thiện như mong đợi, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam chưa tăng trưởng vững chắc. Hiện trạng này chắc chắn sẽ gây sức ép không nhỏ đến cán cân thanh toán quốc tế về khả năng chống đỡ các cú sốc bên ngoài và tính bền vững của nền kinh tế khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam có xu hướng thu hẹp. Từ thực trạng trên, Đề tài này với mong muốn làm rõ đâu là nguyên nhân, thực trạng và giải pháp chủ yếu để cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam, nó đã tác động đến trạng thái của cán cân vãng lai và sức chịu đựng thâm hụt của cán cân thương mại đối với cán cân thanh toán quốc tế để từ đó đưa ra giải pháp cải thiện. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn đề tài vẫn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, chúng em rất mong được sự đóng góp của quý thầy cô để đề tài của chúng em được hoàn thiện hơn. 3 Chương 1: Tổng quan về cán cân thương mại 1. Khái niệm cán cân thương mại Cán cân thương mại của một quốc gia là một bảng kết toán ghi chép các giao dịch về mặt giá trị, ghi chép các giao dịch xuất khẩu, giao dịch nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giữa một nước với phần còn lại của thế giới, trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. + Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương. + Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại. Cán cân thương mại chịu tác động của nhiều yếu tố như: tỷ giá, lạm phát, giá cả hàng hóa, thu nhập, chính sách thương mại quốc tế.... Vì được xác định trên cơ sở các giá trị nên trạng thái của cán cân thương mại phụ thuộc rất lớn vào tỷ giá hối đoái cũng như độ tin cậy số liệu và phương pháp thu thập số liệu. Độ tin cậy và chính xác của số liệu đưa ra có thể ảnh hưởng đến việc nhận dạng bản chất và mức độ nghiêm trọng của thâm hụt thương mại. 4 * Năm nhân tố tiêu biểu ảnh hưởng đến cán cân thương mại sau: a. Nhân tố tỷ giá. Với các nhân tố không thay đổi, khi tỉ giá tăng, làm cho giá hàng hóa xuất khẩu tinh bằng ngoại tệ giảm, kích thích tăng khối lượng xuất khẩu. b. Nhân tố lạm phát. Với các nhân tố khác không đổi nếu tỉ lệ lạm phát của một nước cao hơn ở nước ngoài, sẽ làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa của nước này trên thị trường quốc tế. c. Giá thế giới của hàng hóa xuất khẩu tăng. Với các nhân tố khác không đổi, nếu giá thế giới của hàng hóa xuất khẩu của một nước tăng sẽ làm tăng cầu nội tệ và tăng cung ngoại tệ. d. Thu nhập của người không cư trú. Với các nhân tố khác không thay đổi khi thu nhập thực tế của người không cư trú tăng làm tăng cầu xuất khẩu bởi người không cư trú, do đó làm tăng cầu nội tệ và tăng cung ngoại tệ, tức làm tăng giá trị xuất khẩu bằng nội tệ và ngoại tệ. e. Thuế quan và hạn ngạch ở nước ngoài. Với các nhân tố khác không thay đổi, giá trị xuất khẩu của một nước sẽ giảm nếu bên nước ngoài áp dụng mức thuế quan cao, hạn ngạch nhập khẩu thấp cũng như áp dụng các hàng rào phi thuế quan: yêu cầu về chất lượng hàng hóa và tệ nạn quan liêu, kết quả là làm giảm cầu nôị tệ. * Các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị nhập khẩu hàng hóa: Là giống với những nhân tố ảnh hưởng lên xuất khẩu nhưng có tác động ngươc chiều. Cán cân thương mại được cải thiện khi tác động ròng của các nhân tố lên giá trị xuất khẩu và nhập khẩu la dương và trở nên xấu đi thì tác động ròng của các nhân tố lên giá trị xuất khẩu và nhập khẩu là âm. Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó 5 chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định. Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. 3. Vai trò của cán cân thương mại đối với nền kinh tế. Thứ nhất, cán cân thương mại cung cấp những thông tin liên quan đến cung cầu tiền tệ của một quốc gia, cụ thể là thể hiện sự thay đổi tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ. Thứ hai, cán cân thương mại phản ánh khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của một quốc gia. Thứ ba, tình trạng của cán cân thương mại phản ánh tình trạng của cán cân vãng lai, do đó có ảnh hưởng đến ổn định nền kinh tế vĩ mô. Đây là ảnh hưởng quan trọng nhất của cán cân thương mại tới nền kinh tế và dựa vào đó nhà nước có thể đưa ra các chính sách để có thể điều chỉnh cán cân thương mại đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Thứ tư, cán cân thương mại thể hiện mức tiết kiệm, đầu tư và thu nhập thực tế: X – M = (S – I) + (T –G). Nếu cán cân thương mại bị thâm hụt thì điều đó thể hiện quốc gia chi nhiều hơn thu nhập của mình cũng như tiết kiệm sẽ ít hơn đầu tư và ngược lại. Vì những tác động to lớn của cán cân thương mại tới nền kinh tế nên các nhà kinh tế và quản lý luôn tìm cách dự báo những cơ hội cũng như các thách thức để có thể đề ra những giải pháp thiết thực cho hoạt động xuất – nhập khẩu trong thời gian sắp tới, từ đó giúp điều tiết vĩ mô một cách tốt hơn. 6 Chương 2: Thực trạng cán cân thương mại ở Việt Nam 1. Thực trạng cán cân thương mại ở Việt Nam từ năm 2008 đến nay. Cán cân thương mại được xác định bằng công thức: TB = ( X – M ) = - ( SE + IC + TR + KL + ∆R ) Trạng thái của một cán cân thương mại của một quốc gia trong một năm thường xảy ra một trong ba trạng thái: - Trạng thái cân bằng khi thu nhập từ xuất khẩu bằng với chi cho nhập khẩu hàng hóa của quốc gia ( X – M ) = 0 - Trạng thái thặng dư khi thu nhập từ xuất khẩu lớn hơn chi cho nhập khẩu hàng hóa của quốc gia ( X – M ) > 0 - Trạng thái thâm hụt khi thu nhập từ xuất khẩu nhỏ hơn chi cho nhập khẩu hàng hóa của quốc gia ( X – M ) < 0 Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết vào năm 2000 và có hiệu lực vào cuối 2001 tạo thuận lợi cho sự gia tăng đáng kể giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam so với giai đoạn trước đó, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng cũng không ổn định. Năm Khả năng xuất khẩu ( triệu USD) Tốc độ tăng xuất khẩu ( %) Khả năng nhập khẩu (triệu USD) Tốc độ tăng nhập khẩu ( %) Cán cân thương mại 2000 14.482 25,5 15.636 33,2 -1.154 2001 15.027 3,8 16.162 3,4 -1.135 2002 16.705 11,2 19.733 21,8 -3.028 2003 20.176 20,6 25.226 27,8 -5.050 2004 26.500 28,9 31.516 24,9 -5.116 2005 32.447 22,2 36.761 16,6 -4.314 2006 39.826 22,7 44.891 22,1 -5.065 Năm 2007: kinh tế toàn cầu được ghi nhận là có sự biến động lớn về giá hàng hóa, chủ yếu là giá nguyên, nhiên liệu, nông sản, thực phẩm tăng cao liên tục. 7 Những biến động thất thường của giá dầu thô, giá vàng cùng với dấu hiệu suy thoái của nền kinh tế Hoa Kỳ, đồng Đôla mất giá nhanh so với các ngoại tệ mạnh khác đã tác động không tốt đến nhiều nền kinh tế, trong đó có cả Việt Nam. Năm 2008: Kinh tế nước ta trong năm 2008 diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và trên thế giới có nhiều biến động phức tạp và khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên vật liệu khác trên thị trường tăng mạnh ở giữa năm, kéo theo sự tăng giá của các mặt hàng khác ở trong nước, từ đó cũng ảnh hưởng đến kim ngạch xuất – nhập khẩu của nước ta trong năm 2008. Về xuất khẩu: tính chung cho cả năm 2008 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của nước ta ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Trong đó, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7% so với năm 2007, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, khối doanh nghiệp 100% vốn đầu tư trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7% so với năm 2007 và chiếm 50,3% tổng kim ngạch xuất khẩu. Theo đánh giá của Tổng cục thống kê, tuy kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của năm 2008 tăng khá cao so với năm 2007 nhưng nếu loại trừ tái xuất sắt, thép, vàng và yếu tố tăng giá của 8 mặt hàng chủ yếu (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè) thì kim ngạch xuất khẩu hàng hóa chỉ tăng 13,5%. Về nhập khẩu: trong 5 tháng đầu năm, nhập siêu tăng mạnh, cao hơn gấp 3,4 lần so với cùng kỳ năm 2007, lên tới 14,4 tỷ USD. Nhưng liên tiếp trong 7 tháng còn lại, nhập siêu được kiềm chế ở mức thấp, một trong những nguyên nhân chính là do giá hàng hóa nhập khẩu trên thị trường thế giới giảm mạnh, đặc biệt là xăng dầu. Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước đạt 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007, trong đó khối doanh nghiệp 100% vốn đầu tư trong nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu hàng hóa chỉ tăng 21,4% so với năm 2007. Như vậy, mức thâm hụt cán cân thương mại lên tới 17,5 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay. Báo động đối với Việt Nam là mức thâm hụt cán cân thương mại đã ở mức đỉnh điểm, đặc biệt là thâm hụt thương mại với quốc gia láng giềng là Trung Quốc. Trong tổng mức thâm hụt là 17,5 tỷ USD hàng hóa của Việt Nam đối với thế giới thì thâm hụt hàng hóa đối với Trung Quốc đã lên tới 12 tỷ USD, tiếp đến là thâm hụt với các đối thủ cạnh tranh là các nước ASEAN và Hàn Quốc…chỉ thặng dư với Hoa Kỳ và EU. 8 Năm 2009: Do hậu quả còn tồn đọng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, nên cán cân thương mại của Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng thâm hụt cao. Tuy nhiên, con số thâm hụt đã giảm hơn so với năm trước. Về xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2009 đạt khoảng 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008 và bằng 87,6% so với kế hoạch (kế hoạch điều chỉnh tăng 3% của Quốc hội). Kim ngạch của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 29,85 tỷ USD chiếm 52,8% kim ngạch xuất khẩu cả nước, giảm 13,5% so với năm 2008. Về nhập khẩu: Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2009 đạt khoảng 68,8 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008. Trong đó khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,87 tỷ USD, chiếm 36,1% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước, giảm 1,8% so với năm 2008, khối doanh nghiệp 100% vốn đầu tư trong nước đạt khoảng 43,96 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 63,9%, giảm 16,8% so với năm 2008. Năm 2009, Trung Quốc vẫn là nước dẫn đầu về cung cấp hàng nhập khẩu cho nước ta. Tiếp theo là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia… Với các biện pháp tăng cường kiểm soát để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng không cần thiết hoặc trong nước đã sản xuất được, khối lượng một số hàng hóa nhập khẩu năm 2009 cũng đã giảm hơn so với năm 2008, tuy nhiên một số mặt hàng khác vẫn còn có mức nhập khẩu cao ( như máy móc, tơ sợi, thiết bị, dược phẩm…) Do đó, mặc dù giá nhập khẩu giảm, nhưng kim ngạch nhập khẩu giảm chậm, dẫn đến mức nhập siêu vẫn còn cao hơn so với mục tiêu đã đặt ra. Từ sau giai đoạn mở cửa kinh tế, thương mại của Việt Nam tăng lên rất nhanh. Tính trung bình từ năm 1990 đến 2009, xuất khẩu của Việt Nam tăng trung bình hàng năm 18.7%/năm, trong khi đó nhập khẩu tăng trung bình 20.1%/năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu từ mức chỉ bằng 76% GDP vào năm 1990 tăng lên 162% GDP vào năm 2008. Thâm hụt thương mại theo đó cũng ngày càng lớn, từ mức 0.6 tỷ USD năm 1990, và lên đỉnh điểm vào năm 2008 là 17.51 tỷ USD. Sự tăng mạnh của kim ngạch xuất nhập khẩu làm cho nền kinh tế Việt Nam có độ mở ngày càng cao. Tuy nhiên, tiềm ẩn sau đó là những rủi ro. Tổng thâm hụt thương mại của Việt Nam từ năm 1990 đến 2009 đã lên tới 84 tỷ USD, tương đương với GDP của năm 2007. Thâm hụt thương mại/GDP liên tục tăng cao trong những năm gần đây và lên tới hơn 20% GDP vào năm 2008. Đây là mức cao vượt xa trung bình của các nước trên thế giới. 9 Về cơ cấu nhập khẩu, phần lớn các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam là máy móc thiết bị và nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng chỉ chiếm chưa đến 10%. Từ năm 2000 đến nay, nhập khẩu mặt hàng tiêu dùng chỉ chiếm 6-8%, nguyên nhiên vật liệu chiếm 60-67%, còn lại là máy móc thiết bị. Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế giá trị gia tăng thấp chiếm một tỷ lệ khá lớn. Kim ngạch xuất khẩu khoáng sản (dầu thô và khoáng sản khác) từ năm 2000 đến nay vẫn luôn chiếm từ 30 – 40%. Những mặt hàng liên quan đến nông nghiệp sơ chế như nông lâm thuỷ hải sản chiếm trên 15-17%. Những mặt hàng chế biến chiếm tỷ trọng 43-50%, trong đó một tỷ trọng khá lớn là gia công may mặc, giầy da. Hơn 70% nguyên liệu gia công xuất khẩu là từ nhập khẩu và giá trị gia tăng từ mặt hàng này tương đối thấp. Những mặt hàng có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao chiếm một tỷ lệ khá thấp trong mặt hàng xuất khẩu. Trong một số năm gần đây tỷ trọng nhập siêu từ Trung Quốc chiếm hơn 90% tổng nhập siêu của Việt Nam. Tuy vậy, đây mới chỉ là con số chính thức. Nếu thống kê cả hàng hoá nhập lậu qua biên giới và bằng con đường tiểu ngạch thì con số này có thể còn cao hơn. Điều đáng quan ngại là tốc độ gia tăng nhập khẩu từ Trung Quốc ngày càng nhanh, trong khi xuất khẩu sang nước này hầu như không thay đổi. Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong tháng 2/2009 ước đạt trên 4,3 tỷ USD, tăng 25,1% so cùng kỳ năm trước. Tính chung, kim ngạch xuất khẩu trong hai tháng đầu năm đạt 8,02 tỷ USD. Mặc dù kết quả của hoạt động ngoại thương trong hai tháng đầu năm là khá tích cực với xuất siêu trên 249 triệu USD, nhưng tính chung 2 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu vẫn giảm 5% so cùng kỳ 2008. Nếu không tính đến hai mặt hàng vàng và gạo, kim ngạch xuất khẩu tháng 2 giảm tới 15% và nhập siêu lên đến trên 1,1 tỷ USD. Do vậy, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những tháng tới sẽ còn phải đối mặt với nhiều thách thức. Đó là xuất khẩu giảm và nhập siêu gia tăng. Theo dự báo, kim ngạch xuất khẩu trong những tháng tới sẽ khó khăn do lượng vàng xuất khẩu đã cạn, xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực vẫn gặp khó khăn lớn về thị trường do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay. 10 Trong khi đó, khối lượng nhập khẩu nhiều mặt hàng như xăng dầu, sắt thép, phân bón, máy móc thiết bị lại đang có xu hướng tăng nhanh. Chính điều này sẽ khiến nhập siêu sớm quay trở lại. Dự báo, nhập siêu trong 4 tháng cuối của nửa đầu năm 2009 sẽ duy trì ở mức 400 - 500 triệu USD/tháng, đưa nhập siêu 6 tháng đầu năm vào khoảng 1,2 - 1,5 tỷ USD, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức nhập siêu trên 14 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2008. Năm 2010: Về xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2010 ước tính đạt khoảng 71,6 tỷ USD, tăng 25,5% so với năm 2009 và tăng 18% so với kế hoạch đã được đề ra. Trong đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt khoảng 38,8 tỷ USD, chiếm 54% kim ngạch xuất khẩu cả nước, tăng 27,8%, nếu trừ dầu thô đạt khoảng 33,8 tỷ USD, tăng 40,1% so với năm 2009. Khu vực doanh nghiệp 100% vốn đầu tư trong nước đạt khoảng 32,8 tỷ USD, chiếm 46%, tăng 22,7% so với năm 2009. Về thị trường xuất khẩu, năm 2010, xuất khẩu đã tăng trên tất cả các thị trường, trong đó có thị trường Châu Á ước tăng 32,6%, tiếp đó đến thị trường Châu Mỹ, ước tăng 25,8%, sau đó đến thị trường Châu Âu ước tăng 18,2%, rồi đến thị trường Châu Phi – Tây Á – Nam Á ước tăng 45% và thấp nhất là Châu Đại Dương ước tăng 13,6%. 11 Về nhập khẩu: với nhiều biện pháp tăng cường kiểm soát để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng xa xỉ hoặc trong nước đã sản xuất được, nhiều mặt hàng có khối lượng nhập khẩu giảm so với năm 2009, mặc dù một số mặt hàng vẫn còn có mức nhập khẩu cao. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2010 đạt 84 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm 2009, trong đó nhóm hàng cần thiết phải nhập khẩu chiếm một tỷ trọng đáng kể, chủ yếu để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, phục vụ cho đầu tư xây dựng các công trình và dự án. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài đạt 36,4 tỷ USD, chiếm 43% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước, tăng 39,9%. Khu vực doanh nghiệp 100% vốn đầu tư trong nước đạt 47,5 tỷ USD, chiếm 56%, tăng 8,3% so với năm 2009 Về thị trường nhập khẩu: thị trường nhập khẩu Châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn là 78% kim ngạch nhập khẩu cả nước. Trong đó ASEAN chiếm 19%, các nước Đông Á chiếm 55%, riêng Trung Quốc chiếm 23%. Như vậy, xét riêng trong năm 2010, xuất khẩu đã đạt mức tăng trưởng cao, nhập siêu đã dần kiểm soát được ở mức 17,27% kim ngạch xuất khẩu, đạt 12,37 tỷ USD, nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu đã cao hơn nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu. 2. Nguyên nhân gây thâm hụt cán cân thương mại ở Việt Nam. * Nguyên nhân thâm hụt cán cân thương mại: Chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư. Do lạm phát cao và chính sách tỷ giá “cố định linh hoạt” của Việt Nam gắn với đồng Đô La Mỹ. Do cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam. Chính sách giảm thuế nhập khẩu thực hiện theo các cam kết trong thỏa thuận thương mại khu vực và trong WTO. * Nguyên nhân của tình trạng nhập siêu tăng. Nhập siêu lớn và liên tục như vậy tất nhiên là một điều không tốt cho sự ổn định của kinh tế vĩ mô. Đâu là nguyên nhân gây ra hiện tượng này? Và đâu là nguyên nhân đáng ngại? Về mặt lý thuyết, khi các nền kinh tế được tự do thông thương với nhau, các doanh nghiệp của nền kinh tế này có thể mua được các yếu tố đầu vào với chi phí thấp hơn từ một số nền kinh tế khác so với trước khi thông thương. Đồng thời các doanh nghiệp của nền kinh tế này cũng có thể bán được sản phẩm sang một số 12 nền kinh tế khác (không nhất thiết là các nền kinh tế mà nó nhập khẩu) với mức giá đủ để thu được một mức lợi nhuận chấp nhận được. Kể từ năm 1995 trở lại đây, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, Việt Nam chủ yếu nhập siêu từ các nước trong khu vực ASEAN và Trung Quốc, nhưng lại xuất siêu sang Mỹ và châu Âu (hình 1). Việt Nam nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng tư liệu sản xuất (máy mó
Luận văn liên quan