Tiểu luận Nhà đầu tư nước ngoài với thị trường chứng khoán Việt Nam

Theo quy định tại quyết định 36/2003/Q Đ- TTg ngày 11 tháng 3 năm 2003 về quy chế góp vốn, mu a cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt nam thì “ Nhà đầu tư nước ngoài” (NĐTNN) bao gồm: 1. “Tổ chức kinh tế tài ch ính nước ngoài” là tổ chức kinh tế tài ch ính được thành lập theo pháp luật n ước ngoài và hoạt động kinh doanh tại nước ngoài hoặc/và tại Việt nam. 2. “Người nước ngoài không th ường trú ở Việt nam” là công d ân n ước ngoài cư trú ở nước ngoài. 3. “Người nước ngoài thường trú ở Việt nam” là công dân nước ngoài và người không có quốc tịch Việt nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt nam. 4. “Người Việt nam định cư ở nước ngoài” là ng ười có quốc tịch Việt nam và người gốc Việt nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài

pdf19 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2839 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nhà đầu tư nước ngoài với thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TPHCM KHOA ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC  TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐỀ TÀI NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Giáo viên bộ môn: PGS TS Nguyễn Đăng Dờn Nhóm SV thực hiện: Nhóm 7 Lớp: Cao học ngân hàng Đêm 2 - K.16 Tháng 12-2007 A. Cơ sở pháp lý và một số khái niệm cơ bản: I. Khái niệm: Theo quy định tại quyết định 36/2003/Q Đ- TTg ngày 11 tháng 3 năm 2003 về quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt nam thì “ Nhà đầu tư nước ngoài” (NĐTNN) bao gồm: 1. “Tổ chức kinh tế tài chính nước ngoài” là tổ chức kinh tế tài chính được thành lập theo pháp luật nước ngoài và hoạt động kinh doanh tại nước ngoài hoặc/và tại Việt nam. 2. “Người nước ngoài không thường t rú ở Việt nam” là công dân nước ngoài cư trú ở nước ngoài. 3. “Người nước ngoài thường trú ở Việt nam” là công dân nước ngoài và người không có quốc tịch Việt nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt nam. 4. “Người Việt nam đ ịnh cư ở nước ngoài” là người có quốc tịch Việt nam và người gốc Việt nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. II. Hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài: Khi có nhu cầu đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài giao dịch trực tiếp với doanh nghiệp Việt nam hoặc với tổ chức tài chính trung gian thực hiện việc phát hành để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp Việt nam dưới hai hình thức sau: 1. Hình thức mua cổ phần: a. Mua cổ phần phát hành lần đầu của các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa. b. Mua cổ phần phát hành thêm của Công ty cổ phần, mua lại cổ phần của các cổ đông trong Công ty cổ phần. 2. Hình thức góp vốn: a. Mua lại phần vốn góp của các thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn; góp vốn vào Công ty trách nhiệm hữu hạn để trở thành thành viên mới của Công ty trách nhiệm hữu hạn. b. Góp vốn vào Công ty hợp danh; mua lại phần vốn góp của thành viên Công ty hợp danh để trở thành thành viên góp vốn Công ty hợp danh. c. Góp vốn vào Liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã để trở thành thành viên Liên hiệp hợp tác xã. Nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản tại tổ chức tài chính, Ngân hàng thương mai Việt nam hoặc tổ chức tài chính, Ngân hàng thương mại nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt nam. Mọi hoạt động mua, bán cổ phần, chuyển nhượng vốn góp, thu và sử dụng cổ tức, lợi tức được chia, chuyển tiền ra nước ngoài và các hoạt động khác có liên quan đến đầu tư vào doanh nghiệp Việt nam đều thông qua tài khoản này. Nếu nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần bằng ngoại tệ thì quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá mua của Ngân hàng thương mại được phép hoạt động ngoại hối tại thời điểm góp vốn, mua cổ phần. Hình thức xác nhận cổ phần, góp vốn được thực hiện một trong hai hình thức: - Chứng chỉ: là cổ phiếu ghi tên hoặc không ghi tên. - Ghi sổ kế toán. Việc phát hành, quản lý cổ phiếu và ghi sổ kế toán theo quy định của pháp luật Việt nam. III. Mức góp vốn, mua cổ phần: Tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua, bán chứng khoán trên TTCK Việt nam theo tỷ lệ do Thủ tướng Chính phủ quy định. Theo quyết định 238/2005/QĐ-TTg ngày 29 tháng 9 năm 2005 về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt nam thì: 1) Tổ chức, cá nhân nước ngoài mua, bán chứng khoán trên TTCK Việt nam được nắm giữ: a) Tối đa 49% tổng số cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch của một tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Đối với tổ chức niêm yết, đ ăng ký giao dịch là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần theo Nghị định số 38/2003/NĐ – CP ngày 15 tháng 4 năm 2003 thì tổng số cổ phiếu niêm yết là số cổ phiếu phát hành ra công chúng theo phương án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. b) Tối đa 49% tổng số chứng chỉ quỹ đầu tư niêm yết, đăng ký giao dịch của một quỹ đầu tư chứng khoán. c) Không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với trái phiếu lưu hành của tổ chức phát hành. 2) Tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài được góp vốn, mua cổ phần, góp vốn liên doanh thành lập Công ty chứng khoán hoặc Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán tối đa là 49% vốn điều lệ. 3) Trường hợp Điều ước quốc tế mà Chính phủ Việt nam ký kết hoặc tham gia khác với quy định trên thì áp dụng theo Điều ước quốc tế. Riêng nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa được niêm yết chứng khoán hoặc khi ngân hàng Việt Nam niêm yết chứng khoán thì tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm cả cổ đông nước ngoài hiện hữu) và người có liên quan của các nhà đầu tư nước ngoài đó không vượt quá 30% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam. Tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài đối với những cổ phiếu OTC chưa niêm yết tối đa cũng là 30%. IV. Đầu tư gián tiếp nước ngoài: Điều 3, Luật Đầu tư của Việt Nam được thông qua năm 2005 và có hiệu lực từ tháng 7-2006 đã xác định: “Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác; thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”. Theo cách hiểu này, đầu tư gián tiếp nước ngoài là các khoản đầu tư gián tiếp do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện - để phân biệt với đầu tư gián tiếp trong nước do các nhà đầu tư trong nước thực hiện - thông qua 2 hình thức chủ yếu sau: - Nhà đầu tư trực tiếp mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác của các doanh nghiệp, của chính phủ và của các tổ chức tự trị được phép phát hành trên thị trường tài chính - Nhà đầu tư gián tiếp thực hiện đầu tư thông qua Quỹ đầu tư chứng khoán hoặc định chế tài chính trung gian khác trên thị trường tài chính. Cách hiểu này gần với định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Portfolio Investment – FPI) là hoạt động mua chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu) được phát hành bởi một công ty hoặc cơ quan chính phủ của một nước khác trên thị trường tài chính trong nước hoặc nước ngoài Đặc trưng cơ bản của FPI: Thứ nhất, nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý doanh ngh iệp phát hành chứng khoán hoặc các hoạt động quản lý nó i chung của cơ quan phát hành chứng khoán; Thứ hai, nhà đầu tư không kèm theo cam kết chuyển giao tài sản vật chất, công nghệ, đào tạo lao động và kinh nghiệm quản lý như trong trực tiếp đầu tư (FDI). FPI là đầu tư tài chính thuần túy trên thị trường tài chính. Hoạt động của NĐTNN trên thị trường chứng khoán Việt Nam có liên quan mật thiết với tình hình biến động của FPI, hay nói cách khác nhìn FPI ta có thể thấy được hoạt động của NĐTNN đối với thị trường chứng khoán Việt Nam như thế nào. B. Tổng quan về nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam Mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam đã hoạt động được 7 năm, nh ưng cho đến nay, sự chi phối và những tác động cụ thể của nhà đầu tư nước ngoài đối với thị trường vẫn còn là những ẩn số. Trong thời gian qua, đã xuất hiện ngày càng nhiều đánh giá mang tính nhận định, ph ân tích về vai trò hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, những bài phân tích tuy có đề cập đến xu hướng vận động chung của nhà đầu tư nước ngoài nhưng rất ít thông tin cụ thể về hoạt động của một nhà đầu tư nước ngoài cụ thể nào, diễn biến hoạt động của họ vẫn còn là một ẩn số lớn. Toàn bộ mối quan hệ mua bán của nhà đầu tư nước ngoài, mối quan hệ giữa khối lượng mua và khối lượng bán, thời điểm mua vào và thời điểm bán ra, các tính toán phương án chiến thuật “lướt sóng” của nhà đầu tư nước ngoài hầu như chưa được ngh iên cứu và phân tích, dù chỉ mang tính tổng lược. Trong nhiều trường hợp, từ hoạt động đấu giá cổ phần cho đến những tác động vào sự lên hay xuống của thị trường chứng khoán, mặc dù nhiều ng ười đoán chắc là có bàn tay của nh à đầu tư nước ngoài, thậm chí tác động rất sâu, nhưng cũng không có một minh chứng nào được dẫn ra. Trong phạm vi hiểu biết và khả năng phân tích của mình, nhóm thực hiện xin trình bày một cách tổng quát về hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian vừa qua như sau: Có thể nói, việc thị trường chứng khoán VN liên tục tăng trưởng trong thời gian qua là nhờ có sự góp mặt của các nhà đầu tư nước ngoài. Từ năm 2005 trở về trước, vai trò của nhà đầu tư nước ngoài không nổi bật trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Điều này có thể giải thích do hoạt động chưa đạt mức độ tăng trưởng mạnh của thị trường chứng khoán, cũng như giai đoạn nằm ngang kéo dài quá lâu của chỉ số chứng khoán đã khiến cho không chỉ rất nh iều nhà đầu tư trong nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài cũng không đánh giá cao về tiềm năng hồi phục và phát triển của giá cả cổ phiếu. Năm 2006 thực sự là một năm “ bản lề” đối với nhà đầu tư nước ngoài và cũng là năm phát triển mạnh nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam trong sáu năm lịch sử thành lập. Cùng với mức tăng trưởng GDP đạt 8,2%, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2006 đạt con số kỷ lục 10, 2 tỷ USD. Đây là mức thu hút vốn FDI cao nhất kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam từ năm 1997 đến nay., tăng hơn 45% so với năm 2005, vượt 32% kế hoạch đầu năm đề ra (6,5 tỷ USD). Song song với sự tăng tốc của vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp cũng không ngừng gia tăng, thu hút sự quan tâm đặc biệt của các quỹ đầu tư hàng đầu khắp thế giới như Merrill Lynch, UBS, Deustche Bank, Citigroup, KTIMC, JP Morgan… Riêng trong năm 2006, số vốn đầu tư gián tiếp thu hút được hơn 2 tỷ USD, bằng 10 năm trước cộng lại. Thị trường chứng khoán Việt Nam n ăm 2006 cũng chứng kiến nhiều đợt tăng trưởng mạnh, chỉ số chứng khoán của cả hai sàn giao dịch Hồ Chí Minh và Hà Nội liên tục đạt những mốc kỷ lục mới. Đến cuối năm 2006, số công ty niêm yết và giao dịch ở hai TTGDCK thành phố HCM và Hà Nội gấp hơn 3,5 lần của 6 năm trước cộng lại, giá trị vốn hó a thị trường gấp 22 lần so với năm 2005 và đạt 22,6% GDP. Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán tăng từ 30.000 cuối năm 2005 lên 100.000 vào cuối năm 2006, trong đó nhà đầu tư nước ngoài chiếm 2% . Có thể nói, việc thị trường chứng khoán tăng trưởng nóng là nhờ có sự góp mặt của các nhà đầu tư nước ngoài. Việc chính phủ tăng room cho NĐTNN từ 30% lên 49% cũng là một nguyên nhân khiến cho NĐTNN có tâm lý đầu tư hồ hởi hơn và làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam “tăng nhiệt”. Các nhà đầu tư nước ngoài được coi như nhà đạo diễn cho nhiều kịch bản của thị trường chứng khoán Việt Nam. Cổ phiếu nào được các nhà đầu tư nước ngoài nhắm đến, cổ ph iếu đó lên cơn sốt. Dân chơi chứng khoán thường rỉ tai nhau, cổ phiếu nào đã hết “room” cho nước ngoài thì cũng hết “cửa”. Chỉ l bài phát biểu của một quỹ đầu tư nào đó cũng có thể ảnh hưởng đến xu hướng đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư trong nước. Điều đó cho thấy, các nhà đầu tư ngoại là nhân tố quan trọng “đốt nóng” thị trường chứng khoán Việt Nam. Sang năm 2007, tính đến tháng 11, một năm sau ngày Việt Nam gia nhâp WTO, luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã và đang tạo ra kỷ lục mới: cả nước đã thu hút được FDI trị giá hơn 15 tỷ USD, dự báo cuối năm sẽ đạt mức kỷ lục 16 tỷ USD, tăng 50% so với 2006. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng ước khoảng 5 tỷ USD. Nguồn kiều hối có mức tăng cao nhất từ trước tới nay: dự đoán đến cuối năm nay sẽ có khoảng 5 tỷ USD kiều hối chuyển về Việt Nam qua các kênh chính thức. Với s ự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, thị trường chứng khoán Việt Nam đang có những dấu hiệu của sự chuyển mình sang 1 giai đoạn phát triển mang tính ổn định và bền vững hơn. Theo số liệu thống kê, hiện có khoảng 1.700 nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán VN. Đây là một tín hiệu lạc quan về việc thu hút đầu tư gián tiếp của VN. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, VN cần một lượng vốn đầu tư rất lớn (khoảng 140 tỉ USD) cho giai đoạn 2006-2010. Vì vậy, việc thu hút nguồn vốn từ nước ngoài (gián tiếp và trực tiếp) là rất quan trọng. Hiện có khoảng trên 100 định chế đầu tư tài chính chuyên nghiệp trên thế giới đang quản lý một khối lượng tài sản khổng lồ, khoảng 300 tỉ USD. Chỉ cần họ chấp nhận đầu tư vào VN 0,1% là chúng ta đã có khoảng 300 triệu USD. Tuy nhiên, khác với FDI là nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật chất, khó chuyển đối hoặc thanh khoản, đầu tư gián tiếp được thực hiện dưới dạng đầu tư tài chính với các chứng khoán có thể chuyển đổi nên các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài dễ dàng và nhanh chóng mở rộng hoặc thu hẹp, hay chuyển sang đầu tư dưới dạng khác. Đây là nguyên nhân chấn động kinh tế ngoại nhập của dòng vốn đầu tư gián tiếp đối với nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Đặc biệt khi việc chuyển đổi và rút vốn đầu tư gián tiếp nói trên diễn ra theo kiểu “tháo chạy” đồng loạt trên phạm vi rộng với số lượng lớn có thể dẫn tới khủng hoảng kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Hiện nay đã có khoảng 74 quỹ đầu tư nước ngoài hiện diện tại Việt Nam. Riêng trong 8 tháng đầu năm 2007 đã có thêm 22 quỹ đầu tư mới được thành lập. Trong số đó, đáng chú ý có các tên tuổi như: Sumitomo Misui Việt Nam, Fullecton Việt Nam Fund, Credit Agricole Fund… dòng vốn này đầu tư chủ yếu đến từ các nước Sigapore, Nhật Bản, Hàn Quốc. Hiện nay, có những quỹ đầu tư nước ngoài được đánh giá là hoạt động thành công trên thị trường Việt Nam là Vina Capital, Indochina Capital, Dragon Capital, IDG Vietnam, PXP Vietnam, City Goup, HSBC, JP Morgan, Deutsch AG... Nhiều tên tuổi quỹ đầu tư lớn đến từ Mỹ cũng đang không ngừng gia tăng đầu tư vào Việt Nam: Dragon Capital, công ty quản lý quỹ có thâm niên nhất ở Việt Nam, hiện đang quản lý 600 triệu USD tại Việt Nam và trong số này, 30% vốn do các nhà đầu tư Mỹ góp Gần đây nhất, Heartland Funds - 1 quỹ rất nổi tiếng ở Mỹ, được bình chọn là quỹ hàng đầu trong quý 1 năm 2007 tại Mỹ, đã lên kế hoạch hợp tác với Lexington Langha, Vikoa Investment Consultant để thành lập quỹ đầu tiên có nguồn vốn trực tiếp của công ty Mỹ (không thông qua nước thứ 3) đầu tư vào Việt Nam, quy mô vốn ban đầu dự định từ 50-100 triệu USD, sau đó tùy thuộc vào các dự án có thể mở rộng tiếp. Trong số các nhà đầu tư nước ngoài, các quỹ đầu tư có người quản lý quỹ tại Việt Nam chiếm tỷ trọng 70% trên tổng quy mô vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong số các quỹ đầu tư nước ngoài chưa có mặt các quỹ Mutual Fund và Pension Fund - là các quỹ có mục tiêu đầu tư rất dài hạn. Loại hình đầu tư Tỷ trọng trong giá trị đầu tư (%) Cổ phiếu của các công ty niêm 68 yết Trái phiếu niêm yết 25 Trái phiếu không niêm yết 6 Cổ phiếu không niêm yết 1 Tính đến tháng 4/2007, nhà đầu tư nước ngoài vẫn mạnh nhất trên thị trường niêm yết, trong đó giá trị đầu tư vào cổ phiếu của các công ty niêm yết chiếm đến 68% trong tổng g iá trị đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài; đầu tư vào trái phiếu niêm yết chiếm 25%; đầu tư vào trái phiếu không niêm yết chỉ chiếm 6% và đầu tư vào cổ phiếu không niêm yết chỉ vỏn vẹn có 1%. Tính đến tháng 10/2007 có khoảng 7.406 tài khoản giao dịch nhà đầu tư nước ngoài (7.137 tài khoản cá nhân và 269 tài khoản tổ chức) và hiện có hơn 260 quỹ nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam với tổng giá trị danh mục đầu tư ước tính khoảng 5 tỷ USD. Riêng số tài khoản cá nhân của các nhà đầu tư Nhật chiếm hơn 70% tổng số tài kho ản cá nhân của nhà đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ nhà đầu tư nước ngoài tại TTCK Việt Nam cao hơn ở Indon esia (khoảng 35%) nh ưng thâp hơn ở Thái Lan (khoảng 70%). Tại thị trường niêm yết, nhà đầu tư nước ngoài đã nhanh chóng sở hữu đến 49% hoặc đang có xu hướng đạt đến 49% (tỷ lệ cao nhất cho phép đối với nhà đầu tư nước ngoài) đối với một số mã cổ phiếu như AGF, CII, BT6, GIL, GMD, IFS, SAM, TDH, TMS, TYA, VNM, chứng chỉ quỹ VFMVF1… Tính đ ến tháng 9/2007, trong số 205 cổ phiếu niêm yết, có 18 cổ phiếu đã hết room cho NĐTNN, gồm các cổ phiếu được đánh giá tốt bậc nhất trên thị trường hoặc thuộc các ngành nh ư: ngân hàng (ACB, STB), thủy sản (A BT, A GF), bất động sản (REE, TDH), xây dựng hạ tầng (CII, BT6), th ực phẩm đồ uống (TRI, IFS). Trên thị trường có 180 cổ phiếu còn trên 10% room, 128 cổ phiếu vẫn còn trên 40% room. Đối với các cổ phiếu còn room từ 10% trở lên, NĐTNN giao dịch mua bán trung bình hàng ngày rất ít, chỉ chiếm khoảng 1% tổng số room hiện hành. Như vậy, có thể thấy NĐTNN cần room, nh ưng là room của các cổ phiếu tốt chứ không phải là mọi cổ phiếu. Có nhiều phân tích về việc nên mở roo m hay không nên mở room. Trước đây khi nguồn cung trên thị trường chứng khoán còn ít, để kích thích hoạt động của thị trường chứng khoán thì việc mở room là cần thiết. Nhưng đến nay, khi nguồn cung liên tiếp tăng cùng với hàng loạt các đợt tăng vốn, phát hành cổ ph iếu thêm…, thị trường dường như bão hòa hơn cùng với tác động của các yếu tố chính sách từ chính phủ, ý nghĩa của việc mở “room” đối với NĐTNN không còn tác động mạnh tới tâm lý đầu tư của họ nh ư trước đây. Trong cuộc chơi chứng khoán tại thị trường chứng khoán Việt Nam, có một động thái rất đặc biệt: trong đa số trường hợp biến động về giá cổ phiếu, dường như nhà đầu tư nước ngoài luôn g iữ một tư thế độc lập và tách rời hẳn tâm lý đám đông của các nhà đầu tư Việt Nam. Sau khi chứng kiến thị trường chứng khoán tăng trưởng một cách chóng mặt trong giai đoạn đầu năm 2007, các nhà đầu tư sớm nhận ra rằng thị trường nhanh chóng rơi vào tình trạng quá nóng và giá cả các cổ phiếu niêm yết trở nên quá đắt đỏ. Trong đợt điều chỉnh đầu tiên của VN-Ind ex xuống dưới ngưỡng 1.000 điểm và HasTC-Index dưới 300 điểm, việc mua vào của nhà đầu tư nước ngoài khi thị trường đảo chiều vẫn hầu như không có gì đột biến đáng kể. Vào những thời điểm thị trường sụt giảm mạnh, khi không khí ảm đạm lộ rõ ở các nhà đầu tư trong nước, thì nhà đầu tư nước ngoài vẫn chiếm khoảng 20% giá trị giao dịch toàn thị trường, họ trở thành một trong những nhân tố hoạt động mạnh với lượng mua vào thường cao hơn bán ra. Chính vì thế, có thể xem vốn ngoại là yếu tố níu giữ chỉ số thị trường trong thời gian qua khi tâm lý nhà đầu tư trong nước bị “ xáo trộn” vì sự sụt giảm quá nhanh của thị trường. Một chuyên viên phân tích cho rằng, nhà đầu tư nước ngoài hiện đang nắm giữ một khối lượng lớn cổ phiếu với nhiều mức giá khác nhau. Trong đó có những mức giá cực rẻ từ năm 2006. Với phương thức mua vào, bán ra theo kiểu “cuốn chiếu” ở từng mức giá, nhà đầu tư nước ngoài có thể dẫn dắt thị trường trong nh ững giai đoạn nhất định, nếu họ muốn như thế. Một kỳ vọng lớn ở vốn ngoại là tác động vào các đợt IPO doanh nghiệp lớn. Sau khi Bảo Việt bán 10% cổ phần của mình cho HSBC với giá 255 triệu USD, 3 ngân hàng lớn là Vietcombank, ICB, BIDV đang ráo riết chọn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, với mức bán khoảng 7-10%. Ngày 26/12/2007 mới đây, IPO Vietcombank đã diễn ra, thành công với mức đấu giá bình quân 107.860 VND. Trong đợt đấu giá này, nhà đầu tư nước ngoài đã bỏ thầu cao hơn hẳn các nhà đầu tư trong nước, khoảng 113-117 nghìn đồng, và họ đã mua được 97% room dành cho họ… “Nhà đầu tư nước ngoài có thể chỉ cần nhìn đồ thị là thấy được quy luật lên xuống của giá một số cổ phiếu. Họ luôn thể hiện sự tự tin bất kể khi thị trường như thế nào và đầu tư theo đúng những kỹ thuật phân tích”. Dù không được thừ a nhận chính thức, nh ưng giao dịch của NĐTNN đôi lúc được xem là “hàn thử biểu” của thị trường chứng khoán. Hãy xem họ thường mua bán ra sao: Họ thường không chọn cổ phiếu giá cao hoặc tăng nóng và “nhắm” đến cổ phiếu của những doanh nghiệp có triển vọng. Có chuyên gia cho rằng các nhà đầu tư
Luận văn liên quan