Hai mươi năm trước đây Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới trong bối cảnh
quốc tế có nhiều biến động hết sức phức tạp, nhất là sau khi chế độ XHCN bị xoá bỏ ở
Đông Âu, Liên Xô tan rã và phong trào cách mạng thế giới tạm thời rơi vào thoái trào.
Tương quan so sánh lực lượng nghiêng về phía có lợi cho CNTB - nhất là Mỹ - siêu
cường duy nhất còn lại sau trật tự thế giới hai cực đã từng tồn tại gần nửa thế kỷ. Dưới
tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa, các quốc gia
đều ưu tiên cho phát triển kinh tế, quá trình giao lưu và thâm nhập qua lại giữa các quốc
gia ngày càng trở nên sôi động và chặt chẽ. Sự đơn lẻ của mỗi quốc gia trở nên hết sức
mong manh trước những rủi ro, biến động của nền kinh tế thế giới, cũng như năng lực
quá nhỏ bé không thể giải quyết được những vấn đề mang tính toàn cầu như: môi trường
sinh thái, nạn nghèo đói, bệnh tật hiểm nghèo. Trong bối cảnh quốc tế như vậy cũng như
nhiều nước khác Việt Nam phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để thích
nghi với điều kiện mới, đây là đòi hỏi khách quan, cấp bách đặt ra cho cách mạng nước
ta. Chúng ta cùng nhìn lại chính sách đối ngoại của nước ta sau 20 năm đổi mới trên
những nội dung chính sau:
1. Điểm lại những nét chính của chính sách đối ngoại Việt Nam qua các giai
đoạn
Đối với nước nào cũng vậy, chính sách đối ngoại là sự tiếp nối của chính sách
đối nội, và phục vụ chính sách đối nội. Chính sách đối ngoại là một bộ phận của đường
lối chính trị, đường lối cách mạng của Đảng ta trong từng thời kỳ cách mạng. Chính sách
đối ngoại là tổng hoà của những quan điểm, biện pháp, hình thức đối ngoại nhằm làm cho
mục tiêu cách mạng trong nước phù hợp với xu hướng, quy luật vận động của thế giới.
a. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1986-1991
Đại hội VI (12/1986) đã khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong đó
có lĩnh vực đối ngoại. Đại hội xác định nhiệm vụ trong lĩnh vực đối ngoại là: "Ra sức kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
11 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4216 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nhìn lại chính sách đối ngoại của Việt Nam sau 20 năm đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận:
Nhìn lại chính sách đối ngoại của
Việt Nam sau 20 năm đổi mới
Hai mươi năm trước đây Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới trong bối cảnh
quốc tế có nhiều biến động hết sức phức tạp, nhất là sau khi chế độ XHCN bị xoá bỏ ở
Đông Âu, Liên Xô tan rã và phong trào cách mạng thế giới tạm thời rơi vào thoái trào.
Tương quan so sánh lực lượng nghiêng về phía có lợi cho CNTB - nhất là Mỹ - siêu
cường duy nhất còn lại sau trật tự thế giới hai cực đã từng tồn tại gần nửa thế kỷ. Dưới
tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa, các quốc gia
đều ưu tiên cho phát triển kinh tế, quá trình giao lưu và thâm nhập qua lại giữa các quốc
gia ngày càng trở nên sôi động và chặt chẽ. Sự đơn lẻ của mỗi quốc gia trở nên hết sức
mong manh trước những rủi ro, biến động của nền kinh tế thế giới, cũng như năng lực
quá nhỏ bé không thể giải quyết được những vấn đề mang tính toàn cầu như: môi trường
sinh thái, nạn nghèo đói, bệnh tật hiểm nghèo... Trong bối cảnh quốc tế như vậy cũng như
nhiều nước khác Việt Nam phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để thích
nghi với điều kiện mới, đây là đòi hỏi khách quan, cấp bách đặt ra cho cách mạng nước
ta. Chúng ta cùng nhìn lại chính sách đối ngoại của nước ta sau 20 năm đổi mới trên
những nội dung chính sau:
1. Điểm lại những nét chính của chính sách đối ngoại Việt Nam qua các giai
đoạn
Đối với nước nào cũng vậy, chính sách đối ngoại là sự tiếp nối của chính sách
đối nội, và phục vụ chính sách đối nội. Chính sách đối ngoại là một bộ phận của đường
lối chính trị, đường lối cách mạng của Đảng ta trong từng thời kỳ cách mạng. Chính sách
đối ngoại là tổng hoà của những quan điểm, biện pháp, hình thức đối ngoại nhằm làm cho
mục tiêu cách mạng trong nước phù hợp với xu hướng, quy luật vận động của thế giới.
a. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1986-1991
Đại hội VI (12/1986) đã khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong đó
có lĩnh vực đối ngoại. Đại hội xác định nhiệm vụ trong lĩnh vực đối ngoại là: "Ra sức kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại... Phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông
Dương, góp phần giữ vững hoà bình ở Đông Nam á và trên thế giới, tăng cường quan hệ
đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện
với Liên Xô và các nước trong cộng đồng XHCN, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời tích cực góp phần vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH"(1).
Nhiệm vụ đối ngoại được đề ra tại Đại hội VI đã phản ánh nhận thức đúng đắn và tư duy
nhạy bén của Đảng ta trước những thay đổi lớn của thời cuộc.
"Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại" là sự quán triệt
sâu sắc bài học của thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng trước những diễn biến
mới của tình hình: Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại còn có nghĩa
là kết hợp yếu tố nội lực với yếu tố ngoại lực để tạo nên sức mạnh tổng hợp làm động lực
mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh.
"Góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam á và trên thế giới" thể hiện
bản chất, lập trường đối ngoại hoà bình của Đảng và Nhà nước ta. Hoà bình mỗi khu vực
và hoà bình trên thế giới có quan hệ biện chứng với nhau. Thế giới có hoà bình thì khu
vực mới có hoà bình và hoà bình ở mỗi khu vực là bộ phận trong nền hoà bình thế giới.
Bên cạnh đó, hoạt động đối ngoại của Việt Nam còn phải "tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi" để thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH, đồng thời phải "góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại" vì các mục tiêu của thời đại. Hai yếu tố này
có quan hệ tương tác lẫn nhau bởi vì "tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi" sẽ góp phần
ổn định tình hình trong nước, khắc phục khó khăn, phát triển kinh tế - xã hội tạo tiền đề
cho những bước phát triển tiếp theo. Yếu tố này một phần cũng đóng góp tích cực vào
cuộc đấu tranh chung của nhân loại, mặt khác lại là cơ sở để nâng cao uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế và đem lại nhiều cơ hội để hội nhập và phát triển.
Sau Đại hội VI của Đảng, tình hình thế giới diễn biến nhanh và phức tạp. Nghị
quyết 13 khoá VI (5-1988) của Bộ Chính trị đã khẳng định "Lợi ích cao nhất của Đảng và
nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hoà bình để tập trung xây dựng và phát triển
kinh tế" vì "với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở
rộng quan hệ quốc tế, chúng ta sẽ có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành
công CNXH" hơn. Phương châm chỉ đạo công tác đối ngoại được điều chỉnh là "thêm
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứVI, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.99.
bạn bớt thù" ra sức tranh thủ các nước anh em bầu bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới,
nhằm phân hoá hàng ngũ đối phương, làm thất bại âm mưu bao vây, cô lập ta về kinh tế,
chính trị và chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đối thoại, hợp tác
trong cùng tồn tại hoà bình. Đây được coi là một bước đột phá mới trong tư duy đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Trên cơ sở quan điểm đổi mới của Đại hội VI và Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị,
Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI) tiếp tục khẳng định: Kiên trì đường lối độc lập tự chủ,
giữ vững hoà bình, tranh thủ thời gian và điều kiện thuận lợi để từng bước ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội. "Chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị sang
quan hệ chính trị - kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước"(2). Tiếp theo, Hội nghị lần thứ VII BCHTW (khoá VI) tiếp tục quán triệt
chủ trương "Sẵn sàng mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước, các công ty nước
ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi và không có điều kiện chính trị ràng buộc, nhưng
phải chủ động phòng ngừa, tránh bị lệ thuộc, hạn chế đến mức thấp nhất cái giá phải
trả"(3).
Như vậy, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị
cùng Nghị quyết Trung ương 6 và 7 (khóa VI) là những văn bản chỉ đạo hoạt động đối
ngoại có ý nghĩa sách lược và chiến lược đối với sự phát triển đất nước. Đây là những
định hướng rất quan trọng, thể hiện tư duy mới về con đường xây dựng CNXH, làm tiền
đề cho việc từng bước hoàn chỉnh chính sách đối ngoại của thời kỳ đổi mới.
b. Chính sách đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1991-1996
Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991) đã vạch ra những nét chủ yếu của chính
sách đối ngoại thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng CNXH và các văn kiện khác.
Trước bối cảnh phức tạp của tình hình quốc tế cũng như tình hình trong nước,
Đại hội VII của Đảng đã xác định: chính sách đối ngoại phải phục vụ cho mục tiêu tổng
quát là đưa Việt Nam cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng. Do đó, văn kiện Đại hội
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCHTW (khóa VI), Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.40.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCHTW (khóa VI), Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1988, tr.17.
VII đã xác định nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là "giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ
hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội"(4). Để cụ thể hoá mục tiêu bao trùm
này, Đại hội VII đã khẳng định chính sách ngoại giao rộng mở: "Việt Nam muốn là bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển"(5). Với quan điểm này chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất
cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên
tắc cùng tồn tại hoà bình.
Trước những diễn biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới, một mặt
Đại hội VII vẫn chủ trương trước sau như một tăng cường đoàn kết và hợp tác với Liên
Xô và các nước XHCN, mặt khác, Đảng kêu gọi thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan
hệ với Trung Quốc, với Mỹ. Đồng thời, Đảng cũng nhận thức sâu sắc rằng phải "phát
triển quan hệ hữu nghị với các nước ở Đông Nam á theo hướng hoà bình, hữu nghị và
hợp tác"(6).
Chủ trương này là một bước hoàn thiện thêm quá trình đổi mới tư duy đối ngoại
của Đảng ta, bởi vì bình thường hoá quan hệ với các nước lớn tăng cường quan hệ với
các nước láng giềng và khu vực có ý nghĩa trực tiếp tới hoà bình, ổn định của Việt Nam
cũng như toàn khu vực. Đại hội VII còn chủ động mở rộng quy mô quan hệ đối ngoại,
Đảng tuyên bố: "sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các Đảng xã hội - dân chủ,
các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới"(7). Đây thực sự là những tín hiệu đầu tiên
đưa đất nước hội nhập vào các tổ chức quốc tế.
Đến Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII (1991), Đảng đề ra tư tưởng chủ đạo cho
chính sách đối ngoại của Việt Nam là: giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và
CNXH; đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.18.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.88.
(6) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.89.
hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù
hợp với đặc điểm đối tượng mà ta có quan hệ. Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII (1992)
còn đề ra 4 phương châm lớn chỉ đạo hoạt động đối ngoại là:
- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
- Giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá và đa phương
hoá quan hệ đối ngoại.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
- Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên
thế giới.
Như vậy, Đại hội VII (1991) và Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII (1992) đã cụ
thể hoá Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH trên lĩnh vực đối
ngoại. Về cơ bản, đường lối đối ngoại trong giai đoạn mới đã định hình làm cơ sở để chỉ
đạo hoạt động đối ngoại trong thời kỳ đổi mới, đưa quan hệ của Việt Nam với các khu
vực và thế giới đi vào chiều sâu, để hợp tác quốc tế ngày càng hiệu quả hơn.
c. Chính sách đối ngoại giai đoạn 1996-2001
Trong bối cảnh quốc tế có sự thay đổi lớn về cục diện thế giới, những điều kiện
giúp đỡ của Liên Xô và phe XHCN như trước đây không còn nữa, Đại hội VIII của Đảng
(1996) đã khẳng định tư duy chính trị mới là: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, phát huy cao độ nội lực, tranh thủ điều kiện quốc tế cho sự phát triển của đất nước,
hoạt động đối ngoại phải nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định: "Củng cố môi trường hoà
bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội"(8). Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước trong tình hình mới, Đảng chỉ rõ phải tiếp tục thực hiện đường lối đối
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.120.
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại. Trong
quan hệ với các nước, chúng ta thực hiện theo thứ tự ưu tiên là: Tăng cường quan hệ với
các nước láng giềng; các nước trong ASEAN không ngừng củng cố quan hệ với các bạn
bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển, các trung tâm kinh tế, chính
trị trên thế giới, với phong trào không liên kết, mở rộng các hoạt động trong các tổ chức,
các diễn đàn quốc tế. Phát triển quan hệ với các Đảng Cộng sản, Đảng công nhân, các lực
lượng cách mạng, quan hệ với các Đảng cầm quyền, mở rộng ngoại giao nhân dân, các
đoàn thể, các hội, các doanh nghiệp với các đối tác.
Sau Đại hội VIII, tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa VIII - 12/1997) Đảng đã nêu
quan điểm cụ thể về công tác đối ngoại trong việc tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là: Một mặt tiến hành khẩn
trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và
WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA.
Mặt khác, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tranh thủ vốn, công nghệ và gia nhập thị
trường quốc tế, nhưng trên nguyên tắc độc lập tự chủ, phát huy đầy đủ các yếu tố nội lực
và tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài.
Như vậy, Đại hội VIII (1996) và Hội nghị Trung ương 4 khoá VIII (12/1997) đã
mở ra cho hoạt động đối ngoại của Đảng ta những hướng đi mới, giao cho công tác ngoại
giao những trọng trách mới, là nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại nhằm
tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới bước vào thế kỷ XXI.
d. Giai đoạn 2001 - 2006
Trong thời điểm mở đầu thiên niên kỷ mới, bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi
sâu rộng cả về chính trị lẫn kinh tế, chính sách đối ngoại đề ra trong Đại hội IX của Đảng
(4/2001) trên cơ sở tiếp tục phát huy tinh thần của các Đại hội VI, VII, VIII đã đề ra:
"Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa
dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển"(9). Nhiệm vụ đối
ngoại trong những năm tiếp theo được khẳng định "Tiếp tục giữ vững môi trường hoà
bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập dân tộc
và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội"(10). Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là
những nội dung mới trong chính sách đối ngoại của Đảng ta trong những năm đầu của thế
kỷ XXI.
Theo tinh thần của Đại hội IX, đối tượng trong quan hệ đối ngoại của ta có sự bổ
sung thêm: Việt Nam không chỉ sẵn sàng là bạn mà còn sẵn sàng là "đối tác tin cậy" của
các nước trong cộng đồng quốc tế. Điều này một lần nữa khẳng định chính sách đối ngoại
nhằm phục vụ sự phát triển kinh tế. Chúng ta "chủ động" lựa chọn tổ chức, khu vực kinh
tế quốc tế để hội nhập (sân chơi), chúng ta xây dựng lộ trình hợp lý và chương trình hành
động cụ thể "luật chơi" để hội nhập, phát triển kinh tế. Đồng thời chúng ta thực hiện
nghiêm chỉnh, với trách nhiệm cao những "cam kết quốc tế" để xứng đáng là "đối tác tin
cậy" của các nước.
Tiếp theo, Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX - 7/2003) đã đưa ra một khái niệm
rất mới mẻ về "đối tượng" và "đối tác" trong quan hệ hợp tác làm ăn kinh tế. Nghị quyết
đã phân tích một cách biện chứng rằng: trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ,
hợp tác; trong một số đối tác vẫn có thể có mặt khác biệt mâu thuẫn với lợi ích của ta.
Trên tinh thần đó, những nhiệm vụ trọng tâm được xác định cũng như việc triển khai các
nhiệm vụ ấy đều bằng con đường và cách thức hoà bình, đều hướng vào mục tiêu giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Nghĩa là, tăng cường khai thác
và phát triển tối đa tất cả các yếu tố mang bản chất hoà bình còn tồn tại với tư cách là một
lực lượng đang vận động trong các "đối tượng" và "đối tác". Nghị quyết Trung ương 8 đã
xác định "Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị
(9) (10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.119.
và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta"; "bất kể thế
lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh". Trên cơ sở đó, chúng ta cần khắc
phục cả hai khuynh hướng trong công tác đối ngoại là mơ hồ mất cảnh giác hoặc cứng
nhắc trong nhận thức chủ trương và trong xử lý tình huống cụ thể.
Như vậy, Nghị quyết Đại hội IX và Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX - 2003)
đã hoàn chỉnh thêm một bước nữa tư duy đối ngoại cũng như chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta.
Thực tiễn triển khai đường lối đối ngoại đổi mưói trong 20 năm qua cho thấy:
Đảng ta ngày càng hoàn chỉnh đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
hoạt động đối ngoại, xác lập vị thế của đất nước trên trường khu vực và quốc tế, góp phần
quan trọng đem lại những thành công, thắng lợi của sự nnghiệp đổi mới nước nhà.
2. Những thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới trên lĩnh vực đối ngoại
Sau 20 năm đổi mới, trên lĩnh vực đối ngoại nói riêng, chúng ta thu được những
thành tựu hết sức to lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Cụ thể có thể khái quát những thành
tựu đó ở những nội dung sau:
a. Đổi mới tư duy, nhận thức đúng về cục diện thế giới và những xu thế chủ yếu
tác động đến đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn mới
Nước ta bước vào công cuộc đổi mới trong bối cảnh quốc tế có những biến động
hết sức phức tạp, nhất là sau khi chế độ XHCN bị xoá bỏ ở các nước Đông Âu, Liên Xô
tan rã làm cho phong trào cách mạng thế giới rơi vào thoái trào. Trong hoàn cảnh ấy,
không dễ gì nhận diện được chuẩn xác những chiều hướng phát triển của thế giới. Song,
Đảng ta đã bình tĩnh phân tích cục diện thế giới, vận dụng phương pháp luận khoa học để
lần tìm những dòng chảy cơ bản của thời cuộc vạch ra đường lối chính sách và những
phương châm đối ngoại sáng tạo, được thực tế chứng minh là đúng đắn.
- Về tính chất của thời đại
Câu hỏi đặt ra cho những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX là thế giới sẽ đi về
đâu? Tính chất, nội dung của thời đại sẽ thế nào?
Trong bối cảnh đó, rất nhiều các quan điểm luận thuyết khác nhau, đưa ra những
câu trả lời có những hợp lý nhất định, nhưng một định nghĩa chính xác về thời đại có nội
dung chính trị - xã hội rộng lớn, khái quát được tiến trình phát triển và xu thế cơ bản của
thế giới trong giai đoạn lịch sử hiện nay là chưa có. Nên đối với Đảng ta, nếu không xác
định được tính chất của thời đại thì không thể xác định được phương hướng tiến lên của
đất nước; không thể định ra được chiến lược, sách lược đối nội, đối ngoại đúng đắn;
không thể tập hợp sức mạnh toàn dân phấn đấu cho mục tiêu hợp với xu thế của thời đại,
cũng như không thể đấu tranh có hiệu quả với những luận điểm sai trái, thù địch.
Từ đòi hỏi bức thiết đó, Đảng ta đã trung thành vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin trong đánh giá phân tích tình hình thế giới đương đại. Đảng ta
nhận thấy: Theo quy luật tiến hoá của lịch sử loài người, theo quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thì Cách mạng Tháng
Mười Nga thành công là hoàn toàn hợp quy luật và mở đầu cho một thời đại mới: Thời
đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu
không phải là sự cáo chung của CNXHKH mà nó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan khác nhau. Ngày nay, CNXH hiện thực vẫn còn tồn tại và phát triển ở
một số nước, và ngay trong lòng các nước tư bản, tư tưởng của CNXH vẫn lôi cuốn
không ít người hướng về nó. Mặt khác, thời đại nào ra đời và phát triển cũng trải qua
nhiều bước thăng trầm, xã hội mới xuất hiện không phải đồng loạt ở mọi nước, mà
thường dưới cá