Như chúng ta đã biết, bán đảo Triều Tiên có một vị trí địa – chiến lược hết sức quan trọng tại khu vực Đông Bắc Á nói riêng và Châu Á – Thái Bình Dương nói chung. Ngày nay, những căng thẳng trên bán đảo này không ngừng leo thang khiến cho Quan hệ quốc tế trở nên càng phức tạp. Nơi đây tồn tại sự đan xen lợi ích của nhiều cường quốc từ chiến tranh thế giới thứ hai. Những lợi ích trở nên xung đột nhất khi chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) xảy ra. Bài tiểu luận này sẽ trình bày một cách rõ ràng Những tác động của chiến tranh Triều Tiên đến quan hệ quốc tế trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Bài tiểu luận chia thành hai phần:
Phần 1: Tổng quan về chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)
Phần 2: Tác động của chiến tranh Triều Tiên tới các mỗi quan hệ Xô – Mỹ, Xô – Trung, Trung – Mỹ và Đông Dương trong thời kỳ chiến tranh Lạnh
12 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 3321 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những tác động của chiến tranh Triều Tiên đến quan hệ quốc tế trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, bán đảo Triều Tiên có một vị trí địa – chiến lược hết sức quan trọng tại khu vực Đông Bắc Á nói riêng và Châu Á – Thái Bình Dương nói chung. Ngày nay, những căng thẳng trên bán đảo này không ngừng leo thang khiến cho Quan hệ quốc tế trở nên càng phức tạp. Nơi đây tồn tại sự đan xen lợi ích của nhiều cường quốc từ chiến tranh thế giới thứ hai. Những lợi ích trở nên xung đột nhất khi chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) xảy ra. Bài tiểu luận này sẽ trình bày một cách rõ ràng Những tác động của chiến tranh Triều Tiên đến quan hệ quốc tế trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Bài tiểu luận chia thành hai phần:
Phần 1: Tổng quan về chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)
Phần 2: Tác động của chiến tranh Triều Tiên tới các mỗi quan hệ Xô – Mỹ, Xô – Trung, Trung – Mỹ và Đông Dương trong thời kỳ chiến tranh Lạnh
NỘI DUNG
Tổng quan về chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)
Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) là một cuộc chiến tranh nóng đầu tiên trong thời kỳ chiến tranh Lạnh và cũng là một cuộc xung đột nghiêm trọng nhất giữa Đông – Tây Trương Tiểu Minh, Chiến tranh lạnh và di sản của nó, Nxb chính trị Quốc gia, 2002, tr.109.
. Cuộc chiến tranh này không đơn thuần là sự tranh chấp để thống nhất bán đảo giữa hai miền Nam – Bắc mà nó còn có sự tham gia của nhiều lực lượng phức tạp khác, không chỉ có sự đối đầu về hệ tự tưởng mà còn đối lập về lợi ích.
Cơ sở hình thành
Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai đi đến hồi kết thì việc phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa các cường quốc trở thành vấn đề nóng hơn bao giờ hết. Nếu ở châu Âu có vấn đề Đức thì ở Châu Á, vấn đề Triều Tiên là một trong những “tấm gương phản chiếu sự so sánh lực lượng của hai siêu cường” Như trên, tr.110.
là Liên Xô đứng đầu phe xã hội của nghĩa và Mỹ đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa.
Tháng 8 năm 1945 Hoa Kì đề nghị với Liên Xô phân chia Triều Tiên thành hai vùng hoạt động quân sự dọc theo vĩ tuyến 38. Miền Bắc thuộc vùng kiểm soát của Liên Xô còn miền Nam do Mỹ kiểm soát. Stalin chấp thuận đề nghị này và lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới của hai vùng hoạt động. Từ đó hai phần của bán đảo Triều Tiên chịu sự khống chế của hai cường quốc. Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên dưới sự lãnh đạo của Kim Nhật Thành không phải lúc nào cũng phục tùng các chỉ thị của I.V Stalin. Ở miền Nam Triều Tiên cũng vậy, chính quyền của Lý Thừa Vãn tồn tại với sự viện trợ của Mỹ nhưng vẫn có những tham vọng hiếu chiến muốn thống nhất hai miền đất nước. Song, trong nhiều năm đầu của sự chia cắt, tham vọng này khó thực hiện được bởi ảnh hưởng của hai siêu cường. Tại bán đảo Triều Tiên thời điểm này đã tồn tại hai quốc gia với hai chế độ chính trị đối lập nhau. Đến năm 1948, sự thành lập của hai nước ở miền Nam – Bắc là minh chứng rõ nét nhất cho sự đối đầu giữa hai cực Xô – Mỹ, hai khối Đông – Tây trong quỹ đạo của Chiến tranh Lạnh. Đây là bối cảnh cơ bản cho sự bùng nổ chiến tranh Triều Tiên vào ngày 25/6/1950.
Bên cạnh việc lãnh đạo hai bên đều muốn thống nhất đất nước theo kiểu riêng, nhằm mở rộng chế độ chính trị của mình sang phía bên kia thì chính Stalin cũng có nguyện vọng về một nước Triều Tiên thống nhất sau khi Ngoại trưởng Mỹ D.Acheson tuyên bố quần đảo Alevatiennes và quần đảo Ryukyus – Nhật Bản thuộc “chu vi an toàn” của Mỹ ở Đông Bắc Á. Hiển nhiên, theo bài diễn văn đó, bán đảo Triều Tiên nằm ngoài “chu vi an toàn” này. Điều này đã làm xua đi nỗi hoài nghi của Stalin rằng Mỹ sẽ đưa quân đến can thiệp vào các công việc của Tiều Tiên Kathryn Wesathersby, the Soviet Role in the Early Phase of the Korean War: New documents evedence”, Winter 1993, tr.433.
. Đồng thời, sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc dành được chính quyền thì căn cứ để Stalin hi vọng về một Triều Tiên thống nhất theo mô thức của miền Bắc lại càng rõ ràng hơn. Theo các bằng chứng lưu trữ là chính I.V.Stalin đã trực tiếp đề xướng khởi động chiến tranh A.V.Torkunov, Cuộc chiến tranh bí ẩn: xung đột Triều Tiên 1950-1953, Nxb. Rosspen, 2002.
. Bằng sự thúc đẩy của môi trường quốc tế và sự quyết đoán của các nhà lãnh đạo phương Bắc mà ngày 25 tháng 6 năm 1950, quân đội Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên vượt qua giới tuyến Triều Tiên ở vĩ tuyến 38, đánh về phía Seoul, mở đầu cho cuộc nội chiến tiềm tàng nhiều nguy cơ về sự đụng độ của hai cường quốc.
Các lực lượng liên quan
Chiến tranh Triều Tiên ban đầu nổ ra dưới hình thức của một cuộc nội chiến với sự tham gia của hai lực lượng là quân đội của Nam-Bắc Triều Tiên. Song với tình hình căng thẳng của chính trị thế giới lúc bấy giờ và vị thế chiến lược của Triều Tiên mà nội chiến đã phát triển dần dần và có nguy cơ trở thành một cuộc chiến tranh lớn. Tuy hai nước đứng đầu phe Đông – Tây không trực tiếp tham gia nhưng rõ ràng ta vẫn thấy được đây là cuộc chiến tranh xung đột giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc vào cuộc để giúp đỡ quân Nam Triều Tiên mà thành phần chủ yếu là quân Mỹ, chịu sự chỉ đạo của chính quyền H. Truman. Về phía quân Bắc, những động thái của quân đội Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên cũng chịu sự chi phối một phần của người anh cả Liên Xô. Đồng thời cũng nhận được sự giúp sức vô cùng to lớn của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Do đó có thể thấy thành phần lực lượng tham chiến khá phức tạp. Rõ ràng chỉ có hai phe chứ không có bên thứ ba tham dự nhưng tính chất của nó lại không hề đơn giản. Những quốc gia tham gia đều có lợi ích và quan điểm nhìn chung là khác nhau nên đã tạo ra sự phức tạp về lực lượng liên quan trong cuộc chiến tranh Triều Tiên.
Ngày 25 tháng 6 năm 1950, cuộc nội chiến nổ ra, tình hình hết sức bất lợi cho Hàn Quốc. Ngày 27 tháng 6, tổng thống H. Truman ra lệnh cho lực lượng vũ trang Mỹ ở Viễn Đông phải trợ giúp cho Hàn Quốc mà không chờ tiếng nói của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vì tình hình Hàn Quốc lúc đó hết sức nguy nan. Cùng ngày hôm đó Hội đồng Bảo an cũng đưa ra khuyến nghị chung cho tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc giúp đỡ Nam Triều Tiên. Những quyết định này không bị sự phủ quyết của Liên Xô gây trở ngại do đại diện của Liên Xô không đến dự các cuộc họp của Hội đồng Bảo an để phản đối việc phương Tây không trao cho những người Cộng sản Trung Quốc quyền được đại diện cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp Quốc.
Sau nghị quyết thứ ba của Liên hợp quốc về việc thành lập một đội quân đa quốc gia ở Triều Tiên dưới sự chỉ huy của Mỹ thì việc hoạt động vũ trang của Mỹ ở Triều Tiên càng có cơ sở pháp lý. Do đó mà tình hình chiến sự khả quan hơn cho phía Hàn Quốc. Quân đội Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên bắt đầu rút lui.
Song lòng tham của quân đội Mỹ không chỉ dừng lại ở đó. Được đà chiến thắng, quân Mỹ ở Triều Tiên chiếm Bình Nhưỡng rồi tiến về phía biên giới của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên với Trung Quốc và Liên Xô nhằm sáp nhập miền Bắc vào miền Nam Bogaturov Aleksey Demofenovich, Avekov Viktor Viktorovich, Lịch sử quan hệ quốc tế, Đặng Quang Chung dịch, H: Chính trị quốc gia,2012, tr.154
.
Để ngăn chặn âm mưu này, ngày 25 tháng 10 năm 1950, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã chính thức tham chiến theo yêu cầu của Liên Xô và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên. Seoul nhanh chóng bị quân cộng sản tái chiếm. Lực lượng Liên hợp quốc mà nòng cốt là quân đội Mỹ đến đầu năm 1951 rơi vào tình thế cực kỳ khó khăn, có nguy cơ thất bại hoàn toàn. Tuy vậy nhưng chính quyền Mỹ vẫn bác bỏ đề nghị của tổng chỉ huy lực lượng vũ trang Mỹ ở Viễn Đông D.McArthur là mở rộng chiến dịch và tấn công vào Trung Quốc để đảm bảo sẽ không có cuộc chiến tranh lớn nào xảy ra do lo ngại việc Liên Xô cũng sẽ tham gia vào cuộc chiến trên cơ sở Hiệp ước hữu nghị liên minh tương trợ Xô – Trung. Song tướng D.MacArthur vẫn tuyên bố đe dọa sẽ dùng vũ khí nguyên tử nếu quân đội Trung Quốc không chấm dứt tiến công ở Triều Tiên.
Tình hình trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Ban lãnh đạo Soviet đã có những bước đi kiên quyết nhằm thuyết phục Trung Quốc dừng tiến công. Khi đó, lực lượng Liên hợp quốc đã phản công, chiến tuyến lại được ổn định ở vĩ tuyến 38. Song song với đó chính quyền của H.Truman tỏ ý muốn dùng biện pháp đàm phán trên cơ sở ngừng bắn và tìm giải pháp tối ưu hơn cho khu vực. Ngày 10/7/1951, với sự ủng hộ bất thành văn của Liên Xô, cuộc đàm phán đình chiến giữa Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Trung Quốc và lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc chính thức bắt đầu. Sau những tranh luận gay gắt qua nhiều năm, cuối cùng đình chiến ở Triều Tiên đã được thực hiện vào tháng 7 năm 1953.
Tuy cuộc chiến tranh chỉ kéo dài có ba năm nhưng tác động của nó đã làm tình hình chiến tranh Lạnh thêm căng thẳng, quan hệ quốc tế trở nên phức tạp hơn. Cụ thể là chiến tranh Triều Tiên tạo nên sự mâu thuẫn giữa một số quốc gia, đồng thời, nó cũng là nhân tố thúc đẩy sự hợp tác sau này. Tất cả sẽ được làm rõ trong phần tiếp theo của bài tiểu luận.
Tác động của chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) tới QHQT thời kì chiến tranh Lạnh
Tác động đến quan hệ Xô – Mỹ
Chiến tranh Triều Tiên đẩy mạnh quân sự hóa chiến tranh Lạnh Đông – Tây, khiến cho chiến tranh lạnh bước vào giai đoạn hết sức căng thẳng, ác liệt. Chưa bao giờ mối quan hệ giữa hai cường quốc lại xấu đến như vậy cho dù hai phe không trực tiếp đối đầu.
Ngay từ trước khi chiến tranh Triều Tiên xảy ra Mỹ đã luôn lo sợ về sự bành trướng của Liên Xô. Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử. Cùng năm đó Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát toàn bộ Trung Quốc đại lục. Chính phủ Washington đã rất lo lắng về điều này và cho rằng trong vài năm tới Liên Xô sẽ tấn công để thực hiện kế hoạch thống trị toàn cầu. Tới khi nội chiến ở Triều Tiên nổ ra, tổng thống Truman đã gia tăng ngân sách Quốc phòng như theo kế hoạch NSC-68 đề ra trước đó. Chính phủ Mỹ cho rằng hành động quân sự của Bắc Triều Tiên là do Liên Xô thao túng, vì thế mà nhanh chóng can thiệp, coi đó là bước ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô. Chính phủ Mỹ chắc chắn đã khuếch trương “yếu tố Liên Xô” dẫn đến sự bùng nổ chiến tranh Triều Tiên Trương Tiểu Minh, Chiến tranh lạnh và di sản của nó, Nxb chính trị Quốc gia, 2002, tr.118.
. Mặt khác, chiến tranh Triều Tiên lại chính là một lý do chính đáng cho sự có mặt của Mỹ ở Đông Bắc Á để thực hiện nhiệm vụ chống cộng như tổng thống Truman tuyên bố: “Sự phòng thủ của Hoa Kỳ phải vươn tới Triều Tiên, Đài Loan và Đông Dương” Trần Trọng Trung (1986), Một cuộc chiến tranh sáu đời Tổng thống, tập 1, Nxb Văn Nghệ TPHồ Chí Minh., tr. 11.
. Tuy nhiên, trong suốt ba năm, hai nước không khi nào trực tiếp bước vào trận chiến mà có thái độ tích cực tìm kiếm con đường hòa bình để giải quyết vấn đề. Đó là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến đình chiến ở Triều Tiên. Đặc điểm của hai siêu cường xử lý xung đột Đông – Tây trong chiến tranh Lạnh một lần nữa được thể hiện rõ trong chiến tranh Triều Tiên.
Nói tóm lại, chiến tranh Triều Tiên là đỉnh cao của sự đối đầu Đông – Tây ở Đông Á.
Tác động đến quan hệ Xô – Trung
Chiến tranh Triều Tiên là một phép thử đối với quan hệ Trung – Xô, làm cho quan hệ Xô – Trung vốn tiềm tàng những bất ổn, chuyển hẳn sang trạng thái căng thẳng, mâu thuẫn, xấu đi nhanh chóng vào cuối thập kỷ 50.
Từ lúc nội chiến tại Triều Tiên có nguy cơ nổ ra, thực sự Trung Quốc không muốn dính líu vào vì Đảng Cộng sản Trung Quốc mới lên nắm quyền, còn trăm việc bề bộn. Nhưng là một thành viên nước xã hội chủ nghĩa và là láng giềng thân thiết với Triều Tiên nên Trung Quốc ủng hộ tối đa sự nghiệp thống nhất đất nước của nước bạn. Sự hi sinh to lớn đó của Trung Quốc còn là để bảo vệ lợi ích phe xã hội chủ nghĩa. Cùng chiến đấu với nhau trên mặt trận thống nhất Triều Tiên của phía Bắc Triều, cùng trải qua bao khó khăn, thử thách, cùng ký hiệp ước hữu nghị, tương trợ, quan hệ Xô – Trung tưởng chừng thắm thiết hơn bao giờ hết.
Song, chiến tranh Triều Tiên cũng bộc lộ kẽ nứt tiềm ẩn trong quan hệ đồng minh Xô – Trung.Khi chiến đấu ở Triều Tiên, Mao Trạch Đông yêu cầu Liên Xô viện trợ thêm hàng hóa, bảo vệ biên giới, các khu công nghiệp và quân đội Trung Quốc từ trên không. Nhà lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc này cân nhắc để tham gia cuộc chiến tranh với những điều kiện có lợi nhất, đặc biệt là tranh thủ vũ khí hiện đại từ Liên Xô, xây dừng nền quốc phòng vốn nhiều lỗ hổng. Nhưng tại thời điểm Trung Quốc cần hơn bao giờ hết thì Liên Xô từ chối yểm trợ không quân đã giáng một đòn chí tử vào liên minh Trung – Xô. Thực chất vì mục tiêu trong chính sách đối ngoại của Liên Xô là tránh xung đột trực tiếp với Mỹ. Mặc dù Trung Quốc tham chiến cũng có những tính toán riêng, nhưng sự cư xử của Liên Xô làm Trung Quốc ngờ vực mình bị biến thành “tấm lá chắn an ninh” ở khu vực Đông Á. Tuy cùng chống kẻ thù chung song phần lớn chi phí chiến tranh là của Trung Quốc, Liên Xô cung cấp ít và không kịp thời. Do quá tập trung trên mặt trận Triều Tiên mà cơ hội sáp nhập Đài Loan vào đại lục của Trung Quốc cũng bị nhỏ đi.
Nhìn chung, những mầm mống cho sự rạn nứt quan hệ Xô –Trung đã được nảy mầm từ những ngày đầu chiến tranh Triều Tiên. Song sự hợp tác Xô – Trung – Triều đã khiến phe tư bản chủ nghĩa không thể thắng lợi trong chiến tranh Triều Tiên. Điều đó là một sự cổ vũ lớn cho phong trào cách mạng châu Á.
3. Tác động đến quan hệ Trung – Mỹ
Trong mối quan hệ Trung – Mỹ, chiến tranh Triều Tiên đã mở ra thời kỳ xung đột, đối đầu giữa hai nước về rất nhiều vấn đề, mà tiêu biểu là vấn đề Đài Loan. Sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc, trong nhận thức của người Mỹ, Trung Quốc đã trở thành một đối thủ nguy hiểm đối với Mỹ - thậm chí nguy hiểm hơn cả Liên Xô - ở Châu Á Peter Calvocoressi (2007), Chính trị thế giới sau năm 1945, Nxb Lao động, Hà Nội.
.
Từ năm 1949 thành lập Trung Quốc mới cho đến cuối thập kỷ 1950, đặc điểm cơ bản của ngoại giao Trung Quốc là “liên Xô, chống Mỹ”. Nên quan hệ của Trung Quốc với phe đế quốc chủ nghĩa phương Tây do Mỹ cầm đầu là rất căng thẳng. Từ bao lâu này, Mỹ giúp đỡ chính quyền Tưởng Giới Thạch là Quốc dân Đảng nội chiến với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chính quyền Mỹ luôn phủ nhận điều kiện pháp lý của Trung Quốc mới, ngăn cản Trung Quốc mới thay thế quyền đại diện của Quốc dân Đảng tại Liên hợp quốc và các tổ chức Quốc tế khác. Vì vậy, suy tính từ lợi ích quốc gia thì Mỹ là mỗi nguy hại rất lớn của Trung Quốc mới.
Ngay sau khi chiến tranh Triều Tiên chính thức bùng nổ thì Mỹ đưa quân đến can dự và hạ lệnh cho hạm đội 7 tiến vào Đài Loan, ngăn cản sự tấn công vào đây. Hành động đó nhằm ngăn cản mục đích chống lại cuộc tấn công của Mao Trạch Đông ra Đài Loan và ngăn cản Tưởng Giới Thạch phát động một cuộc chiến tranh xâm lược lớn vào Trung Quốc lục địa. Có thể nói quan điểm của Mỹ đối với vấn đề Đài Loan đã thay đổi, đặc biệt khi quân chí nguyện của Trung Quốc vượt sông Áp Lục viện trợ cho quân đội Bắc Triều Tiên. Chính quyền Truman đã luôn cố gắng tránh một cuộc xung đột lan rộng ra toàn châu Á. Tuy nhiên, việc Hạm đội 7 của Mỹ đóng quân ở Đài Loan đã vi phạm nghiệm trọng đến chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Do vậy, Stalin đã khôn khéo sử dụng vấn đề này để làm đòn chiến lược để thúc đẩy Trung Quốc tham gia chiến tranh Triều Tiên dẫn đến việc Trung Quốc trực tiếp đối đầu với Mỹ.
Nhìn chung, Trung Quốc và Mỹ đều có mối quan tâm chung đến Bán đảo Triều Tiên. Triều Tiên có tính chất quyết định đến an nguy khu vực biên giới phía Đông Bắc của Trung Quốc và ảnh hưởng rất lớn đến Nhật Bản và Philippines thuộc phạm vị ảnh hưởng của Mỹ. Chiến tranh Triều Tiên là mở đầu cho quy mô chiến tranh Lạnh lan từ châu Âu đến châu Á, là mốc mở đầu cho cuộc chiến tranh lạnh mới giữa Mỹ và Trung Quốc. Chiến tranh Triều Tiên kết thúc buộc hai nước này phải thay đổi chính sách với nhau, đẩy hai cường quốc này vào cuộc đối đầu trực tiếp lẫn gián tiếp. Mỹ bắt đầu coi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một đối tượng riệng biệt so với Liên Xô ở Châu Á, cần tăng cường cô lập chính trị, bao vây quân sự,... Tháng 12 năm 1954, Mỹ và Đài Loan ký “Hiệp ước phòng ngự chung” đặt Đài Loan vào chế độ bảo hộ của Mỹ. Mỹ đã sử dụng vị trí quan trọng của Đài Loan làm con bài để kiềm chế Trung Quốc, từ đó dùng Trung Quốc kiềm chế Liên Xô Ninh Xuân Thao, Tác động của chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) đến vấn đề Đài Loan trong quan hệ Mỹ - Trung, tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5(135) 5-2012.
. Tình hình chiến sự qua hai lần khủng hoảng Đài Loan năm 1954 và 1958 đã chứng minh rằng hai bên luôn căng thẳng nhưng đều cố tránh những cuộc đối đầu trực tiếp trên chiến trường. Ngoài ra, Mỹ và Trung Quốc còn tiếp tục đối đầu tại Liên hợp quốc khi Mỹ cương quyết phản đối việc Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trở thành thành viên thường trực Hội đồng bảo an. Nói chung, quan hệ hai nước thời điểm chiến tranh Triều Tiên là vô cùng xấu, sự thù địch giữa hai nước ngày càng sâu thêm.
Cuộc chiến tranh Triều Tiên đã đánh một dấu mốc rất quan trọng trong quan hệ Mỹ - Trung trên nhiều lĩnh vực. Nó đẩy mối quan hệ hai nước này sang trạng thái đối đầu suốt hơn 20 năm và Đài Loan là minh chứng rõ ràng nhất. Tuy nhiên hai quốc gia luôn hiểu rõ đâu là giới hạn để tránh cuộc đụng độ hạt nhân. Đồng thời, Chiến tranh Triều Tiên mà sau này là hai cuộc khủng hoảng Eo biển Đài Loan không những thúc đẩy sử đối đầu Trung – Mỹ mà còn là nguyên nhân dẫn đến rạn nứt trong quan hệ Xô – Trung sau này. Vì vậy chiến tranh Triều Tiên cũng đánh dấu cột mốc quan trọng trong quá trình hình thành quan hệ tam giác Mỹ - Xô – Trung trong quan hệ quốc tế thời hiện đại.
Tác động đến tình hình Đông Dương
Chiến tranh Triều Tiên nổ ra làm Mỹ lo ngại tầm ảnh hưởng của Xô – Trung sẽ lan xuống Đông Dương nên giúp đỡ Pháp can thiệp vào chiến tranh Đông Dương nhằm khống chế ba nước trên bán đảo này không nổi lên bất cứ cuộc chiến nào như Triều Tiên. Tuy vậy, do tính chất phức tạp của Chiến tranh Triều Tiên nên Mỹ không thể nào quan tâm được hết tình hình ở Đông Dương dẫn đến việc năm 1954 phải ngồi vào bàn đàm phán hiệp định Geneve chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại bán đảo Đông Dương.
Có thể nói rằng sự bùng nổ chiến tranh Triều Tiên là sự cổ vũ to lớn cho phong trào cách mạng tại châu Á mà cụ thể là ở Đông Dương. Sức mạnh của chủ nghĩa Cộng sản lan rộng hơn bao giờ hết. Quan hệ ngoại giao giữa các nước xã hội chủ nghĩa rất tốt đẹp.
Chiến tranh Triều Tiên dẫu chỉ kéo dài trong 37 tháng nhưng sự tác động của nó tới quan hệ quốc tế là không hề nhỏ. Nó thể hiện mưu đồ, tính toán và tham vọng của các cường quốc tại khu vực Đông Á. Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ đánh dấu sự xuất hiện của những cuộc chiến tranh nóng trong quỹ đạo chiến tranh Lạnh giữa hai cực Xô-Mỹ, hai khối Đông – Tây. Bên cạnh đó, sự kiện này có ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ tam giác Trung Quốc – Xô – Mỹ và cả những nước theo phe xã hội chủ nghĩa. Chiến tranh Triều Tiên là tiền đề, là nguyên nhân, là móc nối quan trọng cho các sự kiện xảy ra sau này, phản ánh sâu sắc lợi ích và ý chí của các quốc gia liên quan.
KẾT LUẬN
Bán đảo Triều Tiên luôn là địa bàn trọng yếu gây sự chú ý với các nước bên ngoài. Nơi đây luôn đan xen lợi ích khác nhau của nhiều cường quốc. Cũng vì vậy mà tình hình trên bán đảo này luôn gắn liền với sự thay đổi trong chính sách của các nước lớn hoặc thay đổi trong quan hệ giữa các nước lớn với nhau. Tuy chiến tranh Lạnh đã kết thúc, trật tự thế giới có nhiều thay đổi, song không phải vì thế mà vị trí và vai trò chiến lược của bán đảo Triều Tiên trong bàn cờ chiến lực của các nước lớn lại giảm sút. Ngày nay tình hình căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên là vấn đề nhức nhối đối với toàn thế giới, là quá trình mặc cả giữa các nước lớn. Bởi vậy mà việc giải quyết tận gốc vấn đề Bán đảo Triều Tiên không chỉ được quyết định bởi sự thay đổi chính sách của hai miền Nam – Bắc mà ảnh hưởng của các nước lớn cũng chiếm vai trò vô cùng quan trọng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bogaturov Aleksey Demofenovich, Avekov Viktor Viktorovich, Lịch sử quan hệ quốc tế, Đặng Quang Chung dịch, H: Chính trị quốc gia,2012.
Trương Tiểu Minh, Chiến tranh lạnh và di sản của nó,Hoàng Hương-Tú Linh dịch, Nxb chính trị Quốc gia, 2002.
Ninh Xuân Thao, Tác động của chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) đến vấn đề Đài Loan trong quan hệ Mỹ - Trung, tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5(135) 5-2012.
Nguyễn Th