Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị
trường ,do đó ,việc hình thành các công ty cổ phần (CTCP ) và vấn đề cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước (DNNN ) là tất yếu đối với quá trình phát triển mạnh của nền kinh tế thị
trường . Hình thức CTCP đã xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII ,
mà trước tiên là ở nước Anh sau đó là nước Pháp . Trải qua quá trình phát triển của nền kinh
tế, nhất là trong giai đoạn mà cuộc Cách mạng công nghiệp diễn ra thì CTCP phát triển rất
mạnh mẽ. Đến những năm đầu thế kỷ XX thì CTCP đã trở thành hình thức kinh doanh rất
phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh. Với Việt Nam chúng ta, từ
khi đất nước được thống nhất, do phải giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh . Mặt khác
do cơ chế kinh tế và xuất phát điểm của chúng ta thấp. Chính vì vậy, mà việc khôi phục nền
kinh tế tuy đã đạt được nhiều thành công, song cũng còn nhiều hạn chế. Do đó mà đại hội
Đảng lần thứ VI (12/ 1986) đã đánh dấu sự đổi mới của nền kinh tế Việt nam. Đó là quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, Nó không
chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc nền kinh tế nước ta về cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế
và quan hệ sở hữu mà còn làm xuất hiện hình thức tổ chức kinh tế mới đó là CTCP. Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và Hiến pháp 1992 đều khẳng định: Nền kinh tế
nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều
thành phần đó, kinh tế quốc doanh được xác định giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế
khác hoạt động theo luật và bình đẳng trước pháp luật
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đối với nước ta là tương đối mới. Trước đây chưa
có Luật doanh nghiệp thì nó hoạt động theo Luật công ty. Khi Luật doanh nghiệp ra đời
(tháng 12 năm 1999) thì công ty cổ phần được xác định đầy đủ và rõ ràng hơn, là một trong 4
loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật doanh nghiệp. Cũng chính từ đó mà công
ty cổ phần phát triển mạnh hơn và ngày càng phát huy được những ưu thế của nó trong nền
kinh tế. So với các loại hình doanh nghiệp khác thì công ty cổ phần rất có ưu thế trong việc
huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng. Mặt khác với việc hình thành thị trường
chứng khoán ở nước ta thì công ty cổ phần là điều kiện quan trọng và tiên quyết cho sự hoạt
động của thị trường này, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Sau đây chúng ta sẽ phân tích tình hình hoạt động và vai trò của công ty cổ phần và thị
trường chứng khoán trong nền kinh tế Việt nam hiện nay
38 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1830 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích tình hình hoạt động và vai trò của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán trong nền kinh tế Việt nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tiểu luận GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn
Lớp VB15KT002-Đề tài 31 Page 1
Tiểu luận
Phân tích tình hình hoạt động và vai trò
của công ty cổ phần và thị trường chứng
khoán trong nền kinh tế Việt nam hiện nay.
Bài tiểu luận GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn
Lớp VB15KT002-Đề tài 31 Page 2
Mục lục
Giới thiệu vấn đề
Chương I. Công ty cổ phần
I. Khái niệm và những vấn đề chung của công ty cổ phần
II. Nguyên tắc hoạt động của công ty cổ phần
III. Các tiêu chí và chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần
IV. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc dân
V. Những thành tựu và hạn chế của công ty cổ phần trong nền kinh tế Việt Nam hiện
nay
Chương II. Thị trường chứng khoán
I. Lịch sử hình thành thị trường chứng khoán
II. Khái niệm thị trường chứng khoán và những thuật ngữ cơ bản có lien quan
III. Điều kiện để các chứng khoán được niêm yết
IV. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
V. Nhận định tình hình thị trường chứng khoán hiện nay và hướng đi nào cho trương lai
Chương III. Tổng kết
Tài liệu tham khảo
Bài tiểu luận GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn
Lớp VB15KT002-Đề tài 31 Page 3
Giới thiệu vấn đề.
Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị
trường ,do đó ,việc hình thành các công ty cổ phần (CTCP ) và vấn đề cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước (DNNN ) là tất yếu đối với quá trình phát triển mạnh của nền kinh tế thị
trường . Hình thức CTCP đã xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII ,
mà trước tiên là ở nước Anh sau đó là nước Pháp . Trải qua quá trình phát triển của nền kinh
tế, nhất là trong giai đoạn mà cuộc Cách mạng công nghiệp diễn ra thì CTCP phát triển rất
mạnh mẽ. Đến những năm đầu thế kỷ XX thì CTCP đã trở thành hình thức kinh doanh rất
phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh. Với Việt Nam chúng ta, từ
khi đất nước được thống nhất, do phải giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh . Mặt khác
do cơ chế kinh tế và xuất phát điểm của chúng ta thấp. Chính vì vậy, mà việc khôi phục nền
kinh tế tuy đã đạt được nhiều thành công, song cũng còn nhiều hạn chế. Do đó mà đại hội
Đảng lần thứ VI (12/ 1986) đã đánh dấu sự đổi mới của nền kinh tế Việt nam. Đó là quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, Nó không
chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc nền kinh tế nước ta về cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế
và quan hệ sở hữu mà còn làm xuất hiện hình thức tổ chức kinh tế mới đó là CTCP. Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và Hiến pháp 1992 đều khẳng định: Nền kinh tế
nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều
thành phần đó, kinh tế quốc doanh được xác định giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế
khác hoạt động theo luật và bình đẳng trước pháp luật
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đối với nước ta là tương đối mới. Trước đây chưa
có Luật doanh nghiệp thì nó hoạt động theo Luật công ty. Khi Luật doanh nghiệp ra đời
(tháng 12 năm 1999) thì công ty cổ phần được xác định đầy đủ và rõ ràng hơn, là một trong 4
loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật doanh nghiệp. Cũng chính từ đó mà công
ty cổ phần phát triển mạnh hơn và ngày càng phát huy được những ưu thế của nó trong nền
kinh tế. So với các loại hình doanh nghiệp khác thì công ty cổ phần rất có ưu thế trong việc
huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng. Mặt khác với việc hình thành thị trường
chứng khoán ở nước ta thì công ty cổ phần là điều kiện quan trọng và tiên quyết cho sự hoạt
động của thị trường này, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Sau đây chúng ta sẽ phân tích tình hình hoạt động và vai trò của công ty cổ phần và thị
trường chứng khoán trong nền kinh tế Việt nam hiện nay.
Bài tiểu luận GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn
Lớp VB15KT002-Đề tài 31 Page 4
Chương I. CÔNG TY CỔ PHẦN
I. KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Khái niệm công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là hình thức phát triển của sở hữu hỗn hợp, từ hình thức vốn của một chủ
sang hình thức vốn của nhiều chủ diễn ra trên phạm vi công ty. Nó là sản phẩm tất yếu của
quá trình xã hội hoá về mặt k inh tế xã hội (mặt sở hữu) và cũng là sản phẩm tất yếu của quá
trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất của nền sản xuất lớn hiện đại. C.Mác vàF.Ănggen đã
xem hình thức sở hữu vốn cổ phần là “điểm quá độ”từ tư hữu tư sản sang sở hữu xã hội về
tài sản trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản.
2. Lịch sử hình thành công ty cổ phần.
Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ 16 ở các nước tư bản phát triển như một nhu cầu khách
quan của lịch sử. Trong suốt mấy trăm năm qua các công ty cổ phần đã chiếm một vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Quá trình lịch sử hình thành và phát triển
của hình thức công ty cổ phần trên thế giới gồm các giai đoạn sau:
2.1 Giai đoạn mầm mống.
Trong những năm đầu của phuơng thức sản xuất TBCN các nhà tư bản lập ra các xí nghiệp
TBCN riêng lẻ, hoạt động độc lập thuê mướn công nhân và bóc lột lao động làm thuê. Dần
dần cùng với sự phát triển của sức sản xuất và chế độ tín dụng họ đã liên kết với nhau, dựa
trên quan hệ nhân thân (gia đình) và chữ tín góp vốn kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi. Từ
doanh nghiệp nhóm bạn dần dần phát triển thành doanh nghiệp góp vốn. Năm 1553 công ty
cổ phần đầu tiên ở Anh thành lập với số vôn 6000 bảng Anh phát hành 240 cổ phiếu, mỗi cổ
phiếu là 25 bảng Anh để tổ chức đội buôn gồm 3 chiếc thuyền lớn tìm đường sang Ấn Độ
theo hướng Đông Bắc.
Năm 1801 tại Luân Đôn sở giao dịch chứng khoán chính thức ra đời tạo ra thị trường chứng
khoán. Thị truờng chứng khoán liên quan tới doanh nghiệp cổ phần bao gồm cả cổ phần tư
nhân và doanh nghiệp cổ phần do Nhà nước đứng ra thành lập. Theo Các Mác "Trong bước
đầu của nền sản xuất TBCN một số ngành sản xuất đòi hỏi một số tư bản tối thiểu mà lúc đó
từng cá nhân riêng lẻ chưa thực hiện được. Tình hình đó dẫn đến Nhà nước phải trợ cấp...
Mặt khác điều đó cũng dẫn đến việc thành lập những nơi nắm giữ độc quyền do pháp luật
thừa nhận để kinh doanh trong những ngành công nghiệp và thương nghiệp nhất định". Như
vậy trong giai đoạn này công ty cổ phần có hai loại:
+ Doanh nghiệp góp vốn hoặc doanh nghiệp nhóm bạn
Bài tiểu luận GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn
Lớp VB15KT002-Đề tài 31 Page 5
+ Doanh nghiệp do Nhà nước lập bằng hình thức phát hành trái khoán (Ở Mỹ gọi là cổ
phần công cộng) hoặc doanh nghiệp Nhà nước góp vốn.
2.2 Giai đoạn hình thành
Trong nửa đầu thé kỷ XIX các công ty cổ phần chính thức lần lượt ra đời với hình thức tổ
chức và hình thức phân phối riêng của chúng. Những quy định cơ bản về công ty cổ phần đã
ra đời (ở Pháp vào những năm 1806). Công ty cổ phần được thành lập rộng khắp trong các
ngành nghề không chỉ trong thương nghiệp mà trong giai đoạn trước ở các ngành chế tạo,
các lĩnh vực giao thông vận tải đường sông, đưòng sắt.
Cổ phiếu phát hành có thể bán trao tay, loại giao dịch chứng khoán này có lúc vượt ra ngoài
biên giới quốc gia thu lợi nhuận theo hình thức lợi tức định kỳ. Một số doanh nghiệp lớn của
tư bản tư nhân bắt đầu phát hành cổ phần, tách người đại biểu quyền sở hữu (hội đồng quản
trị) và người kinh doanh (giám đốc) ra làm hai. Các sở giao dịch chứng khoán cũng hình
thành phổ biến ở các nước Phương Tây tuy nhiên trước những năm 70 của thế kỷ XIX công
ty cổ phần còn ít và hình thức chưa đa dạng, quy mô còn nhỏ.
2.3 Giai đoạn phát triển
Sau những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần phát triển rất nhanh phổ biến ở tất cả các
nước tư bản, các ngành có quy mô sản xuất mở rộng, tập trung tư bản diễn ra với tốc độ chưa
từng có, ra đời các tổ chức độc quyền như Các ten – Xanh đê ca – Cơ vốt. Các công ty nắm
giữ cổ phần khống chế ra đời tạo thành kết cấu chuỗi. Công ty mẹ -công ty con – công ty
cháu hình thành một tập đoàn doanh nghiệp xuyên quốc gia.
Đến năm 1930 số công ty cổ phần của Anh là 86000, 90% tư bản chịu sự khống chế của
công ty cổ phần. Ở Mỹ 1909 có tổng số 262000 công ty cổ phần. Đến năm 1939 số công ty
cổ phần ở Mỹ chiếm 51,7% trong tổng số các xí nghiệp nông nghiệp và 92,6% giá trị tổng
sản lượng công nghiệp.
2.4 Giai đoạn trưởng thành
Sau chiến tranh thế giớ thứ hai công ty cổ phần có những đặc điểm mới:
- Dùng hình thức cổ phần để lập ra các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia để liên hợp
kinh tế và quốc tế hoá cổ phần hình thành các tập đoàn doanh nghiệp quốc tế
- Thu hút công nhân viên chức mua cổ phần thực hiện " chủ nghĩa tư bản nhân dân" để làm
dịu mâu thuẫn giữa lao động và tư bản đồng thời thu hút vốn một cách thuận lợi
- Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần tại các nước ngày càng hoàn thiện, pháp luật ngày
càng kiện toàn và mỗi nước đều có những đặc điểm riêng.
3. Điều kiện để hình thành công ty cổ phần.
3.1. Tồn tại sở hữu khác nhau về vốn
Công ty cổ phần là công ty có nhiều người đứng sở hữu. Nếu công ty chỉ thuộc một chủ sở
hữu thì dù chủ sở hữu đó là một cá nhân hay một tổ chức thì đó không phải là công ty cổ
Bài tiểu luận GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn
Lớp VB15KT002-Đề tài 31 Page 6
phần mà thuộc một loại hình công ty khác có thể là công ty tư nhân, công ty TNHH một
thành viên hay Công ty liên doanh ( nếu chủ sở hữu là Nhà nước).
3.2. Những người có vốn muốn tham gia đầu tư để kinh doanh thu lợi nhuận
Đây là hình thức đầu tư mạo hiểm nhất so với các hình thức đầu tư khác như mua công trái,
trái phiếu, gửi ngân hàng... Trong kinh doanh có khả năng bị phá sản nhưng bù lại là hình
thức đầu tư có hứa hẹn nhất và không bị lạm phát với món tiền lớn.
3.3. Lợi nhuận thu được phải có đủ sức hấp dẫn người có vốn tham gia kinh doanh
Nếu lợi nhuận trong kinh doanh mang lại lớn hơn lợi tức ngân hàng hoặc lợi tức do đầu tư
vào các lĩnh vực khác và lớn hơn đủ mức cần thiết thì người có vốn mới sẵn sàng góp vốn
vào công ty cổ phần để tham gia kinh doanh.
3.4. Phải có sự nhất trí thành lập công ty
Những người có vốn muốn tham gia kinh doanh phải thoả thuận được với nhau để cùng góp
vốn và đứng ra thành lập công ty cổ phần trên cơ sở những quy định của pháp luật. Nếu
không thoả thuận được thì công ty cổ phần không thể thành lập được.
II. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Khái niệm về cổ phần cổ phiếu và cổ đông.
Vốn của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là các cổ phần. Chứng
chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một
số cổ phần của công ty gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Giá trị
của mỗi cổ phiếu gọi là mệnh giá cổ phiếu. Cổ phiếu bảo đảm cho người chủ sở hữu có
quyền lĩnh một phần thu nhập của công ty tương ứng với số tiền ghi trên cổ phiếu.
Một công ty chỉ được phép phát hành một số lượng cổ phiếu nhất định. Cổ phiếu thường và
cổ phiếu ưu đãi do công ty phát hành hình thành nên vốn cổ phần của công ty. Cổ phiếu
chứng minh tư cách thành viên của những người góp vốn vào công ty cổ phần, những thành
viên này gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phiếu. Quyền và trách
nhiệm, lợi ích của mỗi cổ đông phụ thuộc vào số lượng cổ phiếu của họ trong công ty. Cổ
đông nắm được số lượng cổ phiếu khống chế thì có thể nắm được quyền chi phối mọi hoạt
động cuả công ty.Theo điều 51 và 53 của Luật doanh nghiệp Việt Nam thì :
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần cho người khác trừ cổ đông sở hữu cổ
phần ưu đãi. Và trong ba năm đầu từ khi thành lập công ty cổ đông sáng lập chỉ được chuyển
nhượng cổ phần nếu được sự đồng ý của Đại hội Đồng cổ đông
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế số
lượng tối đa
- Cổ đông có hai loại là cổ đông ưu đãi và cổ đông phổ thông. Cổ đông phổ thông có các
quyền cơ bản như : tham dự và biểu quyết tất cả các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội
đồng cổ đông ( mỗi cổ phần có một phiếu biểu quyết), được nhân cổ tức với mức theo quy
Bài tiểu luận GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn
Lớp VB15KT002-Đề tài 31 Page 7
định của Đại hội đồng cổ đông... Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phần
phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất là 6 tháng hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định của
điều lệ công ty có quyền đề cử người vào Hội đồng Quản trị và Ban kiểm soát, yêu cầu triệu
tập họp Đại hội đồng cổ đông .
2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần.
Do đặc điểm nhiều chủ sở hữu trong công ty cổ phần nên các cổ đông không thể trực tiếp
thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình mà phải thông qua tổ chức đại diện làm nhiệm vụ trực
tiếp quản lý công ty bao gồm: Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành và
Ban kiểm soát.
- Đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, là Đại hội của những cổ
đông sở hữu đối với công ty cổ phần. Đại hội cổ đông có 3 hình thức là: Đại hội hội đồng cổ
đông thành lập, Đại hội đồng cổ đông bất thường và Đại hội hội đồng cổ đông.
- Hội đồng quản trị là bộ máy quản lý của công ty cổ phần bao gồm những thành viên
có trình độ chuyên môn cao và quản lý giỏi để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ do Đại hội hội
đồng cổ đông giao phó. Số thành viên do Đại hội cổ đông quyết định và được ghi vào điều lệ
của công ty. Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề
liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội
đồng cổ đông. Hội đồng Quản trị tự bầu chủ tịch Hội đồng và chủ tịch Hội đồng Quản trị có
thể kiêm Tổng giám đốc công ty nếu điều lệ công ty không có qui định khác.
- Giám đốc điều hành là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu
trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được giao.
Về thực chất giám đốc điều hành là người làm thuê cho chủ tịch Hội đồng Quản trị. Giám
đốc không làm việc theo nhiệm kỳ mà theo thời hạn hợp đồng ký kết với chủ tịch Hội đồng
Quản trị.
- Ban kiểm soát có vai trò giám sát các hoạt động của công ty. Số lượng uỷ viên kiểm
soát theo qui định trong điều lệ của công ty. Những người này không phải là thành viên của
Hội đồng Quản trị và giám đốc.
Phân chia lợi nhuận trong công ty cổ phần: Trong công ty cổ phần quan hệ phân phối được
thực hiện theo nguyên tắc vốn góp của các cổ đông và phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty.
Lợi nhuận của công ty sau khi dùng cho các khoản chung cần thiết, phần còn lại được chia
đều cho các cổ đông tỷ lệ với phần vốn góp của họ và gọi là cổ tức.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần sữa việt nam.
Bài tiểu luận GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn
Lớp VB15KT002-Đề tài 31 Page 8
III. Các tiêu chí và chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty cổ
phần.
Bảng báo cáo hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần sữa việt nam.
Bài tiểu luận GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn
Lớp VB15KT002-Đề tài 31 Page 9
Nhận xét các số liệu chỉ số tài chính.
1. Chỉ số lợi nhuận trên tài sản (ROA).
Tỷ số lợi nhuận trên tổng tài sản( ROA): tỷ số này dung để đo lường khả năng sinh lời
trên tổng tài sản của doanh nghiệp. Nếu tỷ số này lớn hơn 0 có nghĩa là doanh nghiệp làm
ăn có lãi. Tỷ số càng cao cho thấy doanh nghiệp càng làm ăn có hiệu quả. Tỷ số này còn cho
biết hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản để tại ra thu nhập cho doanh nghiệp.
Công thức:
Tỷ số lợi nhuận ròng trên tổng tài sản(ROA) = ( lợi nhuận sau thuế / bình quân tổng tài sản)
x 100%.
Bài tiểu luận GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn
Lớp VB15KT002-Đề tài 31 Page 10
Từ công thức trên ta có thể tính được và so sánh chỉ số ROA trong bảng 3 ta thấy được:
Ta thấy tỷ số ROA của 3 năm tương ứng như sau. Năm 2011 ROA= 32.01% điều này có
nghĩa là một đồng tài sản tham gia sản xuất kinh doanh thì sẽ tạo ra được 32.01 đồng lợi
nhuận. Năm 2010 ROA= 37.55% điều này có nghĩa là một đồng tài sản tham gia sản xuất
kinh doanh thì tạo ra được 37.55 đ lợi nhuận. Năm 2009 ROA= 32.89% điều này có nghĩa là
một đồng tài sản tham gia sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra được 32.89 đồng lợi nhuận. Ta thấy
hiệu quả sử dụng tài sản trong sản xuất kinh doanh của công ty khá cao điều đó cho thấy
công ty đã sử dụng tài sản một cách hiệu quả nhất để phục vụ sản xuất.
2. Tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE).
Tỷ số này đo lường khả năng sinh lời trên một động vốn bỏ ra. Tỷ số này cho biết cứ 100
đồng vốn bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nếu tỷ số này mang giá trị dương có
nghĩa là doanh nghiệp làm ăn có lãi.
Công thức:
Tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu = ( lợi nhuận sau thuế / bình quân tổng nguồn vốn)
x 100%
Từ công thức trên ta có thể tính được và so sánh chỉ số ROE trong bảng 3 ta thấy được:
Ta thấy tỷ số của ROE của 3 năm tương ứng như sau. Năm 2011 ROE= 41.27% điều này có
nghĩa là một đồng vốn bỏ ra sẽ thu được 41.27 đồng lợi nhuận. Năm 2010 ROE= 50.15%
điều này có nghĩa là một đồng vốn bỏ ra thu được 3.58 đồng lợi nhuận. Năm 2009 ROE=
42.73% điều này có nghĩa là một đồng vốn bỏ ra sẽ thu được 42.73 đồng lợi nhuận. Ta thấy
hiệu quả sử dụng vốn của công ty rất cao khi tạo ra được lợi nhuận từ nguồn vốn ban đầu, vì
vậy ngành sữa là một ngành đầy tiềm năng và mang lai lợi nhuận cao trong thời gian tới.
IV. VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN.
Với những đặc điểm rất riêng của mình công ty cổ phần có vai trò quan trong đối với việc
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, cụ thể là:
- Công ty cổ phần có khả năng tập trung vốn nhanh chóng với quy mô lớn để thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh khổng lồ mà không nhà tư bản riêng biệt nào có thể tự mình
làm nổi. C.Mác đã đánh giá vai trò này của công ty cổ phần như sau: "Nếu như cứ phải chờ
Bài tiểu luận GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn
Lớp VB15KT002-Đề tài 31 Page 11
cho đến khi tích luỹ làm cho một nhà tư bản riêng lẻ lớn lên đến mức có thể đảm đương việc
xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày nay thế giới vẫn không có đường sắt. Ngược lại qua
công ty cổ phần sự tập trung đã thực hiện được việc đó chỉ trong nháy mắt"
- Công ty cổ phần góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn bởi vì : Thứ nhất, do
hình thức tự cấp phát tài chính bằng huy động vốn đã đề cao trách nhiệm của doanh nghiệp
nâng cao sự quan tâm đến sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Mặt khác do sức ép của cổ đông do
việc đòi chia lãi cổ phần và muốn duy trì giá cổ phiếu cao trên thị trường chứng khoán khiến
doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiêụ quả sử dụng đồng vốn. Thứ hai, là do lợi nhuận
của các công ty cổ phần là khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau thúc đẩy nên có thể dẫn
dắt tiền vốn nhàn rỗi từ nhiều kênh khác nhau trong xã hội vào các ngành, các lĩnh vực có
năng suất lao động và tỷ suất lợi nhuận cao làm cho vốn được phân bổ và sử dụng có hiệu
quả trong nền kinh tế.
- Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù đã hạn chế được những tác động
tiêu cực về kinh tế xã hội khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng. Chế độ đã
hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại của rủi ro thua lỗ. Vốn tự có của công ty huy
động thông qua việc phát hành cổ phiếu là vốn của nhiều cổ đông do đó san sẻ rủi ro cho
nhiều cổ đông. Nhờ vậy khi công ty cổ phần phá sản hậu quả về mặt kinh tế xã hội được hạn
chế ở mức thấp nhất. Cách thức huy động vốn của công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho các
nhà đầu tư tài chính có thể mua cổ phiếu, trái phiếu ở các công ty ở nhiều ngành khác nhau
nên giảm bớt được tổn thất khi công ty bị phá sản so với việc đầu tư vào một công ty. Cơ chế
phân bổ rủi ro này đã tạo điều kiện cho những người có vốn mạnh dạn đầu tư vào một công
ty làm cho nền kinh tế phát triển và có xu hướng ổn định hơn.
- Việc phát hành chứng khoán của công ty cổ phần cùng với việc chuyển nhượng mua bán
chứng khoán đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của thị