Nhân loại đang chuẩn bị hành trang cho một kỷ nguyên mới đó là hội
nhập quốc tế, một trong các đặc trưng cơ bản là xu hướng hợp tác, liên kết
giữa các Quốc gia để giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và
môi trường mang tính chất toàn cầu. Ngày nay trong quá trình phát triển của
mình, các quốc gia trên thế giới đang từng bước tạo lập nên các mối quan hệ
song phương và đa phương nhằm từng bước tham gia vào các liên kết kinh tế
quốc tế với nhiều mức độ khác nhau, đem lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên.
Chính các liên kết kinh tế quốc tế là biểu hiện của xu hướng toàn cầu hoá, khu
vực hoá đang diễn ra hết sức sôi động trong những năm gần đây. Một minh
chứng cho những vấn đề này là Đó là sự ra đời của Liên minh tiền tệ châu Âu
EMU và đồng tiền chung châu Âu EURO
Sự thành công và bài học kinh nghiệm của các nước châu Âu đã cho các
nước Đông Nam á niềm tin vào triển vọng hình thành một đồng tiền chung cho
khu vực. Trên thực tế, khả năng hình thành một liên minh tiền tệ ở Đông Nam á
đã được một số nhà kinh tế học bắt tay nghiên cứu từ năm 1994. Nhưng phải đến
sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997, đề tài này mới trở thành
mối quan tâm thực sự đối với các nhà lãnh đạo cũng như các nhà kinh tế học ở
Đông Nam Á. ASEAN hy vọng đồng tiền chung sẽ thúc đẩy nền kinh tế khu vực
tăng trưởng ổn định, bền vững, giảm bớt nguy cơ khủng hoảng và giúp ASEAN
khẳng định được vị trí của mình trên các diễn đàn kinh tế thế giới. Từ những điều
kỳ diệu mà thế giới đã làm và sẽ tiếp tục hoàn thiện đã truyền cảm hứng cho
nhóm chúng tôi nghiên cứu đề tài “ Quá trình hình thành đồng tiền chung EURO,
SDR, ACU”. Bố cục cụ thể của tiểu luận gồm hai chương như sau:
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC RA ĐỜI MỘT ĐỒNG TIỀN CHUNG
CHƯƠNG II : QUÁ TRÌNH RA ĐỜI MỘT ĐỒNG TIỀN CHUNG TRÊN THẾ
GIỚI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
48 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2943 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quá trình hình thành đồng tiền chung EURO, SDR, ACU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Quá trình hình thành đồng tiền
chung EURO, SDR, ACU
1/48
LỜI NÓI ĐẦU
Nhân loại đang chuẩn bị hành trang cho một kỷ nguyên mới đó là hội
nhập quốc tế, một trong các đặc trưng cơ bản là xu hướng hợp tác, liên kết
giữa các Quốc gia để giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và
môi trường mang tính chất toàn cầu. Ngày nay trong quá trình phát triển của
mình, các quốc gia trên thế giới đang từng bước tạo lập nên các mối quan hệ
song phương và đa phương nhằm từng bước tham gia vào các liên kết kinh tế
quốc tế với nhiều mức độ khác nhau, đem lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên.
Chính các liên kết kinh tế quốc tế là biểu hiện của xu hướng toàn cầu hoá, khu
vực hoá đang diễn ra hết sức sôi động trong những năm gần đây. Một minh
chứng cho những vấn đề này là Đó là sự ra đời của Liên minh tiền tệ châu Âu
EMU và đồng tiền chung châu Âu EURO
Sự thành công và bài học kinh nghiệm của các nước châu Âu đã cho các
nước Đông Nam á niềm tin vào triển vọng hình thành một đồng tiền chung cho
khu vực. Trên thực tế, khả năng hình thành một liên minh tiền tệ ở Đông Nam á
đã được một số nhà kinh tế học bắt tay nghiên cứu từ năm 1994. Nhưng phải đến
sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997, đề tài này mới trở thành
mối quan tâm thực sự đối với các nhà lãnh đạo cũng như các nhà kinh tế học ở
Đông Nam Á. ASEAN hy vọng đồng tiền chung sẽ thúc đẩy nền kinh tế khu vực
tăng trưởng ổn định, bền vững, giảm bớt nguy cơ khủng hoảng và giúp ASEAN
khẳng định được vị trí của mình trên các diễn đàn kinh tế thế giới. Từ những điều
kỳ diệu mà thế giới đã làm và sẽ tiếp tục hoàn thiện đã truyền cảm hứng cho
nhóm chúng tôi nghiên cứu đề tài “ Quá trình hình thành đồng tiền chung EURO,
SDR, ACU”. Bố cục cụ thể của tiểu luận gồm hai chương như sau:
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC RA ĐỜI MỘT ĐỒNG TIỀN CHUNG
CHƯƠNG II : QUÁ TRÌNH RA ĐỜI MỘT ĐỒNG TIỀN CHUNG TRÊN THẾ
GIỚI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
2/48
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC RA ĐỜI MỘT
ĐỒNG TIỀN CHUNG
I.1 Lý thuyết "Khu vực tiền tệ tối ưu"- cơ sở lý luận hình thành liên
minh tiền tệ.
Lý thuyết "Khu vực tiền tệ tối ưu" do các nhà kinh tế Mỹ R.Mundell (1961) và
R.Mc Kinnon (1963) đưa ra, trong đó nêu lên những đặc tính cơ bản nhất để
xác định một "Khu vực tiền tệ tối ưu".
Khái niệm: khu vực tiền tệ tối ưu
Trước hết, để hiểu được khái niệm "Khu vực tiền tệ tối ưu", chúng ta cần
tìm hiểu khái niệm khu vực tiền tệ. Một khu vực tiền tệ là một khu vực trong đó
tỷ giá hối đoái là cố định hoặc tồn tại một đồng tiền chung. Như vậy, mỗi nước
có một đồng tiền riêng của mình đều là một khu vực tiền tệ. Vấn đề mà
R.Mundell và R.Mc Kinnon đặt ra là liệu nước đó có phải là một khu vực tiền tệ
tối ưu hay không, hay nói cách khác, liệu nước này có những đặc điểm cho phép
nó sử dụng một cách tối ưu đồng tiền của mình hay không. Nếu câu trả lời là
không thì thứ nhất, từng vùng của nước đó có phát triển tốt hơn nếu sử dụng
đồng tiền riêng của vùng hay không, thứ hai, liệu nước đó có lợi hơn khi
tham gia vào một khu vực tiền tệ lớn hơn thay vì sử dụng đồng tiền riêng của
nước mình hay không. Để trả lời hai câu hỏi này, Mundell và Kinnon đã phát
triển thành lý thuyết trong đó nêu lên khái niệm và các tiêu chuẩn của một khu
vực tiền tệ tối ưu.
Một khu vực tiền tệ tối ưu là một khu vực "tối ưu" về mặt địa lý trong đó
phương tiện thanh toán là một đồng tiền chung hoặc là một số đồng tiền mà giá
trị trao đổi của chúng được neo cố định với nhau với khả năng chuyển đổi vô hạn
cho cả các giao dịch vãng lai và các giao dịch về vốn, nhưng tỷ giá hối đoái của
chúng lại biến động một cách hài hoà với các nước khác trên thế giới.1 "Tối ưu"
được xác định về mặt mục tiêu kinh tế vĩ mô là duy trì cân bằng cả bên trong và
bên ngoài. Cân bằng bên trong đạt được tại điểm thoả hiệp tối ưu giữa lạm phát
và thất nghiệp và cân bằng bên ngoài là sự duy trì trạng thái cán cân thanh toán
3/48
cân bằng.
I.2 Điều kiện cần thiết để hình thành một đồng tiền chung
2.1 Hình thành một thị trường thống nhất về hàng hoá, vốn và sức lao động
Nhìn lại lịch sử phát triển của Liên minh tiền tệ châu Âu, chúng ta thấy rằng
Liên minh châu Âu đã tuần tự trải qua các giai đoạn phát triển từ thấp đến cao
trước khi đạt tới trình độ của một liên minh kinh tế và tiền tệ. Đó là: khu vực
thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, giai đoạn hài hoà và
phối hợp chính sách kinh tế và cuối cùng là một liên minh kinh tế hoàn chỉnh với
một số chính sách kinh tế được hoạch định ở cấp độ khu vực. Hoàn thành ba giai
đoạn đầu chính là đã hình thành được một thị trường thống nhất về hàng hoá,
vốn và sức lao động.
Với châu Âu, có thể nói rằng hai giai đoạn đầu đã được hoàn tất tương đối
nhanh chóng và dễ dàng. Tính đến ngày 1/7/1968, tức là chỉ 10 năm rưỡi sau khi
thành lập Cộng đồng châu Âu, tất cả các hàng rào thuế quan và về số lượng đối
với hàng hoá và dịch vụ xuất và nhập khẩu đã được dỡ bỏ và Cộng đồng đã xây
dựng được một biểu thuế chung với các nước bên ngoài. Tuy nhiên, Liên minh
thuế quan vẫn chưa phải là điều kiện đủ để đảm bảo sự di chuyển tự do của hàng
hoá và dịch vụ giữa các nước trong Cộng đồng. Trên thực tế, mặc dù các hàng
rào thuế quan đã được dỡ bỏ nhưng vẫn còn vô số các rào cản thương mại khác
tồn tại dưới hình thức các tiêu chuẩn về y tế, vệ sinh, an toàn, kỹ thuật khác. Các
hàng rào phi thuế quan này thậm chí còn là một trở lực lớn hơn đối với thương
mại. Vì nếu như chỉ có các hàng rào thuế quan, các nhà xuất nhập khẩu có thể
sẵn sàng nộp thuế, nhưng khi tồn tại một hàng rào kỹ thuật, các nhà xuất nhập
khẩu không có cách gì khác hơn là thích nghi quy trình sản xuất của mình cho
phù hợp với tiêu chuẩn của từng quốc gia hoặc chấp nhận hàng hoá của mình
không thể thâm nhập thị trường nước đó.
Tuy nhiên, việc tháo dỡ các rào cản phi thuế quan lại là một công việc khó
khăn và phức tạp, do mỗi nước đều có nhu cầu sử dụng các biện pháp này nhằm
4/48
bảo hộ các ngành sản xuất trong nước, bảo vệ người lao động trong nước hay có
thể là bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng và môi trường sinh thái. Do đó, dỡ bỏ các
hàng rào này đòi hỏi phải phối hợp nhiều chính sách và luật lệ chứ không chỉ
đơn giản là cắt giảm thuế như trường hợp các hàng rào thuế quan. Các nước
thành viên Cộng đồng châu Âu đã phải mất hơn một thập kỷ kể từ khi thiết lập
thành công liên minh thuế quan, vất vả xoá bỏ các hàng rào cản kỹ thuật đối với
thương mại mà không thu được mấy thành công. Phải đến giữa những năm 1980,
Cộng đồng châu Âu mới đạt được những tiến bộ quan trọng trong lĩnh vực này,
dựa trên những khuôn khổ pháp lý và thể chế vững chắc như ký kết các Hiệp
định đa phương, thành lập Uỷ ban châu Âu, thành lập cơ quan hành pháp ở cấp
độ khu vực như Toà án tối cao châu Âu, cơ quan lập pháp như Hội đồng Bộ
trưởng. Giai đoạn "thị trường chung" được coi là chính thức hoàn thành ngày
31/12/1992, ngày hoàn tất chương trình thị trường chung do Uỷ ban châu Âu đưa
ra. Tuy nhiên, kể cả cho tới ngày hôm nay, vẫn còn nhiều lĩnh vực như dịch vụ
tài chính, năng lượng, viễn thông... cần được tiếp tục cải cách để thị trường của
Liên minh châu Âu thực sự là một thị trường chung.
Tóm lại, muốn có một thị trường chung cho khu vực để tiến tới hình thành
một đồng tiền chung, các nước thành viên phải đặt ra những mục tiêu và chương
trình cụ thể tiến tới thiết lập một thị trường chung chứ không chỉ thể dừng lại ở
tháo dỡ các hàng rào thuế quan. muốn vậy, các nước cũng cần phải chú ý hơn
nữa đến việc ổn định tỷ giá hối đoái. Sao nhãng bất cứ nội dung nào trong hai
nội dung trên (thiết lập thị trường chung và ổn định tỷ giá) đều cản trở việc thực
hiện nội dung còn lại, và cản trở việc thực hiện mục tiêu về một đồng tiền chung.
2.2 Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo các tiêu chí
thống nhất
Hiệp ước Masstricht năm 1991 đã đề ra thời gian biểu chi tiết và những điều
kiện để các nước tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình hội nhập tiền tệ châu
Âu. Trên thực tế, việc các nước ERM điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô nhằm
5/48
thực hiện các tiêu chí của Hiệp ước Masstricht đã làm tăng sự ổn định của môi
trường tiền tệ và tỷ giá hối đoái ở châu Âu từ sau năm 1993. Để đủ điều kiện
tham gia khu vực đồng tiền chung, các nước thành viên phải đạt được tỷ lệ lạm
phát và lãi suất (trên thực tế là thước đo mức lạm phát dự kiến) lần lượt không
vượt quá 2% và 1,5% so với mức trung bình của ba nước thành viên có tỷ lệ lạm
phát thấp nhất. Hai tiêu chí này chủ yếu nhằm mục đích hạn chế sự biến động
của tỷ giá thực tế khi tỷ giá danh nghĩa đã được ấn định. Thêm vào đó, các nước
này còn phải duy trì được tỷ giá ổn định trong biên độ cho phép của ERM mà
không đơn phương điều chỉnh tỷ giá trung tâm trong ít nhất hai năm trước khi
gia nhập khu vực đồng tiền chung. Điều này sẽ buộc các nước thành viên tương
lai khi hoạch định chính sách tiền tệ phải cân nhắc đến lợi ích của cả khối chứ
không chỉ là lợi ích của nước mình.
Ngoài ra, có hai tiêu chí về mức thâm hụt ngân sách không quá 3% GDP và
tỷ lệ nợ/GDP không quá 60% hay chí ít cũng đang giảm xuống mức này với một
tốc độ thoả đáng. Mục đích của hai tiêu chí này là để tránh sự mất cân đối của
một nước thành viên ảnh hưởng tiêu cực đến một nước thành viên khác thông
qua áp lực thực hiện chính sách tiền tệ lỏng quá mức hay thậm chí là cho vay để
cứu nguy cho chính phủ nước đó. Các nước Liên minh châu Âu đặc biệt coi
trọng sự ổn định về mặt tài khoá. Hiệp ước ổn định và phát triển của Liên minh
thậm chí còn đề ra điều khoản phạt đối với nước nào để cho mức thâm hụt tài
chính quá 3%.
Hiệp ước Masstricht một phần nhằm mục đích tạo ra một cơ chế loại bỏ
những nước thành viên mà khi đã tham gia liên minh tiền tệ có thể không muốn
áp dụng một chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng, và khi đó sẽ làm ảnh hưởng
tiêu cực đến các nước thành viên khác trong liên minh. Mục đích cuối cùng là để
hạn chế sự biến động của tỷ giá hối đoái thực tế giữa các nước thành viên EMU
và tránh khả năng một số nước thi hành chính sách tài khoá lỏng, dẫn đến áp lực
lạm phát trong toàn bộ liên minh. Rộng hơn nữa, các tiêu chí này còn nhằm tạo
6/48
ra một môi trường ổn định giá cả và dần dần chuyển các chính sách kinh tế vĩ
mô từ phục vụ lợi ích của từng nước sang phục vụ lợi ích của cả liên minh.
Như vậy, điều chỉnh kinh tế để hội nhập là một tiền đề quan trọng để tránh
sự bất ổn định về kinh tế vĩ mô do những thay đổi trong khả năng cạnh tranh và
chính sách tiền tệ gây ra, và do đó, là một yêu cầu quan trọng trong giai
đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của một đồng tiền chung.
Nói chung, kinh nghiệm của các nước châu Âu cho thấy rằng chính sách tài
khoá và tiền tệ nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô là một tiền đề để ổn định tỷ
giá hối đoái. Và chính sách tiền tệ chung và/hoặc các thoả thuận tỷ giá hối đoái
chỉ có thể thành công nếu các chính sách này được tiến hành kết hợp với một
chính sách nhằm điều chỉnh kinh tế vĩ mô để hội nhập.
2.3 Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá
Nhìn lại quá trình phát triển của cơ chế liên kết tỷ giá ở châu Âu, chúng ta
có thể thấy cơ chế này đã trải qua ba giai đoạn lớn như sau:
Giai đoạn một bắt đầu từ khi thành lập Cộng đồng vào năm 1957 cho đến
khi thiết lập hệ thống tiền tệ Châu âu năm 1979. Sự phối hợp trên lĩnh vực tỷ giá
hối đoái ở giai đoạn này nhìn chung còn lỏng lẻo, kể cả trong khuôn khổ Hệ
thống Bretton Woods cũng như cơ chế "Con rắn tiền tệ" của các nước Châu Âu.
Trên thực tế, các nước đều đã nhận thấy nhu cầu phối hợp trong lĩnh vực tỷ giá
hối đoái cũng như chính sách tài chính và tiền tệ và đã thành lập một số uỷ ban
nhằm mục đích thúc đẩy các hoạt động này như Hội đồng các Bộ trưởng Tài
chính, Uỷ ban châu Âu, Hội đồng các thống đốc NHTW của Cộng đồng... Tuy
nhiên, sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ và cuộc khủng hoảng dầu lửa lần
thứ nhất nổ ra năm 1973, các nước đã không thể thống nhất được về một biện
pháp đối phó chung. Mỗi nước tự đưa ra chính sách tài khoá và tiền tệ riêng của
mình để đối phó và tỷ giá hối đoái càng trở nên bất ổn định. Cuối cùng, các nước
áp dụng chính sách kinh tế vĩ mô lỏng đã buộc phải rút lui khỏi cơ chế "Con rắn
tiền tệ" và thả nổi đồng tiền của mình.
7/48
Giai đoạn hai được đánh dấu bằng sự ra đời của Hệ thống tiền tệ châu Âu
và kéo dài đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng cơ chế tỷ giá ERM vào năm 1992-
1993. Giai đoạn này, các nước châu Âu đã đạt được những thành tựu đáng kể
trong lĩnh vực liên kết tỷ giá hối đoái, và dần dần đã đạt được một mức độ phối
hợp đáng kể trong lĩnh vực chính sách tài chính, tiền tệ. Giai đoạn đầu của Hệ
thống tiền tệ Châu âu cũng gặp phải những vấn đề hệt như giai đoạn "Con rắn
tiền tệ", các nước thành viên liên tục phải điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên,
dần dần, với một ngân hàng trung ương độc lập và chính sách tiền tệ theo đuổi
mục tiêu ổn định giá cả, đồng Mark Đức đã trở thành nước neo giá danh nghĩa
cho đồng tiền các nước trong hệ thống. Một số nước, cụ thể như Pháp, đã sử
dụng tỷ giá hối đoái so với đồng D-Mark làm phương tiện chính để ổn định kinh
tế vĩ mô. Các lần điều chỉnh tỷ giá trở nên thưa hơn và kể từ năm 1987 cho đến
cuộc khủng hoảng của ERM vào năm 1992 thì không có lần điều chỉnh tỷ giá
trung tâm nào. Thời kỳ cuối của giai đoạn này đã chứng kiến một cuộc khủng
hoảng tỷ giá, Italia và Anh rời bỏ cơ chế tỷ giá còn biên độ dao động của các
nước còn lại được mở rộng tới ±15%.
Giai đoạn cuối cùng bắt đầu từ năm 1993 và kéo dài cho tới nay. Đây là giai
đoạn phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô thành công với các mục tiêu chung về
các chính sách tài khoá, tiền tệ, và tỷ giá hối đoái theo Hiệp ước Masstrict. Việc
biên độ dao động được mở rộng tới ±15% vào tháng 8/1993 đã cho phép các
nước có được một sự linh hoạt nào đó trong vấn đề tỷ giá hối đoái, giảm bớt sự
căng thẳng của thị trường ngoại hối và nguy cơ các cuộc tấn công đầu cơ.
Giai đoạn này đem lại một bài học bổ ích cho bất cứ nhóm nước nào xem
xét việc thành lập một liên minh tiền tệ trong tương lai. Trong điều kiện ngày
nay, các dòng vốn càng ngày càng được tự do di chuyển, gây khó khăn cho việc
ổn định tỷ giá hối đoái. Chính vì vậy, để hình thành một liên minh tiền tệ .
2.4 Tạo lập một đồng tiền khu vực và hình thành một ngân hàng trung ương
độc lập với chính sách tiền tệ thống nhất
8/48
Một liên minh tiền tệ không thể tồn tại nếu thiếu một đồng tiền chung. ở
Liên minh tiền tệ châu Âu, đồng tiền chung với tên gọi đồng Euro đã được phát
triển từ đơn vị kế toán của châu Âu lên thành đơn vị tiền tệ châu Âu, đồng ECU.
So với đơn vị kế toán châu Âu, đồng ECU tồn tại với một hình thái cụ thể hơn,
không chỉ được sử dụng để tính toán mà còn được sử dụng làm giá trị trung tâm
của cơ chế tiền tệ châu Âu, làm cơ sở để nhận biết sự biến động khỏi biên độ cho
phép của một đồng tiền thành viên, làm phương tiện thanh toán trong các giao
dịch giữa các NHTW trong Cộng đồng.
Sau đó, khi đã chuẩn bị đầy đủ các tiền đề khác, ngày 1/1/1999, một đồng
tiền chung, đồng Euro, đã chính thức ra đời và tồn tại với đầy đủ các chức năng
của một đồng tiền. Đồng Euro thay thế đồng ECU với tỷ lệ 1:1 và các nước châu
Âu thậm chí đã chờ thêm ba năm nữa trước khi phát hành đồng Euro để sử dụng
rộng rãi trong dân chúng.
Nói đến EMU không thể không nói đến Ngân hàng trung ương châu Âu
(ECB) và hệ thống các NHTW các nước thành viên. Trên thực tế, NHTW châu
Âu đã được phát triển từ Quỹ hợp tác tiền tệ châu Âu (EMCF) và sau này là Viện
tiền tệ châu Âu (EMI). Khi EMI ra đời, các mục tiêu hoạt động của EMCF được
chuyển giao cho EMI (1/1994) và sau đó lại được chuyển giao cho Hệ thống
Ngân hàng trung ương châu Âu (ESCB) đảm nhiệm (1998). Mục tiêu quan trọng
nhất của ECB là duy trì sự ổn định giá cả của toàn khu vực đồng Euro, vì EU cho
rằng sự ổn định giá cả sẽ là điều kiện tiên quyết để tạo ra một môi trường ổn định
để khuyến khích các hoạt động kinh tế, tạo công ăn việc làm, và nói một cách
tổng quát là tăng phúc lợi xã hội, do đó, sẽ góp phần đạt được các mục tiêu
chung của Cộng đồng.
Tất nhiên, trong quá trình phát triển của mình, rất có thể có những giai
đoạn một hoặc một vài nước thành viên muốn hy sinh mục tiêu ổn định giá cả để
giải quyết các ưu tiên khác, như vấn đề thất nghiệp chẳng hạn. Chính vì vậy mà
sự tồn tại của một ngân hàng trung ương độc lập với một chính sách tiền tệ thống
nhất là một điều kiện vô cùng quan trọng cho sự tồn tại của một liên minh tiền tệ.
9/48
Ngân hàng trung ương của liên minh và hệ thống các ngân hàng trung
ương quốc gia phải đảm bảo sự độc lập trong quá trình hoạch định và thực thi
các nhiệm vụ về chính sách tiền tệ của mình. Chỉ khi có được sự độc lập đó thì
mục tiêu ổn định giá cả mới có thể được thực hiện một cách hiệu quả. Trên thực
tế, hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu đã và đang tồn tại độc lập, không
chịu sức ép của một thế lực chính trị nào nhằm phục vụ cho các mục tiêu và lợi
ích ngắn hạn của họ. Hàng năm ECB công bố mục tiêu ổn định giá cả của mình
và cam kết thực hiện chúng, dưới sự giám sát và đánh giá một cách dễ dàng của
tất cả các nước thành viên.
Tóm lại, một liên minh tiền tệ nhất thiết sẽ đòi hỏi sự ra đời một ngân hàng
trung ương và một đồng tiền chung. Và để ra đời một ngân hàng và một đồng
tiền như vậy, đòi hỏi phải có một quá trình chuẩn bị như tồn tại một thể chế khu
vực dưới dạng quỹ tiền tệ khu vực, một đơn vị kế toán hay thanh toán chung của
khu vực. Có như vậy, ngân hàng trung ương và đồng tiền chung mới có thể ra
đời một cách xuôn xẻ và hiệu quả
I.3 Lợi ích của việc hình thành đồng tiền chung
3.1 Lợi ích ngăn ngừa, kiểm soát khủng hoảng của khu vực
Thực tế này nói lên rằng tất cả các nước trong khu vực đều không thể thờ ơ
trước một cuộc khủng hoảng xảy ra ở một nước thành viên, vì những hậu quả
nghiêm trọng của một cuộc khủng hoảng như vậy rất có thể lây lan từ nước này
sang nước khác và gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Đây chính là điều khiến
một nước trong khu vực quan tâm đến các chính sách kinh tế vĩ mô .
Một động cơ khác là nhu cầu tiếp cận với các nguồn vốn của các nước láng
giềng trong trường hợp xảy ra các cuộc tấn công đầu cơ vào đồng tiền một nước
thành viên. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 đã cho thấy rằng các cơ chế
quốc tế để hỗ trợ tài chính hiện có (do IMF phối hợp) là không đủ đối với các
nước. Các nguồn vốn do IMF nỗ lực cung cấp không những chưa đủ về quy mô,
tốc độ giải ngân quá chậm và thường đi kèm với những điều kiện kinh tế vĩ mô
không phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của các quốc gia bị khủng hoảng.
10/48
Các nghiên cứu về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á thường có cùng
chung một kết luận là cuộc khủng hoảng đã bắt nguồn từ những yếu kém trong
lĩnh vực tài chính và khu vực doanh nghiệp và các chương trình cải cách sau
khủng hoảng nên tập trung vào các vấn đề trên.
2.2 Lợi ích ổn định tỷ giá hối đoái:
Hai thập kỷ qua đã chứng kiến sự biến động tỷ giá hối đoái danh nghĩa và
thực tế giữa các đồng tiền lớn - đôla Mỹ, yên Nhật, các đồng tiền châu Âu trong
EMS cả trong ngắn hạn và trong trung hạn. Tỷ giá giữa các đồng tiền chính biến
động mạnh sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ (từ 1945 đến 1971). Trong
trung hạn, tỷ giá cũng biến động mạnh như giai đoạn lên giá của đồng đôla Mỹ
1980-85.
Các nước công nghiệp lớn vẫn chủ trương thả nổi tỷ giá và hạn chế can
thiệp trên thị trường tiền tệ, ngoại trừ những lần căng thẳng và mất cân đối cao
độ đe dọa trực tiếp triển vọng kinh tế nước họ.
Tóm lại, có rất nhiều khó khăn cho các nước đang phát triển trong việc tìm
giải pháp đơn phương để kiểm soát thị trường tiền tệ và ngăn ngừa khủng hoảng
tài chính bởi vì vẫn chưa có các thỏa thuận quốc tế để thiết lập hệ thống tỷ giá ổn
định. Mộ